Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

LÝ LUẬN ĐỊNH TỘI DANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.68 KB, 31 trang )

Chương 1.
KHÁI NIỆM ĐỊNH TỘI DANH
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊNH TỘI DANH
Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự (QPPLHS) diễn ra phức
tạp và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh, định khung hình phạt,
và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất
trong ba giai đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh
được tiến hành thực hiện ở tất cả các giai đoạn của cả quá trình tố tụng hình sự từ
giai đoạn khởi tố đến giai đoạn thi hành án. Trong khi đó bước quyết định hình
phạt chỉ được tiến hành thực hiện ở giai đoạn xét xử.
Định tội danh là một trong những biện pháp đưa Bộ luật hình sự (BLHS)
vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta.
Định tội danh là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp (sự đồng nhất)
giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan với các
dấu hiệu trong cấu thành tội phạm (CTTP) tương ứng được quy định trong
BLHS. Hay nói cách khác, Định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã
thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong số các tội
phạm đã được quy định trong BLHS.
Về phương pháp định tội danh: Chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp,
phân tích, quy nạp, diễn dịch và quan trọng hơn cả là phương pháp loại trừ.
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy định tội danh có 4 đặc điểm như sau:
a. Định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý luận và
thực tiễn. Thể hiện dưới 2 khía cạnh: xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP cụ thể trong BLHS và đưa ra
sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong
thực tế.
b. Quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy
phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS cũng như các quy phạm pháp luật của
luật hình thức là Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).


c. Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) để cụ thể hoá các
QPPLHS trìu tượng vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ
các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn
nội dung của các QPPLHS.
d. Định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự được tiến hành theo 04 bước sau:
Bước1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy ra
trên thực tế khách quan.
Đối với bước này, đòi hỏi người định tội danh phải đánh giá các tình tiết
của vụ án một cách khách quan, toàn diện, vô tư, không định kiến, không suy
1
diễn. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được và đánh giá theo quy định của
BLTTHS.
Mỗi một tình tiết trong vụ án bước đầu đánh giá chúng một cách độc lập để
thấy được sự thể hiện tính chất của nó là loại hành vi nào. Sau đó, chính tình tiết
đó lại tiếp tục đặt trong mối quan hệ với các tình tiết khác trong vụ án, thì kết
luận về tính chất của tình tiiết này mới là sự thể hiện về bản chất của nó trong cả
quá trình của vụ án.
Đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong
tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng diễn biến của vụ án đã xẩy
ra. Bởi vì, cùng một tình tiết, nhưng đặt trong mỗi hoàn cảnh khác nhau thì chúng
khác nhau về bản chất. Kết luận về từng tình tiết độc lập, không thể phản ánh
đúng về bản chất của tình tiết đó trong toàn bộ diễn biến của vụ án.
Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy
phạm pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của CTTP về tội danh có hướng
lựa chọn.
Các dấu hiệu trong CTTP được quy định trong BLHS mang tính trìu tượng
chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến để điều chỉnh
hiện tượng thực tế muôn hình muôn vẻ. Đòi hỏi phải có quá trình tư duy để nhận

thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung của các dấu hiệu trong CTTP. Rất nhiều các
QPPLHS chưa xác định rõ ràng ranh giới giữa chúng với nhau. Ví dụ: Điều 93
với Điều 95 với Điều 96 và với Điều 97. Hoặc là hành vi khác trong tội cướp với
hành vi khác trong tội cưỡng đoạt tài sản. Hoặc việc quyết định hình phạt trong
trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng đồng thời có nhiều tình tiết giảm
nhẹ. Hoặc như thế nào là nguy hiểm đáng kể và nguy hiểm chưa đáng kể. Hoặc
ranh giới giữa Phòng vệ chính đáng với vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Chưa kể còn một số quy định trong BLHS thể hiện rõ sự bất cập của nó như:
chính sách hình sự đối với người phạm tội chưa đủ 16 tuổi. Tình tiết phạm tội
nhiều lần của tội cố ý gây thương tích. Hoặc trộm cắp tài sản nhiều lần, mỗi lần
giá trị tài sản dưới 500.000đ.
Trong các trường hợp này đòi hỏi người định tội danh phải tự đánh giá trên
căn cứ khoa học và căn cứ thực tế sao cho có sức thuyết phục. Hay nói cách khác,
đòi hỏi người định tội danh phải có trình độ pháp lý hình sự.
Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình trên.
Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các quyết định
có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về 3 bước trên để xác định tội danh cần áp
dụng đối với trường hợp phạm tội của người đó.
Qua các đặc điểm của định tội danh đã phân tích ở trên có thể đưa ra khái
niệm định tội danh như sau: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có
tính lô gích, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
PLHS, PLTTHS. Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được phản ánh các
tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác
định sự phù hợp của chúng với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do
BLHS quy định
2
Có thể thấy được đặc điểm và các yêu cầu của hoạt động định tôi danh
thông qua việc đánh giá một tình huống cụ thể sau:
Tình huống: Do mâu thuẫn trong viẹc tranh chấp đất đai nên Đỗ Văn
Tuyên, Đỗ Văn Cần nhiều lần rượt, đuổi đánh chém Nguyễn Văn Hùng. Thấy

cha, chú có hành vi như thế nên Đõ Trương Tín là con cũng trực tiếp đánh chém
Nguyễn Văn Hùng. Biết Hùng làm nghề hớt tóc ở thôn 2, xã Nghĩa Dũng, Thị xã
Quảng Ngãi, nên Tín (sinh năm 1989) đón đường để đánh. Sáng 28/05/2002,
Hùng đi làm bằng xe máy, khi đến gần ngã ba giáp ranh thôn 3 và thôn 4 thuộc
xã Nghĩa Dũng thì Tín cầm một con dao dài khoảng 30 cm và đá đứng chặn
đường để đánh Hùng, Hùng sợ nên quay xe về nhà để lánh mặt. Khoảng 10 phút
sau, Hùng tiếp tục điều khiển xe máy nêu trên đến tiệm hớt tóc, khi đến đoạn
đường trên, Tín vẫn cầm daovaf đá đứng chặn đường. Nhìn thấy Hùng, ngay lập
tức đuổi theo để đánh, Hùng bỏ chạy vào nhà một người dân trước chợ Nghĩa
Dũng, Tín tiếp tục đuổi theo và dùng đá chọi Hùng và Hùng cũng nhặt đá chọi lại
Tín, sau đó được mọi người can ngăn nên Tín đi về phía Tây, còn Hùng điều
khiển xe máy về nhà ở thôn 5, xã Nghĩa Dũng, thị xã Quảng Ngãi.Về đến nhà
Hùng nhìn thấy cây rựa dài 77cm để ở sân nên cầm lấy mang theo và tiếp tục
điều khiển xe máy đi làm. Khi đến đoạn gần ngã ba nêu treenthif Tín vẫn cầm
dao và đá đứng chặn đường, nhìn thấy Hùng, Tín dùng đá ném Hùng và Hùng
dùng đá chọi lại Tín. Sau đó Tín cầm dao xông đến chém Hùng và Hùng cầm rựa
xông vào Tín, khi đến gần nhau Tín đưa dao lên chém ngang cổ Hùng và Hùng
cầm rựa chém lại trúng vào tay cầm dao của Tín gây thương tích 33%.
1.2. PHÂN LOẠI ĐỊNH TỘI DANH
Căn cứ vào chủ thể thực hiện việc định tội danh, khoa học luật hình sự chia
định tội danh thành 2 nhóm:
1.2.1. Định tội danh chính thức
Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp lý
hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước uỷ quyền
thực hiện.
Định tội danh chính thức có các đặc điểm sau:
+ Về chủ thể của định tội danh chính thức: Chỉ có thể là người tiến hành tố
tụng. Bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
+ Về hậu quả pháp lý của định tội danh chính thức: Những đánh giá,
những kết luận của chủ thể của định tội danh chính thức là cơ sở pháp lý để khởi

tố vụ án, để áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Là cơ sở để ra bản kết luận điều
tra, bản cáo trạng và ra bản án.
1.2.2. Định tội danh không chính thức
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không phải về mặt Nhà
nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể.
Định tội danh không chính thức có các đặc điểm sau:
+ Về chủ thể của định tội danh không chính thức: Là ngoài nhóm chủ thể
của định tội danh chính thức. Thông thường chủ thể của định tội danh không
chính thức là những người làm công tác nghiên cứu thể hiện trong các công trình
3
nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách giáo khoa, bài báo. Hoặc là luật gia, luật sư
hay bất kỳ người nào quan tâm đến việc nghiên cứu một vụ án hình sự cụ thể đưa
ra những bình luận về vụ án đó về phương diện định tội danh.
+ Về hậu quả pháp lý của định tội danh không chính thức: Định tội danh
không chính thức không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên có
liên quan trong vụ án mà chỉ là sự thể hiện ý kiến, quan điểm riêng của các chủ
thể này như là sự thể hiện phương pháp nhận thức PLHS.
1.3. Ý NGHĨA CỦA ĐỊNH TỘI DANH
Hoạt động định tội danh của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội
danh đúng hoặc định tội danh sai.
1.3.1. Đối với hoạt động định tội danh đúng
Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá
thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật.
Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc
tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế,
trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự,
nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.
Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử qua
đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do dân chủ của công dân

trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
1.3.2. Đối với hoạt động định tội danh sai
Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm
bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự
người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các
quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận
trong Nhà
Định tội danh sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế
XHCN, ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nghị quyết 388/ UBTVQH ban hành ngày 17/03/2003 về bồi thường oan
trong tố tụng hình sự
Những vụ việc oan sai chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá chứng cứ phiến
diện, thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm giam, suy diễn chủ quan.
4
Chương 2.
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH TỘI DANH
2.1. VAI TRÒ CỦA BLHS ĐỐI VỚI ĐỊNH TỘI DANH
Các văn bản pháp luật - là cơ sở pháp lý - được sử dụng trong hoạt động
định tội danh đó là: BLHS, BLTTHS. Văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật
giao thông đường bộ, luật phòng chống ma tuý, Nghị định 11/CP ngày 03/03/99
quy định danh mục các mặt hàng cấm. Nghị quyết của Quốc Hội, Nghị quyết của
UBTVQH, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Thông
tư liên ngành của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp. Công văn
của ngành của 3 cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong số các văn bản pháp luật trên thì BLHS là cơ sở pháp lý trực tiếp
cho toàn bộ quá trình định tội danh. Các văn bản pháp luật còn lại chỉ với tính
chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho quá trình này. Bởi vì:
Thứ nhất: Nhà làm luật khi xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự
(nghĩa là thực hiện chức năng tội phạm hoá) đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc
trưng cơ bản nhất, phổ biến nhất và hay được lặp lại nhiều nhất trong những hành

vi ấy, sau đó điển hình hoá và quy định chúng trong BLHS với tính chất là các
dấu hiệu trong CTTP.
Thứ hai: Điều luật về từng tội phạm cụ thể trong BLHS đã chứa đựng đầy
đủ các dấu hiệu đặc trưng, điển hình bắt buộc không thể thiếu được của một loại
CTTP. Tất cả các dấu hiệu đó tập hợp thành một hệ thống liên quan chặt chẽ với
nhau trở thành khuôn mẫu pháp lý (mô hình tội phạm), làm cơ sở cho người định
tội danh so sánh, đối chiếu với hành vi phạm tội đã xảy ra.
Thứ ba: BLHS liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.
Sự liệt kê đầy đủ này thể hiện một nguyên tắc đã được quy định tại Điều 2
BLHS: "Chỉ người nào phạm một tội đã được quy định trong BLHS mới phải
chịu TNHS". Quy định này loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan, một
tổ chức, một cá nhân nào có sự thay đổi theo hướng mở rộng hay thu hẹp mô
hình CTTP đã được quy định trong BLHS. Mà thẩm quyền này chỉ do một cơ
quan duy nhất là Quốc Hội thể hiện trong BLHS.
Thứ tư: Các văn bản pháp luật khác chứa đựng các quy phạm pháp luật về
nội dung chỉ là sự tiếp tục, cụ thể hoá các quy phạm đã được quy định trong
BLHS là mô hình CTTP.
2.2. CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐƯỢC ÁP DỤNG KHI
ĐỊNH TỘI DANH
Quá trình thực hiện tội phạm thể hiện như sau:
Ý định phạm tội biểu lộ ý định phạm tội chuẩn bị phạm
tội
5
phạm tội chưa đạt tội phạm hoàn thành Che giấu tội
phạm
Không tố giác TP
Chứa chấp
Tiêu thụ
Trong quá trình trên, TNHS chỉ đặt ra từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Để
xác định TNHS của người phạm tội ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình trên

đều phải và chỉ phải dựa vào các quy phạm pháp luật trong BLHS.
Các quy phạm pháp luật trong BLHS được chia làm 2 nhóm căn cứ vào nội
dung và tính chất của chúng, đó là các quy phạm pháp luật phần chung và các
quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể. Hai nhóm quy phạm pháp luật này
có mối liên quan hữu cơ, thống nhất với nhau trong quá trình định tội danh và
quyết định hình phạt. Để áp dụng được các quy phạm pháp luật phần riêng phải
dựa vào các quy phạm pháp luật phần chung và ngược lại các quy phạm pháp luật
phần chung nếu không có các quy phạm pháp luật phần riêng thì chúng hoàn toàn
không có ý nghĩa. Chính vì vậy mà các dấu hiệu trong mỗi CTTP được quy định
trong cả phần chung và phần riêng.
Đối với các quy phạm pháp luật phần chung được chia thành các nhóm
như sau:
+ Những quy phạm quy định về chế định: như chế định đồng phạm, chế
định phòng vệ chính đáng, chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, chế định
lỗi vv
+ Những quy phạm quy định khái niệm: như khái niệm tội phạm (Điều 8),
khái niệm hình phạt (Điều 26).
+ Những quy phạm quy định về nguyên tắc: như Điều 3 quy định về
nguyên tắc xử lý
+ Những quy phạm quy định về điều kiện:như điều kiện áp dụng các loại
hình phạt.
Đối với các quy phạm phần các tội phạm cụ thể được chia thành 2 nhóm:
+ Những quy phạm quy định về từng tội phạm cụ thể và hình phạt áp dụng
đối với từng tội phạm đó.
+ Những quy phạm quy định về khái niệm: như khái niệm tội phạm chức
vụ, khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
2.3. CƠ CẤU CỦA QPPLHS TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH
Cấu trúc của một quy phạm pháp luật thông thường có 3 bộ phận. Đó là:
Bộ phận giả định, quy định và bộ phận chế tài.
Đối với các QPPLHS thì bộ phận giả định được đề cập ở phần chung của

BLHS chỉ dấu hiệu lỗi, chủ thể, không gian, thời gian vv Còn bộ phận quy định
và chế tài được đề cập trong phần riêng của BLHS.
Phần quy định của QPPLHS có đặc tính chung là mang tính cấm chỉ, bao
gồm 4 loại:
a. Quy định đơn giản: Là loại quy định chỉ nêu tên gọi của tội phạm như:
Điều 136, Điều 137, Điều 138, Điều 143, Điều 145 vv
6
b. Quy định mô tả: Là loại quy định xác định một cách cụ thể các dấu hiệu
đặc trưng cơ bản của tội phạm ấy ngay trong phần quy định của điều luật
c. Quy định viện dẫn: Là loại quy định muốn xác định nội dung phần quy
định của QPPL đó phải thông qua một điều lật khác trong BLHS như: Điều 153,
Điều 156, Điều 161, Điều 313, Điều 314. Điều 285.
d. Quy định mẫu: Là loại quy định muốn xác định nội dung của nó phải
thông qua sự xác định các QPPL của các ngành luật khác như: Điều 202, các tội
phạm ma tuý.
Về cấu trúc thì thông thường một điều luật phần các tội phạm cụ thể đề cập
đến một mô hình tội phạm, nhưng có một số điều luật đề cập đến nhiều mô hình
tội phạm với một chế tài chung. Ví dụ Điều 120, Điều 194.
2.4. CẤU THÀNH TỘI PHẠM LÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH TỘI
DANH
Về nội dung của CTTP là các yếu tố cần và đủ cho việc định tội, nó là các
dấu hiệu điển hình nhất, đặc trưng nhất có tính chất lặp lặp lại trong các hành vi
phạm tội cùng loại nói lên bản chất của tội phạm ấy và được nhà làm luật pháp
điển hoá trong BLHS
Tính chất của CTTP là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm và là cơ sở pháp
lý duy nhất cho việc ĐTD. Chỉ có trên cơ sở xác nhận sự phù hợp đầy đủ các dấu
hiệu của CTTP, thì mới có căn cứ để khẳng định hành vi của một người bị luật
hình sự cấm và bị trở thành người phạm tội
Về vị trí pháp lý các dấu hiệu của CTTP được quy định ở phần chung và
phần các tội phạm cụ thể trong bộ luật hình sự nên trong khi định tội chủ thể định

tội danh phải có sự đánh giá một cách toàn diện các QPPL phần riêng và các quy
phạm pháp luật phần chung trong Luật hình sự.
Cấu trúc của CTTP: có 04 yếu tố là khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan và chủ thể.
Đặc điểm của CTTP thể hiện như sau:
+ CTTP là một hệ thống các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có
tính chất bắt buộc.
+ Các dấu hiệu của CTTP nhất thiết phải được và chỉ được quy định một
cách đầy đủ trong BLHS.
+ CTTP là một khái niệm khoa học pháp lý có tính trìu tượng
+ CTTP là mô hình pháp lý của tội phạm.
Việc làm rõ các dấu hiệu của CTTP là một đảm bảo quan trọng đối với
việc định tội danh, đòi hỏi người định tội danh phải có trình độ lý luận về pháp
luật hình sự, có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn. Bên cạnh đó,
đòi hỏi phải có các văn bản giải thích hướng dẫn chi tiết nội dung của BLHS để
đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất. Ví dụ: cần phải ban hành văn bản để
giải thích tình tiết người già, về mức bồi thường thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ.
Chức năng của CTTP trong ĐTD
+ Chức năng nền tảng: Sở dĩ CTTP có chức năng này là vì, để xác định
hành vi của một người có bị coi là tội phạm hay không và để xác định nó là tội
7
nào chỉ có thể dựa vào CTTP.
+ Chức năng phân biệt: Trong phần quy định của quy phạm pháp luật hình
sự mô tả đầy đủ chính xác các dấu hiệu của tội phạm dựa vào đó nó cho phép
người định tội danh phân biệt tội này với tội khác, khung hình phạt này với
khung hình phạt khác. Từ đó có cơ sở để lựa chọn loại tội và khung hình phạt
thích hợp.
+ Chức năng đảm bảo: Thể hiện ở nguyên tắc một người chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu trong
CTTP và ngược lại.

8
Chương 3.
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ĐỊNH TỘI DANH
Việc xác định TNHS của người phạm tội bao gồm việc định tội danh, định
khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là cơ sở tiền đề
cho việc định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
Để thực hiện việc định tội danh được đúng đắn qua đó phát huy được mặt
tích cực trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đòi hỏi người
định tội danh phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án đã xẩy ra trong thực tế.
Phải có sự hiểu biết chính xác, sâu sắc PLHS. Qua đó xác định cơ sở pháp lý và
cơ sở thực tế của vụ án là nội dung cơ bản của quá trình định tội danh. Từ đó,
đảm bảo việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự về phương diện định tội danh là một quá
trình hoạt động tư duy, phức tạp diễn ra theo 3 giai đoạn có tính lô gích như sau:
3.1. GIAI ĐOẠN XÁC ĐỊNH LOẠI QUAN HỆ PHÁP LUẬT
Giai đoạn này thể hiện bằng việc phân tích các dấu hiệu cơ bản nhất của
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện xem có dấu hiệu vi phạm pháp luật
hay không. Nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật phải xác định có dấu hiệu tội
phạm hay chỉ là vi phạm pháp luật khác.
Cơ sở pháp lý để xác định hành vi của một người có dấu hiệu tội phạm hay
không là căn cứ vào Điều 8 BLHS.
Hậu quả pháp lý của giai đoạn này về mặt tố tụng thường xảy ra 03 khả
năng:
1. Không được khởi tố vụ án khi có 1 trong 7 căn cứ được quy định trong
Điều 107 của BLTTHS năm 2003.
Các căn cứ đó là: không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội
phạm; người thực hiện hành vi chưa đủ tuổi chịu TNHS; hết thời hiệu truy cứu
TNHS; người phạm tội được đại xá; người phạm tội đã chết, trừ trường hợp cần
tái thẩm đối với người khác; có quyết định đình chỉ vụ án.

2. Nếu là hành vi vi phạm pháp luật khác thì tuỳ theo từng giai đoạn TTHS
mà các cơ quan tiến hành tố tụng báo cho các cơ quan hữu quan có thẩm quyền
giải quyết.
3. Nếu có dấu hiệu tội phạm, thì có nghĩa là đã phát sinh quan hệ pháp
luật hình sự, và như vậy chuyển sang giai đoạn 2.
Có dấu hiệu tội phạm tức là có 01 trong 5 căn cứ được quy định tại Điều
100 BLTTHS năm 2003. Cụ thể: Tố giác của công dân; tin báo của cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; người
phạm tội tự thú; cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm trực tiếp phát hiện tội phạm.
3.2. GIAI ĐOẠN TÌM NHÓM QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐƯỢC
ÁP DỤNG
Sau khi đã xác định được có quan hệ pháp luật hình sự phát sinh, bước tiếp
9
theo là phải tìm ra nhóm quy phạm pháp luật hình sự áp dụng. Tức là xác định
xem tội phạm mà chủ thể thực hiện thuộc chương nào tương ứng phần các tội
phạm cụ thể của BLHS. Để giải quyết bước này người định tội danh cần phải xác
định một trong hai nội dung.
1. Xác định chủ thể của tội phạm có các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt hay
không.
2. Xác định loại quan hệ xã hội bị tội phạm đó xâm hại.
Sở dĩ phải xác định 2 nội dung trên là cơ sở để xác định nhóm QPPLHS cần áp
dụng, bởi vì các tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS được sắp xếp thành
từng nhóm, từng chương căn cứ vào khách thể loại của tội phạm và một số
chương được sắp xếp căn cứ vào đặc điểm chủ thể.
3.3. GIAI ĐOẠN TÌM MỘT QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỤ THỂ
VÀ KIỂM TRA QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐÓ.
Ở giai đoạn 2, khi đã xác định được hành vi phạm tội thuộc vào chương
nào trong BLHS thì bước tiếp theo là phải so sánh, đối chiếu và kiểm tra xem tội
phạm đã thực hiện thuộc loại tội phạm nào (Điều luật nào, QPPL nào). Đồng thời

phải xác định xem chúng thuộc loại CTTP nào tương ứng (CTTP tăng nặng hay
CTTP giảm nhẹ). Tức là xác định được chúng thuộc khoản nào trong điều luật cụ
thể đã tìm được.
Quá trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh các tình tiết của vụ án với các dấu
hiệu trong cấu thành tội phạm đã lựa chọn phải được tiến hành với từng hành vi
mà chủ thể đã thực hiện. Hành vi nào nguy hiểm nhất cho xã hội phải được kiểm
tra đầu tiên. Nếu có nhiều hành vi thì phải sắp xếp chúng theo trình tự thời gian
phản ánh đúng diễn biến của sự việc. Đồng thời phải đặt các hành vi đó trong
mối quan hệ với nhau.
Trong vụ án đồng phạm thì phải bắt đầu kiểm tra hành vi của ngườì thực
hành, vì bản chất của tội phạm được thể hiện tập trung nhất trong những hành vi
của người thực hành. Quá trình kiểm tra phải tiến hành với từng người một.
Việc kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự cần áp dụng phải dựa vào các
yếu tố của CTTP và quá trình này lần lượt bắt đầu từ khách thể, mặt khách quan,
chủ thể, và cuối cùng là mặt chủ quan.
10
Chương 4.
ĐỊNH TỘI DANH THEO CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
Định tội danh theo các yếu tố CTTP thực chất là cụ thể hoá quy trình thực
hiện giai đoạn 3 của ba giai đoạn của quá trình định tội danh. Nội dung của bước
này là đánh giá sự phù hợp lần lượt từng yếu tố trong 4 yếu tố CTTP. Để thực
hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi người định tội danh phải giải quyết được các
bước sau:
4.1. TÓM TẮT CÁC TÌNH TIẾT CỦA VỤ ÁN
Qua thực tế cho thấy, rất nhiều trường hợp, hồ sơ của vụ án hình sự chứa đựng
quá nhiều thông tin. Có nhiều tình tiết không có ý nghĩa trong việc định tội danh
và quyết định hình phạt trong vụ án cụ thể đó. Chính vì vậy, đòi hỏi trong quá
trình định tội danh phải có bước tóm tắt nội dung vụ án.
4.1.1. Ý nghĩa của bước tóm tắt nội dung vụ án
Việc thực hiện bước tóm tắt các tình tiết của vụ án qua đó giúp người định

tội danh nắm được một cách đầy đủ, toàn diện về nội dung, bản chất của những
tình tiết có ý nghĩa về mặt hình sự trong vụ án đó. Qua đó thấy được mối quan hệ
giữa chúng với nhau. Việc thực hiện bước này cũng đã thể hiện được vai trò của
nó đối với các bước tiếp theo. Nghĩa là giúp cho việc kiểm tra đánh giá về mặt
hình sự của các bước tiếp theo không sa vào những tình tiết thứ yếu không có ý
nghĩa về mặt hình sự.
Trong quá trình tóm tắt các tình tiết của vụ án người tiến hành tố tụng có
thể phát hiện ra những điểm mấu chốt trong vụ án giúp cho việc giải quyết vụ án
được nhanh chóng, chính xác, hiệu quả cao.
4.1.2. Yêu cầu đối với bước tóm tắt nội dung vụ án
Người định tội danh phải nghiên cứu kỹ, đọc nhiều lần hồ sơ vụ án để tóm
tắt một cách đầy đủ các tình tiết phản ánh nội dung vụ án, tránh bỏ sót những tình
tiết quan trọng.
Phải tóm tắt những tình tiết có ý nghĩa trong việc định tội danh, định khung
hình phạt, quyết định hình phạt. không được nhắc lại sự việc một cách máy móc
đơn điệu mang tính chất liệt kê.
Tuy nhiên, trong một vụ án cụ thể, việc xác định những tình tiết nào là tình
tiết có ý nghĩa về mặt hình sự để tóm tắt chúng làm tiền đề cho việc thực hiện các
bước tiếp theo tuỳ thuộc vào sự thể hiện vai trò của tình tiết đó trong vụ án. Cùng
một loại tình tiết nhưng trong vụ án này nó có ý nghĩa về mặt hình sự nhưng
trong vụ án khác chúng lại không có ý nghĩa về mặt hình sự. Ví dụ, tình tiết về
địa điểm phạm tội, về tương quan lực lượng giữa 2 bên.
Việc lựa chọn tình tiết nào để tóm tắt tuỳ thuộc vào trình độ kỹ năng
nghiệp vụ của người định tội danh.
Trong quá trình tóm tắt nội dung của vụ án không được có những bổ
sung hoặc thay đổi bất kỳ tình tiết nào, và cũng không được có một sự đánh
giá nào về mặt pháp lý.
Trong một vụ án có nhiều hành vi phải sắp xếp các hành vi đó theo trình tự
11
thời gian của quá trình diễn biến của vụ án.

4.2. ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ CÁC DẤU HIỆU THUỘC
VỀ KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM
Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng đều xâm hại đến khách thể trực tiếp
và cũng có nghĩa là chúng xâm hại đến khách thể loại và khách thể chung. Việc
xác định đúng 3 loại khách thể này sẽ khảng định được hành vi đó có phải là tội
phạm hay không, thuộc nhóm tội nào và thuộc loại tội phạm cụ thể nào để tìm
điều luật tương ứng trong phần các tội phạm cụ thể để áp dụng đối với người
phạm tội.
Trong 3 loại khách thể của tội phạm nêu trên thì khách thể trực tiếp là dạng
khách thể cho phép người định tội danh khẳng định được rõ hơn cả bản chất nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, từ đó là cơ sở cho việc định tội danh
được chính xác.
4.2.1. Phân loại khách thể trực tiếp của tội phạm
Thông thường một tội phạm cụ thể có một khách thể trực tiếp, có một số
tội phạm xâm hại trực tiếp tới hai hay nhiều quan hệ xã hội. Trong trường hợp tội
phạm có nhiều khách thể trực tiếp, Đối với những tội có nhiều khách thể trực tiếp
đòi hỏi phải có sự phân định chúng ở các mức độ khác nhau, đó là khách thể trực
tiếp cơ bản và khách thể trực tiếp phụ.
Khách thể trực tiếp cơ bản: Là những quan hệ xã hội bị tội phạm đó
xâm hại là quan hệ xã hội quan trọng hơn và sự thiệt hại gây ra cho quan hệ xã
hội đó cũng là nghiêm trọng hơn cả và đó cũng là quan hệ xã hội luôn bị gây
thiệt hại khi tội phạm thực hiện. Đồng thời, khách thể trực tiếp cơ bản cũng là
những quan hệ xã hội phản ánh rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất chính trị xã hội và
bản chất pháp lý của loại tội phạm đó.
Khách thể trực tiếp phụ: Là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại mà sự gây
thiệt hại cho quan hệ xã hội đó là ít nghiêm trọng hơn. Khi tội phạm xẩy ra nó có
thể bị gây thiệt hại có thể không bị gây thiệt hại.
Việc phân định này giúp cho người định tội danh xác định được tội phạm
thuộc nhóm tội nào.
Ví dụ như tội bắt cóc con tin, thì khách thể trực tiếp cơ bản phải là quan hệ

tài sản, còn khách thể trực tiếp phụ là quan hệ tính mạng, sức khoẻ của con tin.
Vì vậy, tội này phải thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu mà không phải thuộc
nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tự do thân thể của con người.
Hoặc đối với tội tham ô tài sản thì khách thể trực tiếp cơ bản là sự hoạt
động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, Tổ chức xã hội. Còn khách thể trực
tiếp phụ là quan hệ tài sản, nên tội tham ô tài sản được quy định trong nhóm tội
phạm chức vụ mà không phải nằm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu.
Đối với những tội phạm có 1 khách thể trực tiếp thì đòi hỏi người ĐTD
phải đánh giá được trong số các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, thì quan hệ
xã hội nào phản ánh đầy đủ nhất bản chất chính trị xã hội và bản chất pháp lý của
hành vi phạm tội đã thực hiện, để làm cơ sở cho việc định tội danh và quyết định
hình phạt.
12
4.2.2. Căn cứ xác định khách thể trực tiếp của tội phạm
Về mặt thực tế, để xác định khách thể trực tiếp của tội phạm phải thông
qua việc xem xét phân tích các thành phần khác của tội phạm, cụ thể:
Thứ nhất:Thông qua việc xác định đặc điểm chủ thể tội phạm đối với các
tội có chủ thể đặc biệt.
Thứ hai: Thông qua việc xác định hậu quả của tội phạm chính là cơ sở để
xác định khách thể của tội phạm bị xâm hại.
Sở dĩ, để xác định khách thể của tội phạm phải thông qua việc xác định các
thành phần của tội phạm là hậu quả và chủ thể của tội phạm, bởi các dấu hiệu này
là căn cứ để nhà làm luật sắp xếp các tội phạm cụ thể thành từng chương trong
BLHS, mặt khác các dấu hiệu này tồn tại trong mặt khách quan dê nhận biết
được.
Ví dụ: A dùng dao đâm B, B bị thương với tỷ lệ thương tật là 40%. Trường
hợp này thông qua biểu hiện về hậu quả của tội phạm là thương tật của B 40%
chúng ta xác định được tội phạm xâm hại đến quan hệ sức khoẻ của con người là
khách thể của tội phạm.
Hoặc ví dụ khác: A là thủ kho của công ty dệt (doanh nghiệp Nhà nước),

đã lấy một lô hàng trong kho của doanh nghiệp trị giá 30 triệu đồng bán lấy tiền
tiêu xài. Trường hợp này thông qua đặc điểm của chủ thể chúng ta xác định được
quan hệ xã hội bị xâm hại là sự hoạt động đúng đắn của doanh nghiệp Nhà nước
là khách thể của tội phạm.
4.2.3. Vai trò của việc xác định đối tượng tác động của tội phạm trong định
tội danh
Đối tượng tác động của tội phạm không phải là một dấu hiệu trong CTTP,
nhưng nó lại là một bộ phận hợp thành của khách thể của tội phạm, mà khách thể
của tội phạm lại là một bộ phận không thể thiếu được trong một CTTP. Mặt khác,
đặc điểm của đối tượng tác động của tội phạm luôn mang tính cụ thể, tính xác
định, và chỉ thông qua sự tác động lên đối tương tác động của tội phạm mới có
thể gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm chính là hậu quả của tội phạm Mức
độ làm biến đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động của tội phạm ở 2
thời điểm trước và sau thời điểm tội phạm được thực hiện là sự phản ánh hậu quả
của tội phạm. Vì vậy, đối tượng tác động của tội phạm được hiện diện trong nội
tại của cả 2 dấu hiệu trong CTTP, đó là quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm
và hậu quả của tội phạm. Cũng xuất phát từ lý do này nên đối tượng tác động của
tội phạm không phải là một dấu hiệu độc lập trong CTTP. Song về phương diện
thực tiễn cũng như về phương diện định tội danh thì việc xác định đối tượng tác
động của tội phạm là điểm xuất phát, là tiền đề cho việc xác định khách thể của
tội phạm và hậu quả của tội phạm.
Do đó, ý nghĩa của việc xác định đối tượng tác động của tội phạm thể hiện
ở các phương diện sau:
@ Đối tượng tác động của tội phạm trong một số trường hợp được quy
định là tình tiết định tội như: Điều 231 tài sản bị huỷ hoại phải là công trình
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, hoặc Điều 278 tài sản bị chiếm đoạt
13
phải là tài sản của Nhà nước. Vì vậy, việc xác định đối tượng tác động trong
trường hợp này có ý nghĩa trong việc định tội. Vai trò này được thể hiện trong sự
đánh giá tình huống sau:

Vụ án thứ nhất: Chu Mạnh Cường trú tại quận Tây Hồ (Hà Nội) thường
xuyên qua Trung Quốc mua hàng hoá vận chuyển qua cửa khẩu Tân Thanh mang
về Hà Nội tiêu thụ. Trong thời gian ở Trung Quốc, Cường đã nắm bắt được công
nghệ sản xuất bát điện tử, sử dụng cho mục đích cờ bạc bịp. Cường về Lạng Sơn
mua bát sứ thường có đế rỗng, một số linh kiện như màn hình tivi 5 inch, đầu thu
camera sản xuất được 100 mặt hàng này đã tiêu thụ hết với giá 5,5 triệu đồng một
chiếc, thu được lợi nhuận 200 triệu đồng.
Vụ án thứ hai: Hoàng Văn Chính nợ của Vũ Duy Tài 3 triệu đồng tiền cá
độ bóng đá bị thua. Khoảng 10 giờ ngày 21/07/2004, Tài đến nhà em trai là Vũ
Duy Cải cùng đến nhà Chính đòi tiền. Tài nói với Cải nếu không lấy được tiền thì
bắt xe máy để buộc Chính phải trả tiền.
Trên đường đi đến nhà Chính thì Tài và Cải gặp Vũ Thị Hoa là vợ Chính
đi xe máy ngược chiều chở 2 đứa con nhỏ. Tài ra hiệu cho Hoa dừng lại. Cải
đứng lại giữ xe, còn Tài tiến lại gần Hoa và hỏi "chị có phải là vợ Chính không",
Hoa trả lời "phải, anh hỏi gì vậy",. Tài nói tiếp "chị đưa tôi chiếc xe vì Chính còn
thiếu nợ tôi không chịu trả", Hoa trả lời "tôi không biết". Ngay lúc đó Tài dùng 2
tay cầm tay lái xe và giằng co chiếc xe với Hoa. Hai bên giằng co một lúc thì Hoa
nói "anh bỏ ra, không tôi la lên bây giờ". Nghe vậy, Tài liền rút con dao gọt trái
cây từ trong túi ra đe dọa "im mồm ngay". Thấy Tài rút dao ra, Hoa sợ bỏ xe và 2
đứa con chạy về phía UBND xã và kêu "cướp! cướp! cứu tôi với". Do Hoa bỏ xe
chạy nên Tài đa lấy được chiếc xe Ưin trị giá 10 triệu đồng mang về gửi ở nhà
Tùng gần đó. Sau đó Tài gọi điện thoại cho Chính biết là đã lấy xe từ Hoa và nói
Chính phải đưa tiền đến chuộc xe. Sáng hôm sau, Chính đến gặp Tài, Tài nói
"anh có tiền không, muốn nhận xe phải giao đủ 3 triệu đồng". Chính nói cứ lấy xe
về rồi giao tiền, đồng thời lấy tiền ra đưa cho Tài xem. Thấy Chính có tiền nên
Tài đi lấy xe về. Trong khi giao xe và mới nhận được 500.000 đồng thì bị Công
an bắt quả tang.
@ Đối tượng tác động của tội phạm trong một số trường hợp được quy
định là tình tiết định khung như: nếu hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi thì bị xử lý
theo Khoản 4, Điều 112. Vì vậy, việc xác định đối tượng tác động trong trường

hợp này có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt.
@ Đối tượng tác động của tội phạm trong một số trường hợp được quy
định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS như: phạm tội đối với trẻ em,
phụ nữ có thai, người già nên việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết
định hình phạt.
Ví dụ 1: A là nạn nhân của một vụ trộm cắp tài sản hoặc là nạn nhân của
một vụ cướp mà A là phụ nữ đang có thai thì có áp dụng tình tiết tăng nặng đối
với người phạm tội là phạm tội đối với phụ nữ có thai không? Tại sao?
Ví dụ 2: Chồng lừa vợ lấy tiền của vợ cho bồ có phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản không? Tại sao?
14
Đối tượng tác động của tội phạm có thể xác định được:
+ Bằng trực giác: như các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, các tội xâm
phạm sở hữu.
+ Bằng các văn bản của Nhà nước: như các tội phạm về ma tuý và các tội
phạm về chức vụ
Ví dụ: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản.
4.3. ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ CÁC DẤU HIỆU THUỘC
MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM
Mặt khách quan của tội phạm có tầm quan trọng rất lớn trong việc xây
dựng CTTP và định tội danh. Hoạt động định tội danh thường bắt đầu từ việc
đánh giá, xác định các dấu hiệu trong mặt khách quan. Bởi vì:
@ Các dấu hiệu trong mặt khách quan là những dấu hiệu thể hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan mà người định tội danh dễ nhận biết được.
@ Các dấu hiệu trong mặt khách quan thường được mô tả tỷ mỷ trong
CTTP, vì giữa các tội phạm khác nhau chủ yếu khác nhau ở mặt khách quan
@ Thông qua việc xác định các dấu hiệu trong mặt khách quan, người định
tội danh mới xác định được các dấu hiệu khác trong mặt chủ quan của tội phạm là
lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Trong mỗi CTTP khác nhau, mỗi dấu hiệu trong mặt khách quan của tội

phạm có ý nghĩa khác nhau đối với định tội danh. Nhưng việc đánh giá, xác định
hành vi khách quan của tội phạm có ý nghĩa quan trọng hơn cả.
4.3.1. Phương pháp đánh giá hành vi khách quan của tội phạm
a. Khái niệm hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm được hiểu theo 02 nghĩa:
Nghĩa rộng: Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự có ý thức của con
người bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan.
Nghĩa hẹp: Hành vi khách quan là xử sự của con người thể hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan.
b. Hình thức của hành vi khách quan có 2 dạng:
Hành động phạm tội được hiểu là người phạm tội đã làm những động tác
cơ học bị luật hình sự cấm.
Đối với hành động phạm tội phải thoả mãn hai dấu hiệu:
+ Là xử sự có ý thức và có ý chí đối với hành vi.
+ Phải là xử sự có ý thức và có ý chí đối với hậu quả.
Không hành động phạm tội tức là không làm những động tác cơ học mà
chủ thể theo pháp luật có nghĩa vụ phải làm và trong hoàn cảnh cụ thể đó có thể
thực hiện được nghĩa vụ này.
Trong quá trình định tội danh, việc xác định tính chất của không hành động
phạm tội phức tạp hơn so với việc xác định tính chất của hành động phạm tội.
Bởi vì:
Thứ nhất: Hành động phạm tội thể hiện và tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan dễ nhận biết. Còn không hành động phạm tội thì sự thể hiện về nội dung
trong nội tại của hành vi đó không tồn tại trực diện ngay trong hành vi khách
15
quan, mà phải xác định trên cơ sở của sự tư duy biện chứng.
Thứ hai: Đối với hành động phạm tội chỉ cần xác định sự thoả mãn của 2
dấu hiệu bắt buộc đó là sử sự có ý thức và có ý chí đối với hành vi và đối với hậu
quả. Nhưng đối với không hành động phạm tội, ngoài 2 điều kiện trên còn phải
thoả mãn thêm 2 điều kiện nữa, đó là:

+ Chủ thể phải có nghĩa vụ pháp lý hành động.
+ Trong hoàn cảnh cụ thể chủ thể có đủ khả năng ngăn ngừa được hậu quả
đó.
c. Nguyên tắc đánh giá tính chất của hành vi khách quan của tội phạm
Việc đánh giá hành vi khách quan của tội phạm về phương diện định tội
danh là phải đặt mỗi hành vi đó trong mối quan hệ biện chứng, trong tổng thể các
dấu hiệu khác của CTTP. Thậm chí phải đặt mỗi hành vi khách quan đó trong
mối quan hệ biện chứng đối với hành vi khách quan khác nếu trong CTTP đó có
nhiều hành vi khách quan để đánh giá chúng. Ví dụ: Hành vi lén lút và hành vi
chiếm đoạt tài sản của tội trộm cắp tài sản. Hành vi gian dối với hành vi chiếm
đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu tách độc lập các hành vi này trong
mỗi CTTP thì không thể nói lên sự thể hiện về bản chất của loại tội phạm đó.
Chỉ có thể đặt hành vi khách quan của tội phạm trong mối quan hệ biện
chứng với tổng thể các dấu hiệu khác, từ đó mới rút ra sự thể hiện đặc điểm đặc
trưng của hành vi đó trong một vụ án cụ thể. Tuyệt đối không được xác định tính
chất của hành vi khách quan trong sự độc lập, đơn lẻ với các dấu hiệu khác trong
CTTP.
d. Phương pháp đánh giá tính chất của hành vi khách quan trong
trường hợp cụ thể
1/ Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương
ứng phù hợp với nhiều CTTP.
Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương ứng
phù hợp với nhiều CTTPchỉ xử lý một tội danh nếu:
+ Chỉ một trong số các hành vi đó đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm, còn các hành vi khác chỉ mang tính chất hỗ trợ cho hành
vi khách quan đã lựa chọn (thông thường các hành vi bổ trợ này đặt trong mối
quan hệ biện chứng với hành vi khách quan thì nó là hành vi chuẩn bị phạm tội).
Và các hành vi này chỉ nhằm hướng tới đạt một mục đích. Có thể xác định việc
áp dụng nguyên tắc này thông qua các vụ án sau:
Vụ án thứ nhất: Vào khoảng 8 giờ ngày 30 tháng 06 năm 2004, H và T

lên tàu khách V1 tuyến Hà Nội đi Vinh để trộm cắp tài sản của hành khách đi
trên tàu. H dùng lưỡi dao lam rạch túi xách của chị Võ Thị M thì thấy một gói
đựng chất dẻo màu nâu. H biết là thuốc phiện nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt.
H rút trong người ra một thẻ đoàn viên để hở 1/3 rồi đưa nhanh qua mặt M nói:
“Chúng tôi là công an, yêu cầu chị cho kiểm tra hành lý”. Cùng lúc đó, Q trưởng
tàu đi tới. Q biết H và T không phải là công an nhưng vì vụ lợi Q đã nói nhỏ với
H và T: “Hai anh muốn khám xét hành lý của hành khách trên tàu thì phải đưa
tôi 500.000 đồng”. Sợ hỏng việc, H tháo chiếc đồng hồ trị giá 500.000 đồng đưa
16
cho Q. Sau khi nhận đồng hồ, Q không những để mặc cho H, T hành động mà
còn cho tàu dừng lại theo yêu cầu của H và T.
Khi tàu dừng, H và T đã kéo M xuống đường ray rồi nói với M: “Chị
muốn được trả tự do thì đưa hết đồ trang sức và tiền cho chúng tôi”. Vì lo sợ bị
bắt, M đã buộc phải làm theo sự khống chế của H và T. Hai tên đã chiếm đoạt
được 10 triệu đồng và 3 kg thuốc phiện.
Vụ án thứ hai: Chiều 09/6/2001, ông Ngô Hà (trú tại thị trấn Tứ Hạ,
huyện Hương Trà) mua 02 vé xổ số kiến thiết loại vé 3.000đ. Khoảng 10 giờ sáng
hôm sau, anh Nguyễn Lam hàng xóm sang chơi, do không biết chữ nên Hà đã
đưa cho Lam 02 vé số nhờ dò hộ. Khi dò vé số thấy 02 vé số trúng giải đặc biệt
với số tiền 150 triệu đồng. Vì lòng tham muốn chiếm đoạt 02 vé số đó nên Lam
nói là vé không trúng thưởng rồi vứt 02 vé số vào sọt rác trong góc nhà ông Hà.
Sau 15 phút, Lam về nói với vợ là bà Nga: "Trong sọt rác nhà ông Hà có 02 vé
số trúng giải đặc biệt cô qua đó giả vờ xin tấm bìa rồi lấy về". Nga thực hiện
theo sự sắp đặt của Lam lấy được 02 vé số về rồi 02 vợ chồng đi nhận thưởng.
Vụ án thứ ba: Trần Hoàn trú tại Thăng Bình (tỉnh Quảng Nam), làm thuê
cho cửa hàng điện tử số 37 Hùng Vương, thành phố Đà Nẵng. Hoàng thường
xuyên nhận nhiệm vụ giao hàng điện tử cho Hoàn Mỹ trú tại Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Do có quan hệ quen biết với Mỹ nên Hoàn nảy sinh ý định chiếm
đoạt tài sản trong nhà Mỹ. Hoàn đã bàn bạc với Chuyên và Huy, được hai tên
đồng ý.

Vào lúc 16 giờ ngày 20/10/2003, theo kế hoạch Huy chui vào thùng đựng
tủ lạnh. Hoàn và Chuyên đã mang thùng hàng này tới nhà Mỹ và nói với Mỹ cho
gửi lại sáng mai tới lấy để đưa vào giao cho người khác ở Tam Kỳ. Khoảng 23
giờ khi mọi người trong nhà ngủ im ắng, Huy chui ra khỏi thùng hàng mở chốt
cửa phía trong nhà Mỹ cho Hoàn và Chuyên đợi sẵn ngoài cổng vào trong nhà,
03 tên lấy được 3 linh kiện hàng trị giá 50 triệu đồng bán tiêu xài.
+ Mỗi một hành vi trong số các vi đã thực hiện đã thể hiện đầy đủ bản chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm (về bản chất các hành vi đó đủ yếu tố CTTP
của nhiều tội) nhưng chúng đảm bảo sự phù hợp của các nguyên tắc chuyển hoá
tội phạm.
Sự chuyển hoá tội phạm phải đảm bảo thỏa mãn 4 điều kiện sau:
@ Bị cáo thực hiện ít nhất 2 loại hành vi cấu thành ít nhất 02 tội.
@ Ý thức chủ quan của người phạm tội chỉ thực hiện tội thứ nhất, nhưng
do nguyên nhân khách quan mà bị cáo thực hiện tội thứ 2.
@ Các tội này đều hướng đến đạt một mục đích.
@ Chỉ được phép lựa chọn tội sau cùng để áp dụng đối với người phạm
tội.
Nguyên tắc này được thể hiện trong vụ án sau:
Khoảng 16 giờ ngày 30 tháng 09 năm 2003, Đoàn Minh Đĩnh trú ở quận
12, thành phố Hồ Chí Minh cao hứng chở vợ là Mạc Thị Ngân đến thăm nhà
người bạn là Huệ ở cách nhà Đĩnh khoảng 2 km. Tại nhà Huệ, uống xong 1 tuần
trà, Đĩnh bảo vợ: “Em ở lại chơi với Huệ, anh về cho heo ăn”, rồi Đĩnh lấy xe đi
17
về nhà. Ngân vừa nói chuyện với Huệ vừa hồ nghi trong bụng, bởi chính Ngân
vừa cho heo ăn xong. Hơn nữa, từ trước tới nay Đĩnh đâu có để ý tới chuyện
nuôi heo, cớ gì hôm nay lại quan tâm như vậy. Ngân nói với Huệ cho qua chuyện
rồi ra thuê xe ôm về nhà quyết tìm cho ra sự thật.
Tới nhà, cửa nhà mở, trong nhà im ắng, Ngân lại nghe có tiếng nói nho
nhỏ, tiếng thở khe khẽ. Ngân cầm cái kéo may, đạp mạnh cửa buồng xông vào và
sững sờ nhìn thấy chồng mình đang cùng chị Yến Vy (người hàng xóm đã có

chồng) đang làm chuyện mây mưa trên giường.
Ngân quơ hết mớ quần áo của 02 người vứt ra khỏi buồng. Tiếp đến, Ngân
nhảy vào tát vào mặt Vy 02 cái và đạp 03 đạp. Vy ngồi im không dám la. Đĩnh
cũng ngồi im ôm gối sợ vợ làm to chuyện. Ngân đánh đấm Vy một hồi mỏi tay
chân, Ngân quay ra dùng kéo cắt tóc Vy. Ngân vừa cắt tóc Vy, vừa doạ: “Mày
khôn hồn thì ngồi im, nếu chống cự thì tao la làng ngay cho mọi người đến coi
thử xem ai xấu hổ”.Vy phải cúi lạy Ngân, xin Ngân tha thứ. Ngân nói: “Mày
phải mua danh dự”. Vy năn nỉ Ngân cho đền 2 con bò có sẵn bên nhà nhưng
Ngân không đồng ý. Sau đó, Ngân thấy sợi dây chuyền 3 chỉ lấp lánh trên ngực
Vy, Ngân cởi ra lấy luôn rồi cho Vy và Đĩnh mặc quần áo ra về.
Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện nhiều loại hành vi tương ứng
phù hợp với nhiều CTTP sẽ bị xử lý nhiều tội danh khác nhau nếu các hành vi đã
thực hiện phù hợp với nhiều loại hành vi khách quan tương ứng với nhiều CTTP
mà các loại hành vi này có sự liên tục về mặt thời gian, có mối quan hệ với nhau
và nhằm đạt các mục đích khác nhau. Ví dụ: vụ án giết người và cướp tài sản xẩy
ra ở thành phố Huế ngày 25/04/2005.
2/ Trường hợp trong một vụ án bị cáo thực hiện 1 loại hành vi:
Chỉ xử lý một tội nếu bản chất của hành vi đã thực hiện chỉ là sự thể hiện
của một loại hành khách quan trong một cấu thành tội phạm cụ thể.
Sẽ xử lý về nhiều tội nếu:
+ Chỉ có một hậu quả xẩy ra hoặc có thể xẩy ra, mà một loại hành vi đó lại
là sự thể hiện của hai hay nhiều loại hành vi khách quan của các CTTP tương ứng
mà các CTTP này được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
Ví dụ: giết người bằng súng. Trường hợp này một hành vi giơ súng lên bắn bị xử
lý 2 tội, tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng).
+ Nếu có nhiều hậu quả xẩy ra thì:
@ Nếu một loại hành vi đã thực hiện phù hợp với một loại hành vi khách
quan của nhiều CTTP, mà các hậu quả này đều thực hiện với hình thức lỗi cố ý
thì xử lý về nhiều tội.
Ví dụ: Cướp gây chết người mà hậu quả chết người là lỗi cố ý thì bị cáo bị xử

thành 2 tội: Tội giết người và tội cướp tài sản.
@ Nếu một loại hành vi đã thực hiện phù hợp với một loại hành vi khách
quan của nhiều CTTP, mà có hậu quả thực hiện với hình thức lỗi cố ý, có hậu quả
thực hiện với hình thức lỗi vô ý, thì CTTP thực hiện với lỗi vố ý sẽ được thu hút
vào tội danh của CTTP với lỗi cố ý và CTTP của lỗi vô ý trở thành tình tiết định
khung tăng nặng.
18
Ví dụ: Hiếp dâm gây hậu quả nạn nhân chết. Nếu hậu quả nạn nhân chết là lỗi vô
ý, thì chỉ xử lý một tội hiếp dâm với tình tiết định khung tăng nặng gây chết
người.
4.3.2 Phương pháp xác định hậu quả của tội phạm
Đối với các tội thực hiện với hình thức lỗi cố ý và là tội có cấu thành vật
chất (tức là trong CTTP luôn phải có dấu hiệu hậu quả) thì việc xác định hậu quả
về mặt thực tế có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm được thực hiện ở giai
đoạn nào, làm cơ sở cho việc xác định TNHS đối với người phạm tội
Đối với các tội thực hiện với hình thức lỗi vô ý, hậu quả cũng luôn được
phản ánh trong CTTP, thì việc đánh giá hành vi phạm tội chỉ có ý nghĩa khi xác
định được hậu quả của tội phạm. Hay nói cách khác, chỉ khi xác định được hậu
quả thì mới xác định được là có tội hay không có tội và mức độ TNHS đặt ra như
thế nào?
Cơ sở để xác định hậu quả của tội phạm là xuất phát từ việc xác định mức
độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm ở
thời điểm trước và sau khi tội phạm xảy ra.
Hậu quả của tội phạm là một dấu hiệu trong mặt khách quan, tồn tại trong
thế giới khách quan khi tội phạm xẩy ra, và rất dễ nhận biết được và trong rất
nhiều trường hợp nó còn xác định được một cách cụ thể, chính xác,rõ ràng. Chính
vì vậy, hậu quả của tội phạm được phản ánh trong rất nhiều CTTP với nội dung
là tình tiết định tội và tình tiết định khung. Nhiều tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
TNHS cũng được phản ánh là hậu quả của tội phạm,nên việc xác định hậu quả
của tội phạm có ý nghĩa cả về phương diện định tội, định khung hình phạt và

quyết định hình phạt.
Quá trình định tội danh khi xác định hậu quả của tội phạm phải đánh giá
được một cách toàn diện các hậu quả đã được quy định trong BLHS (như số
người chết, giá trị tài sản bị chiếm đoạt, và các hậu quả không được quy định
trong BLHS, nhưng nó trực tiếp phát sinh từ những hậu quả đã được quy định
trong BLHS.
4.3.3. Sự đánh giá về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội
phạm
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
là điều kiện đảm cho cho việc định tội danh được chính xác. Vì mối quan hệ nhân
quả không bao giờ tồn tại riêng lẻ, nếu như không có sự tồn tại của 2 hiện tượng
khách quan là hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm. Nội dung của mối quan
hệ nhân quả là hiện tượng khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của
người phạm tội.
Một hậu quả của tội phạm có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Trong
những nguyên nhân đó, có thể có những nguyên nhân trực tiếp làm phát sịnh hậu
quả, có những nguyên nhân chỉ góp phần hỗ trợ cho nguyên nhân trực tiếp hay
còn gọi là nguyên nhân gián tiếp. Chỉ những nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh
hậu quả mới được gọi là những nguyên nhân có mối quan hệ nhân quả với hậu
quả của tội phạm.
19
Về nguyên tắc một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một tội
phạm nhất định đối với một hậu quả đã xảy ra khi hậu quả đó có mối quan hệ
nhân quả với hành vi mà họ đã thực hiện. Nếu người định tội danh không nhận
thức rõ hoặc không tôn trọng việc thực hiện nguyên tắc này sẽ dẫn đến xu hướng
xử lý tuỳ tiện. Có thể minh họa bằng vụ án sau để thấy được vai trò của nguyên
tắc này:
Nguyễn Hoàng Oanh và Phạm Thị Nga là hai mợ cháu nhà ở cạnh nhau.
Vào tháng 3/2000, hai gia đình phát sinh mâu thuẫn từ việc Nga xây nhà, đổ nền
nhà và sân vườn cao hơn nhà Oanh. Mỗi khi trời mưa nước từ nhà Nga tràn

sang nhà Oanh là hai bên lại cãi nhau.
Ngày 06/4/2002, trong lúc hai bên cãi nhau về việc nước ứ đọng, Nga đã
bị ngất xỉu và được mọi người hô hấp nhân tạo kịp thời.
Vào khoảng 18 giờ, trong bữa cơm tối ngày 11/6/2002, Nga và Oanh lại
gây gổ vì chuyện xích mích trên. Sau một hồi lời qua tiếng lại, Oanh đã cầm bát
cơm đang ăn vứt qua nhà Nga và trúng trán Nga, Nga bị ngất xỉu được mọi
người đưa đến bệnh viện cấp cứu, trên đường đi thì Nga bị chết.
Kết luận giám định pháp y thì Nga chết do bị bệnh tim, vết thương ở trán
Nga tỷ lệ thương tật là 5%.
4.3.4. Vai trò của việc đánh giá các dấu hiệu khác trong mặt khách quan của
tội phạm
Trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự việc xác định các dấu hiệu
khác về mặt khách quan của tội phạm cho phép người định tội danh xác định
được các dấu hiệu trong mặt chủ quan của tội phạm. Điều này có thể minh chứng
qua cách đánh giá vụ án sau:
Khoảng 16 giờ ngày 28/02/1998, Lê Quốc Vũ chở Nguyễn Văn Đàm và Lê
Xuân Thảo; Trần Xuân Thọ chở Phạm Hồng Lưu bằng xe Honda di từ Thị xã
Tuy Hoà về xã Hoà Đồng. Khi đến địa phận xã Hoà Phong (đoạn đường vắng
người, xa khu dân cư) thì gặp anh Sáng chở chị Vy đi xe Honda cùng chiều. Vũ
đã chỉ tay vào Sáng và nói với mọi người Sáng là người cách đây 03 ngày đã
đánh Vũ. Bọn Vũ bàn nhau chặn đường đánh Sáng. Vũ điều khiển xe ép xe Sáng
vào lề đường. Sáng dừng xe lại. Vũ hỏi: "Mày có phải là Duy ở Sơn Thành
không". Sáng trả lời không thì ngay lập tức Thảo đã đấm vào mặt Sáng. Bị đau
Sáng ngồi thụp xuống, Thảo đi vòng ra phía sau lưng Sáng nắm cổ áo kéo đứng
lên để đánh tiếp thì nhìn thấy sợi dây chuyền trên cổ Sáng. Thảo đã giật lấy sợi
dây, khi Sáng hỏi xin lại sợi dây chuyền thì Thảo nói là không lấy và cùng đồng
bọn bỏ đi.
Một số dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm như thời gian,
địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội được quy định là tình tiết định tội như
tội hoạt động phỉ, thì việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định tội. Đa số

các trường hợp khác chúng được quy định là tình tiết định khung hoặc tình tiết
tăng nặng hoặc giảm nhẹ, nên việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định
khung hình phạt và quyết định hình phạt.
4.4. ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ DẤU HIỆU CHỦ THỂ CỦA
20
TỘI PHẠM
Để xác định một người có phải là chủ thể của tội phạm trong một vụ án
hình sự hay không đòi hỏi phải kiểm tra, đánh giá 03 điều kiện sau:
+ Phải xác định họ là người có năng lực TNHS: tức là xác định xem trạng
thái bình thường của người đó có nhận thức được tính chất thực tế và tính chất
pháp lý của hành vi do mình thực hiện và có khả năng điều khiển được hành vi ấy
không.
+ Phải đủ tuổi chịu TNHS do luật định tại thời điểm thực hiện tội phạm.
(Nghị quyết 02/86 của HĐTPTATC ban hành ngày 05/01/86 hướng dẫn cách tính
độ tuổi của người phạm tội).
+ Phải xác định được họ là người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Ngoài ra đối với các tội có chủ thể đặc biệt đòi hỏi phải đánh giá sự phù
hợp của các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt đó. Việc xác định sự phù hợp về các
đặc điểm riêng biệt của chủ thể đặc biệt hết sức phức tạp.
Ví dụ:
1/ Đối với các tội phạm tham nhũng, chủ thể phải là người có chức vụ
quyền hạn. Người có chức vụ quyền hạn phải thỏa mãn đầy đủ 2 điều kiện sau:
+ Công việc thực hiện phải phù hợp với địa vị pháp lý của chủ thể.
+ Công việc đó phải được giao hợp pháp.
2/ Đối với tội hiếp dâm, thì pháp luật có loại trừ chủ thể là quan hệ vợ
chồng không?
3/ Hoặc trong một số vụ án mà có 2 người tham gia trong đó một người
chưa đủ tuổi chịu TNHS thì nó có ảnh hưởng đến tội danh của người kia không.
Chúng ta có thể minh họa bằng một vụ án như sau:
Hoàng văn Mười trú tại thị trấn Vĩnh Điện- Điện Bàn- Quảng Nam kinh doanh

mặt hàng nguyên vật liệu xây dựng và một số hàng vật tư nông nghiệp như thuốc
trừ sâu, phân bón. Mười đã xây 2 kho chứa 2 loại mặt hàng trên. Từ tháng 2 năm
1998 Mười đã hợp đồng thuê Lê Văn Tám (sinh năm 1978) làm nhiệm vụ giao
hàng khi có hóa đơn xuất hàng và trông coi kho chứa vật liệu xây dựng. Mười
thuê Trần Vĩnh Giới (sinh năm 1984) cũng thực hiện nhiệm vụ tương tự như Tám
nhưng với kho chứa vật tư nông nghiệp. Trong thời gian từ tháng 5 dến tháng 8
năm 1998, Cường và Giới đã bàn bạc và đi đến thống nhất thực hiện 3 lần lấy
trộm tài sản (trị giá 10 triệu đồng) trong kho Cường quản lý, và thực hiện 5 lần
lấy trộm tài sản (trị giá 12 triệu đồng) trong kho Giới quản lý bán lấy tiền chia
nhau. Vụ việc bị phát hiện, Giới và Cường thừa nhận đã thực hiện các hành vi
nêu trên.
4.5. ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ CÁC DẤU HIỆU VỀ MẶT
CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM
4.5.1. Về việc xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm
Trong quá trình định tội danh, đòi hỏi chủ thể định tội danh nhất thiết phải
phân tích, đánh giá và kết luận trường hợp phạm tội cụ thể thực hiện với hình
thức lỗi nào. Lỗi cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp, lỗi vô ý vì quá tự tin hay vô ý
do cẩu thả, để là cơ sở cho việc định tội cũng như cá thể hóa hình phạt đối với
21
người phạm tội.
Để xác định các dấu hiệu trong mặt chủ quan của tội phạm đòi hỏi phải
đánh giá một cách toàn diện các tình tiết trong mặt khách quan như tính chất của
hành vi khách quan, cách thức thực hiện hành vi, vị trí tấn công trên cơ thể của
nạn nhân, công cụ phương tiện người phạm tội sử dụng, hoàn cảnh địa điểm nơi
phạm tội xảy ra. Qua sự đánh giá các biểu hiện này mới có thể thấy được diễn
biến về tâm lý của người phạm tội thể hiện trong quá trình thực hiện tội phạm. Vì
tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan.
Thông thường trong mỗi một CTTP chỉ tồn tại một hình thức lỗi, nhưmg
có một số CTTP tồn tại đồng thời nhiều hình thức lỗi khác nhau, được gọi là
trường hợp hỗn hợp lỗi

Hỗn hợp lỗi là trường hợp trong một CTTP có 02 hình thức lỗi là lỗi cố ý
và lỗi vô ý.
Trong BLHS 1985 hỗn hợp lỗi không có trong CTTP cơ bản, mà chỉ tồn
tại trong CTTP tăng nặng của một số tội như: Tội cố ý gây thương tích dẫn đến
chết người; hiếp dâm gây thương tích hoặc gây chết người; cướp gây thương tích
hoặc gây chết người vv
Trong BLHS 1999 hỗn hợp lỗi tồn tại trong rất nhiều CTTP cơ bản và
CTTP tăng nặng. Ví dụ: CTTP cơ bản của Đ138 tội trộm cắp tài sản, nếu trộm
cắp tài sản dưới 500.000 đồng gây hậu quả nghiêm trọng.
Qua nghiên cứu nội dung của hỗn hợp lỗi cho thấy chúng có đặc điểm là:
Trong nội tại của CTTP là hỗn hợp lỗi phải có ít nhất 2 hậu quả, trong đó một
hậu quả là lỗi cố ý và hậu quả khác là lỗi vô ý.
4.5.2. Về việc xác định dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội trong mặt
chủ quan của tội phạm.
Về động cơ phạm tội được quy định là tình tiết định khung của rất nhiều
CTTP nên việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt.
Về mục đích phạm tội được quy định là tình tiết định tội của một số tội
như: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội cướp tài sản. Việc xác định chúng có
ý nghĩa để xác định hành vi đó có thuộc loại tội này hay không.
Chúng ta có thể thấy được phương pháp đánh giá dấu hiệu mục đích phạm
tội và vai trò của việc xác định dấu hiệu này trong vụ án sau:
Trần Văn Minh trú tại tổ 6, phường Ninh Xuân, thị xã Tuyên Quang đã có
02 tiền án về tội gây rối trật tự công cộng và tội cố ý gây thương tích.
Vào khoảng 20 giờ, ngày 25/01/2001 Minh thấy Đoàn Thị Vân là người
yêu của Minh đi chơi với Nguyễn Văn Hải là người yêu cũ của Vân. Máu ghen
nổi lên, Minh về nhà lấy dao nhọn rủ thêm Mạnh và Hùng cùng đi để chứng kiến
việc Vân không chung thuỷ với mình. Khi đến chỗ Hải và Vân ngồi nói chuyện
trên bờ đê thuộc xã Sơn Phúc, Minh quát: "Chúng mày ngồi làm gì ở đây ? Đồ
khốn nạn !". Nghe tiếng quát Hải bỏ chạy liền bị Minh hô to: "Đứng lại! Không
tao đâm chết". Anh Hải sợ Minh đâm nên phải đứng lại. Dao lăm lăm trong tay

Minh ra lệnh cho Hải: "Cởi quần áo, tháo đồng hồ, nhẫn vàng đưa đây cho tao
và quỳ xuống". Hải buộc phải thi hành lệnh của Minh trước mặt Vân và hai
22
người cùng đi với Minh. Hải vừa sợ, vừa xấu hổ phải van xin mãi Minh mới cho
mặc quần áo lót để đi về. Khi Hải về, Minh bắt Vân cầm toàn bộ tài sản và quần
áo của Hải rồi cả 4 người cùng về nhà Vân.
Ngay lúc đó, Hải đã đi thẳng đến UBND xã báo cáo toàn bộ sự việc với
công an xã và Trần Văn Minh bị bắt. Số tài sản của Hải, Minh đưa về nhà Vân
cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại cho anh Hải.
Tại cơ quan điều tra, Minh trả lời: "Vì ghen tức nên đã muốn làm nhục
Hải bằng cách giữ số tài sản đó làm tang chứng báo cho vợ Hải biết việc Hải
quan hệ với Vân chứ không có ý định chiếm đoạt tài sản".
Cơ sở để xác định dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội cũng giống các
căn cứ để xác định dấu hiệu lỗi. Tức là cũng phải trên cơ sở đánh giá một cách
khách quan toàn diện các tình tiết trong mặt khách quan.


23
Chương 5.
ĐỊNH TỘI DANH TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT
5.1. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH VÀ
TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI
5.1.1.Định tội danh đối với tội phạm chưa hoàn thành
Trong bộ luật hình sự 1999 không có khái niệm tội phạm chưa hoàn thành
(TPCHT) mà chỉ có khái niệm phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 18
BLHS.
Tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội (CBPT) và phạm
tội chưa đạt (PTCĐ. Tức là TPCHT bao gồm 2 giai đoạn đầu của hoạt động
phạm tội sơ bộ do cố ý.
Đối với TPHT thì mặt chủ quan và mặt khách quan của CTTP về nội dung

là trùng nhau. Còn đối với TPCHT lỗi cố ý chỉ thể hiện qua hành vi bên ngoài
của người phạm tội và hậu quả của hành vi đó, và hậu quả phạm tội mà chủ thể
mong muốn đạt được chưa xảy ra, hành vi đã thực hiện chưa thoả mãn hết các
dấu hiệu trong mặt khách quan, và mặt chủ quan của cấu thành TPCHT bao giờ
cũng là lỗi cố ý trực tiếp.
Nguyên tắc chung của việc xác định TNHS đối với TPCHT là:
+ Đối với chuẩn bị phạm tội (TPCHT ở giai đoạn thứ nhất) thì TNHS được
xác định theo Điều luật tương ứng tại phần các tội phạm cụ thể về TPHT với sự
viện dẫn Điều luật tại Điều 17, Điều 53 Phần chung của BLHS ở giai đoạn chuẩn
bị phạm tội.
+ Đối với phạm tội chưa đạt (TPCHT ở giai đoạn thứ hai) thì TNHS được
xác định theo Điều luật tương ứng tại phần các tội phạm cụ thể về TPHT với sự
viện dẫn Điều luật tại Điều 18, Điều 53 Phần chung của BLHS ở giai đoạn phạm
tội chưa đạt.
5.1.2.Định tội danh trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội
Trong luật hình sự Việt Nam, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thực nhiệm vụ phòng chống tội
phạm. Sự tồn tại của chế định này trong pháp luật hình sự có thể tác động làm
thay đổi quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng của người phạm tội, buộc người
đó phải suy nghĩ lại và từ bỏ việc hoàn thành hành vi phạm tội. Quy định về tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một trong những công cụ, biện pháp để
khắc phục, hạn chế hậu quả có thể xảy ra. Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội làm thay đổi một cách cơ bản mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
đã được thực hiện và mức độ nguy hiểm cho xã hội của bản thân người thực hiện
hành vi đó.
Việc tồn tại trong pháp luật hình sự nước ta chế định tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội là một trong những biểu hiện về tính nhân đạo của pháp luật
Việt Nam. Việc áp dụng trong thực tiễn chế định này tạo điều kiện cho người
đang thực hiện hành vi nguy hiểm dừng lại, chấm dứt hành vi của mình và không

24
bị truy cứu trách nhiệm hình sự, dù rằng người phạm tội có khả năng thực tế để
thực hiện tội phạm đến cùng. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được
miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm (Điều 19 Bộ luật hình sự).
Đồng thời Bộ luật hình sự cũng đưa ra một quy định, theo đó người tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong
trường hợp nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố của một tội phạm khác.
Điều đó cho thấy chỉ tha miễn trách nhiệm hình sự cho một người đã tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội chưa hoàn thành. Còn đối với tội phạm đã hoàn
thành thì áp dụng các nguyên tắc chung để định tội danh.
Ví dụ: Trần Văn H chuẩn bị hành vi tấn công người khác nhằm chiếm đoạt tài
sản. Để thực hiện được ý định đó của mình Trần Văn H đã trộm cắp súng K54 ở
một đơn vị bộ đội để chuẩn bị cho hành vi cướp tài sản. Sau đó khi chuẩn bị hành
vi cướp tài sản, Trần Văn H đã tự mình chấm dứt không thực hiện hành vi cướp
tài sản, tuy rằng không có gì ngăn cản. Tuy vây, hành vi chuẩn bị phạm tội nói
trên của Trần Văn H đã cấu thành một tội hoàn thành khác - tội chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự (Điều 95 Bộ luật hình sự). Trong trường hợp này áp dụng quy định
ở Điều 16 Bộ luật hình sự nước ta, Trần Văn H được miễn trách nhiệm hình sự về
hành vi chuẩn bị tội cướp, nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 95 Bộ
luật hình sự. Như vậy, quy định này hoàn toàn không loại bỏ việc định tội danh
đối với hành vi và tội phạm đã xảy ra trước khi bị cáo tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội.
Như vậy, để coi một hành vi nào đó là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội phải có hai điều kiện cần và đủ. Đó là, thứ nhất: tội phạm còn chưa được thực
hiện đến cùng, và thứ hai: người đó tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng,
tuy không có gì ngăn cản.
Trong thực tiễn xét xử, việc áp dụng chế định tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội thường gặp một số khó khăn nhất định trong việc xác định hành vi
của bị cáo có ý định phạm tội hay những hành vi này đã chứa đựng một cấu

thành tội phạm độc lập khác.
Đối với việc xác định hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội,
trong đồng phạm có những nguyên tắc đặc thù của nó, bởi vì hành vi tội phạm
của những người đồng phạm luôn luôn có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn
nhau. Về cơ bản tình tiết sau có ảnh hưởng đến việc đánh giá tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội của những người đồng phạm, tuỳ theo vai trò của mỗi
loại người trong đồng phạm
+ Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành có
thể được biểu hiện dưới hình thức không hành động, tức là không thực hiện
những hành vi nguy hiểm cho xã hội tiếp theo mà những hành vi đó có thể gây
hậu quả có hại.
+ Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục luôn
luôn phải được thể hiện trong các hành động tích cực không để cho người thực
hành thực hiện tội phạm. Điều này xuất phát từ vai trò mà người xúi giục thực
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×