Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.62 KB, 85 trang )

GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

LỜI NĨI ĐẦU
Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước,
đặc biệt là chính sách đổi mới về đối ngoại và kinh tế đối ngoại cùng với xu hướng tồn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng nhanh ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới, ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch của Ninh Bình nói riêng cũng
có những bước tiến nhất định và ngày càng có tác động tích cực hơn đến nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Du lịch được xác định “ là một ngành kinh tế mũi
nhọn” trong các ngành kinh tế quốc dân và đang hội nhập với trào lưu phát triển du lịch
của khu vực và thế giới. Khách du lịch đến Việt Nam đặc biệt là Ninh Bình đang ngày
một tăng. Phát triển du lịch của Ninh Bình là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp
với chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam đặc biệt là chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Với vị trí địa lý và tiềm năng tài nguyên du lịch phong phú, những chính sách
phù hợp, thời gian qua du lịch Ninh Bình đã có bước phát triển đáng ghi nhận, đóng góp
tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch của cả nước. Tuy nhiên trong quá trình phát
triển, nhiều tiềm năng du lịch chưa được khai thác hiệu quả, sự phát triển du lịch Ninh
Bình chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình. Cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật
của Tỉnh mặc dù đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển, chất lượng phục vụ còn thấp, sản phẩm du lịch còn
nghèo nàn, chưa phong phú. Đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn Tỉnh còn dàn trải và
thiếu tập trung, khả năng thu hút vốn từ các nhà đầu tư khơng được cao.
Chính vì thế trong thời gian đi thực tập vừa qua, em đã nghiên cứu và viết báo
cáo thực tập, tên đề tài là:
“Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình.”
Nội dung báo cáo được chia làm 2 chương:
Chương I: Thực trạng đầu tư phát triển du lịch Ninh Bình giai đoạn 2006-2009
Chương II: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào du
lịch Tỉnh Ninh Bình


CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH
NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2006-2009
I. Những đặc điểm và tình hình kinh tế - xã hội của Ninh Bình ảnh hưởng tới đầu
tư phát triển du lch ca tnh.
1. iu kin t nhiờn

Vũ Thị Liên

1

Kinh tế ®Çu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

1.1 Vị trí địa lý:
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Vị trí giới hạn từ
19o50 đến 20o26 vĩ độ Bắc, từ 105o32 đến 106o20 kinh độ Đơng. Phía Bắc giáp Hà Nam;
phía Đơng giáp Nam Định; phía Đơng Nam giáp biển Đơng; phía Tây và Tây Nam giáp
Thanh Hóa; phía Tây giáp Hịa Bình.
Nằm cách thủ đơ Hà Nội hơn 90 km, nằm trên tuyến đường giao thông đường
sắt, đường bộ xuyên Việt, Ninh Bình trở thành một cầu nối giao lưu kinh tế, văn hóa
giữa hai miền Nam-Bắc. Ninh Bình lại nằm trong vùng dồi dào năng lượng; có biển và
hệ thống sông thông ra biển rất thuận lợi trong việc giao lưu với các tỉnh và quốc tế.
Ninh Bình có các quốc lộ đi qua là 1A, 10, 12B, 45, có đường sắt Bắc Nam, có
nhiều sơng chảy qua (sơng Đáy, sơng Hồng Long, sơng Vân, sơng Vạc, sơng Lạng…).
Tồn bộ lãnh thổ của tỉnh nằm ở rìa Tây Nam đồng bằng sông Hồng, giáp với
đồng bằng sông Mã qua vùng núi thấp Tam Điệp là phần cuối cùng của vùng núi Tây

Bắc, trong khu đệm Hịa Bình – Thanh Hóa và tiếp giáp biển Đông. Do là vùng chuyển
tiếp nên địa hình Ninh Bình khá phong phú, đa dạng, bao gồm cả các núi, đồng bằng, bờ
biển. Đặc biệt là ở Ninh Bình, dạng địa hình Karst khá phổ biến và đây là dạng địa hình
đặc biệt tạo nên các hang động và cảnh quan hấp dẫn, rất có giá trị trong việc thu hút
khách du lịch.
1.2.

Địa hình:
Ninh Bình có một địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, đồi núi, nửa đồi núi và

vùng ven biển. Về địa hình có ba vùng khá rõ:
-

Vùng đồi núi, nửa đồi núi với các dãy núi đá vôi, núi nhiều thạch sét, sa

thạch, đồi đất đan xen các thung lũng lòng chảo hẹp, đầm lầy, ruộng trũng ven núi, có
tài ngun khống sản, đặc biệt là đá vơi, có nhiều tiềm năng phát triển là phát triển du
lịch
-

Vùng đồng bằng trung tâm là vùng đất đai màu mỡ, bãi bồi ven sông, có

nhiều tiềm năng để phát triển nơng nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, và sản
xuất hàng hóa xuất khẩu.
-

Vùng ven biển và biển có nhiều điều kiện phát triển nuôi trồng thuỷ sản khai

thác các nguồn lợi ven biển.
Đồi núi trùng điệp chiếm quá nửa diện tích tự nhiên của tỉnh; các vùng nửa đồi

núi tuy không lớn nhưng lại phân bố rải rác, xen kẽ chạy dài từ điểm cực Tây huyện Gia
Viễn theo hướng Đông Nam qua huyện Hoa Lư, Yên Mô xuống Kim Sơn và ra tới biển
Đông (giáp huyện Nga Sơn - Thanh Hoá). Điểm cao nhất so với mặt biển là đỉnh Mõy

Vũ Thị Liên

2

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp

Bạc trên vườn Quốc gia Cúc Phương cao 656m, điểm thấp nhất so với mực nước biển là
xã Gia Trung huyện Gia Viễn (-0,4m). Huyện Gia Viễn, Yên Mô và một phần huyện
Hoa Lư là vùng trũng, hay bị úng lụt. Tồn tỉnh có 18 km bờ biển thuộc huyện Kim
Sơn, có cửa sơng Đáy đổ ra biển tạo ra vùng bãi bồi hàng năm tiến thêm ra biển khoảng
100 - 120m và quĩ đất tăng thêm hàng năm khoảng 140 - 168ha. Với địa hình đa dạng
như vậy, Ninh Bình có đủ điều kiện để phát triển một nền kinh tế tổng hợp. Đứng về
mặt địa hình, Ninh Bình cần tính tới các phương án khai thác hợp lý lãnh thổ để có sự
phát triển tổng hợp, đạt nhịp độ tăng trưởng cao
1.3.

Khí hậu:
Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sơng Hồng, ngồi ảnh hưởng

sâu sắc của gió mùa Đơng Bắc, Đơng Nam, cịn chịu ảnh hưởng của khí hậu ven biển,
khí hậu rừng núi và nửa rừng núi. Thời tiết trong năm chia làm hai mùa khá rõ rệt: mùa

khô từ tháng 11 - 12 năm trước đến tháng 4 năm sau; mùa mưa từ tháng 5 - tháng 10.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24,2oC và có sự chênh lệch khơng nhiều giữa các
vùng (hơn kém nhau từ 0,3-0,4oC); tháng 7 có nhiệt độ trung bình cao nhất là 29,3oC,
tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 17,9oC. Số giờ nắng trung bình mỗi tháng là
117,3 giờ, tháng 6 cao nhất là 187,4 giờ, tháng 2 thấp nhất là 24,3 giờ. Tổng số giờ nắng
trung bình năm trên 1.400 giờ. Tổng nhiệt độ năm đạt tới trị số trên 8.500oC, có tới 8-9
tháng trong năm có nhiệt độ trung bình trên 20oC.
Độ ẩm trung bình hàng năm là 83% và có sự chênh lệch không nhiều giữa các
tháng trong năm: tháng 2 cao nhất là 89%, tháng 11 thấp nhất là 75%; giữa các vùng
chênh lệch nhau trên dưới 1%.
Lượng mưa rơi trung bình tồn tỉnh đạt từ 1.860 - 1.950 mm, phân bố tương đối
đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ của Tỉnh. Trung bình một năm có 125 - 127 ngày mưa.
Lượng mưa trung bình mỗi tháng là 238,8 mm; tháng 9 cao nhất là 816 mm, tháng 1
thấp nhất là 8,5 mm. Lượng mưa phân bổ không đều trong năm, thường tập trung vào
các tháng từ tháng 5 đến tháng 10 và chiếm từ 86 - 91% tổng lượng mưa trong năm.
1.4 Thuỷ văn
Ninh Bình có nhiều sơng và đầm hồ. Đây là nguồn nước mặt cung cấp nước cho
công nghiệp, nông lâm nghiệp và bồi đắp phù sa cho đồng ruộng. Hàng năm, hệ thống
sơng ngịi ở Ninh Bình được ni dưỡng bằng nguồn nước mưa dồi dào, tạo nên lượng
dòng chảy tương đối phong phú (khoảng 30 l/s/km2). Mt mng li sụng ngũi

Vũ Thị Liên

3

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng


Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

khoảng 0,6-0,9 km/km2. Các sơng lớn thường chảy theo hướng Tây Bắc - Đơng Nam để
đổ ra biển. Ninh Bình có nhiều hồ lớn như hồ Đồng Thái, hồ Yên Thắng, hồ Đồng
Chương, hồ Yên Quang, hồ Đầm Cút, đầm Vân Long... Với điều kiện thủy văn như vậy
rất thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc tự nhiên từ nhiều
miền địa lý khác nhau: nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới. Trên cơ sở đó có thể phát triển nền
nơng nghiệp đa dạng. Đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp,
du lịch và các hoạt động phát triển kinh tế khác.
1.5 Sinh vật
Về các hệ động thực vật, nơi lưu giữ được thảm thực vật và động vật rừng có giá
trị đối với du lịch tại Ninh Bình là Vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương là
loại rừng mưa nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng (5 tầng), phong
phú về thành phần loài (2.000 loài). Động vật ở Cúc Phương cũng rất phong phú với
233 lồi động vật có xương sống, nhiều lồi chim và 24 trong số 30 bộ cơn trùng có mặt
tại Việt Nam. Bên cạnh Vườn quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn đất ngập nước Vân
Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước. Đây cũng là
nơi khoanh vùng bảo vệ loài Voọc quần đùi trắng - một loài linh trưởng quý hiếm đã
được ghi trong Sách đỏ thế giới.
1.6. Đất đai:
Ninh Bình có tổng diện tích tự nhiên là 139.011 ha, trong đó đất cho sản xuất
nơng nghiệp là 61.959 ha (chiếm 44,57% diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp 27.644 ha
(chiếm 19,89% diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng 15.197 ha (chiếm 10,93% diện tích
tự nhiên), đất khu dân cư 5.346 ha (chiếm 3,85% diện tích tự nhiên) và đất chưa sử dụng
17.094 ha (chiếm 12,3% diện tích tự nhiên).
Nhìn chung, tài ngun đất ở Ninh Bình có độ phì trung bình với ba loại địa hình
ven biển, đồng bằng và bán sơn địa nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng thuộc
nhóm cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản;
đồng cỏ chăn nuôi, cây rừng đa tác dụng. Vùng gị đồi có nhiều tiềm năng để chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển công nghiệp. Đây là một lợi thế của Ninh

Bình so với một số tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, diện tích đất chưa
sử dụng là 17.094 ha trong đó khả năng đưa vào khai thác cho các hoạt động kinh tế
(trừ núi đá khơng rừng cây) cịn 12.139 ha chiếm 8,73% diện tích tự nhiên.
1.7. Tài ngun khống sản:
Đá vơi: đây là nguồn tài ngun khống sản lớn nhất của Ninh Bình. Với những
dãy núi đá vơi khá lớn, chạy từ Hịa Bình qua Nho Quan, Gia Viễn, Hoa L, Tam ip,

Vũ Thị Liên

4

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

n Mơ ra tới tận Biển Đơng dài hơn 40 km; diện tích trên 1,2 vạn ha, với trữ lượng
hàng chục tỷ m3 đá vôi, chất lượng tốt.
Đất sét: Phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp thuộc xã Yên Sơn, Yên Bình, thị
xã Tam Điệp, các huyện Gia Viễn, n Mơ, dùng để sản xuất gạch ngói và làm nguyên
liệu cho ngành đúc, đảm bảo cho xây dựng các nhà máy sản xuất gạch công suất 20-50
triệu viên/năm, khai thác ổn định trong vài chục năm.
Tài nguyên nước khống: Nước suối Kênh Gà (Gia Viễn) có vị mặn, trữ lượng
lớn, thường xuyên có nhiệt độ tới 53 - 54OC, có thể khai thác đưa vào tắm, ngâm chữa
bệnh kết hợp với du lịch rất tốt. Nguồn nước khoáng Cúc Phương dùng để sản xuất
nước giải khát và tắm ngâm chữa bệnh, có thành phần magiêbicarbonat cao.
Tài nguyên than bùn: có trữ lượng nhỏ (khoảng 2 triệu tấn), phân bố ở Gia Sơn,
Sơn Hà (Nho Quan), Quang Sơn (thị xã Tam Điệp)...

Một số khoáng sản khác như: cát xây dựng, sét gốm sứ, sét ximăng, gạch ngói
trữ lượng nhỏ, phân bố rải rác ven vùng đồi núi thấp ven thị xã Tam Điệp, Gia Viễn,
n Mơ.
Bên cạnh đó, Ninh Bình cịn nằm gần các nguồn năng lượng lớn của quốc gia ở
miền Bắc như: bể than Quảng Ninh; thuỷ điện Hồ Bình; Nhiệt điện Phả Lại... giúp cho
Ninh Bình thoả mãn các nhu cầu về than, điện phục vụ cho phát triển sản xuất cũng như
nhu cầu dân sinh.
2. Điều kiện dân cư, kinh tế - xã hội:
Dân số của Ninh Bình là 936.262 người trong đó số dân trong độ tuổi lao động xấp
xỉ 60%, mật độ dân số 659 người/ km2. Dân tộc ngoài dân tộc Kinh và dân tộc Mường
chiếm 1,7% dân số thì các dân tộc khác như Tày, Nùng, Thái, Hoa, H’Mông, Dao…mỗi
dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Dân tộc Mường đã định cư khá lâu
đời ở các xã thuộc miền núi cao như Nho Quan, Tam Điệp, cịn lưu giữ được nhiều giá
trị văn hóa truyền thống hấp dẫn du lịch. Các dân tộc khác sống rải rác ở các địa phương
trong tỉnh, khơng hình thành cộng đồng dân tộc nhất định, đa số có quan hệ hôn nhân và
chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục tập quán sinh hoạt, sản xuất, truyền thống văn
hóa của người Kinh.
Trong những năm qua, Ninh Bình đã thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã
hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và XIV đề ra với kết quả năm sau
cao hơn năm trước. Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn hố - xã hội
có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thin. Tc tng trng kinh

Vũ Thị Liên

5

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng


Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp

tế hàng năm đạt cao; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn từ năm 1996-2000 đạt bình
quân: 8,12%/ năm; từ năm 2001-2005 bình quân đạt 11,9%/năm; năm 2006 đạt 12,6%;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng cơng nghiệp, dịch vụ. Thu
nhập bình qn đầu người năm 1991 đạt 0,51 triệu đồng, năm 2006 đạt 6,42 triệu đồng,
tăng 12,5 lần. Thu ngân sách năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng, năm 2006 đạt 878 tỉ đồng, tăng
35,98 lần.
Về nông nghiệp: tỉnh đã tập trung chỉ đạo chuyển được gần 9000 ha đất nơng
nghiệp trồng cây có giá trị thấp sang ni trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế cao
như: ni tơm sú, trồng cói ở Kim Sơn, nuôi tôm càng xanh, trồng dứa ở Tam Điệp,
Nho Quan, nuôi thả cá chim trắng ở Gia Viễn, Hoa Lư, cấy các giồng lúa đặc sản: tám,
nếp, dự... ở Kim Sơn, Yên Khánh.... Cả tỉnh có 294 trang trại mỗi năm doanh thu bình
quân từ 20 triệu đồng trở lên.
Về công nghiệp: tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 khu cơng nghiệp, cụm cơng
nghiệp với diện tích 880 ha trong đó có các khu cơng nghiệp, cụm công nghiệp lớn như:
khu công nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, cụm cơng nghiệp Gián
Khẩu.... Ninh Bình đã ban hành các cơ chế, chính sách như: chính sách khuyến khích,
ưu đãi đầu tư vào các khu cơng nghiệp, khu du lịch; chính sách khuyến khích tài năng
thu hút nhân tài; quỹ khuyến công ; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển. Trên địa bàn tỉnh đã
khởi công nhiều cơng trình lớn về giao thơng, thuỷ lợi, du lịch, thể thao như: hồ Yên
Thắng; dự án phân lũ, chậm lũ Nho Quan và Gia Viễn; sân vận động, Nhà thi đấu trung
tâm; Nhà máy cán thép Tam Điệp công suất 36 vạn tấn/ năm; Nhà máy xi măng Tam
Điệp cơng suất 1,4 triệu tấn/ năm....Các cơng trình đầu tư trên lần lượt đưa vào sử dụng
sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Các hoạt động dịch vụ
vận tải, bưu chính viễn thơng, bảo hiểm, tín dụng, du lịch... đều đạt mức tăng trưởng
bình quân trên 25%/ năm. Thu ngân sách tăng bình quân trên 20%/ năm.
3.Tài nguyên du lịch
3.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên

Với diện tích tự nhiên 1.390,11 km2, tuy là một tỉnh khơng lớn nhưng Ninh Bình
là một tỉnh có địa hình rất đa dạng: có núi, đồng bằng, vùng ven biển, mang đầy đủ sắc
thái địa hình Việt Nam thu nhỏ… Đặc điểm về địa hình kết hợp với các thành phần tự
nhiên khác như hệ thống thủy văn, lớp phủ thực vật... đã tạo cho Ninh Bình tiềm năng
du lịch đa dạng và phong phú. Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất này nhiều danh lam
thắng cảnh kỳ thú, nhiều hang động nổi tiếng, quần thể hang động Tràng An, Tam Cốc
– Bích Động, vườn quốc gia Cúc Phương với hệ động thực vật phong phú, khu bảo tồn
đất ngập nước Vân Long, khu du lịch sinh thái hồ Yên Thắng, Yên Đồng, Yên Thái với
cảnh quan đặc sắc và tính đa dạng sinh học cao… õy l tin quan trng cho vic

Vũ Thị Liên

6

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như du lịch sinh thái, du lịch vui chơi giải trí,
du lịch chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch tham quan… Một số tài nguyên tiêu biểu:


Vườn quốc gia Cúc Phương (huyện Nho Quan):
Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thành lập vào 7/7/1962.

Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật vơ cùng phong phú, đa
dạng và độc đáo. Vườn có diện tích 22.200 ha, trong đó ắ là núi đá vôi cao từ 300 đến

600m so với mặt biển. Tại đây có đỉnh Mây Bạc cao 648,2m.
Khí hậu ở Cúc Phương thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
năm khoảng 24,7ºC. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên sinh chứa nhiều bí ẩn, và
cảnh quan độc đáo. Tại đây có rất nhiều hang động với cảnh quan kỳ thú và ẩn chứa
những chứng tích văn hoá lịch sử lâu đời như động Trăng Khuyết, động Chúa, động
Thuỷ Tiên, động Người Xưa, hang Con Moong, động San Hơ...
Trong vườn cịn có suối nước nóng 38ºC. Hệ thực vật rất phong phú với 1.944
loài thuộc 908 chi và 229 họ. Đặc biệt có cây chị xanh, cây sấu cổ thụ đều trên dưới
1.000 năm tuổi, cao từ 50-70m. Riêng hoa phong lan có tới 50 lồi, có loài cho hoa và
hương thơm quanh năm. Hệ động vật đa dạng bao gồm 71 loài thú, hơn 300 loài chim,
33 lồi bị sát và 16 lồi lưỡng cư. Nhiều lồi thú q như: gấu, ngựa, lợn lịi, hổ, báo,
chồn, sóc, khỉ... Khu chăn ni nửa tự nhiên với các lồi hươu sao, nai, khỉ vàng, voọc
quần đùi, sóc bay... là nơi phục vụ công tác nghiên cứu của các nhà khoa học và du
khách có dịp chiêm ngưỡng như khi sống trong rừng tự nhiên. Cúc Phương còn là quê
hương của hàng trăm loài chim, bướm đẹp và lạ.
Hiện nay, vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành một trung tâm cung cấp các lồi thực
vật q hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho các chương trình trồng rừng trong khu vực và
trên cả nước. Nơi đây đã có những khu gây giống tự nhiên đạt kết quả cho các lồi chị chỉ, chị
xanh, kim giao... Trong tương lai vườn còn xây dựng và mở rộng thêm cơ sở thực nghiệm để
cung cấp giống nhiều loài cây thuốc, cây cảnh quý hiếm cho những nơi có nhu cầu.
Đến Cúc Phương đẹp nhất vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, khi những cơn mưa
rừng dữ dội đã đi qua. Đường tới Vườn Quốc gia Cúc Phương rất thuận tiện. Một khu rừng
nguyên sinh với hệ sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng, phong phú được bảo vệ nghiêm ngặt lại
nằm trên tuyến đường du lịch với những điểm du lịch hấp dẫn như Bích Động, cố đô Hoa Lư,
bãi biển Sầm Sơn... đang cuốn hút khách du lịch đến tham quan và các nhà khoa học đến
nghiên cứu. Tại vườn cịn có một số chương trình du lịch cho khách lựa chọn như đi bộ, du lịch
mạo hiểm, leo núi…




Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long:
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ

sinh thái núi đá ngập nước có diện tích lớn nhất ở vựng ng bng sụng Hng (khong

Vũ Thị Liên

7

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp

2.643 ha). Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ loài Voọc quần đùi trắng - một loài linh
trưởng quý hiếm đã được ghi trong Sách đỏ thế giới. Vân Long là một vùng đất cịn ít
được khám phá với cảnh quan đặc biệt hấp dẫn. Du khách từ Hà Nội về xi theo quốc
lộ 1A xuống phía Nam, đến km 85 rẽ vào đường 12 B tới vườn quốc gia Cúc Phương,
đến km 6 rẽ phải vào đường Thống Nhất của xã Gia Vân, đi thêm 1 km nữa tới đê Đầm
Cút là tới khu bảo tồn Vân Long.
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện Gia
Viễn, Ninh Bình là các xã: Gia Hưng, Liên Sơn, Gia Hòa, Gia Vân, Gia Lập, Gia Tân,
Gia Thanh ở phía Đơng Bắc tỉnh Ninh Bình, cách thị xã Ninh Bình gần 20km về phía
Bắc. Địa hình Vân Long bằng phẳng, độ chênh khơng q 0,5m nhưng có kiểu hình ơ
trũng giữa các dịng sơng lớn nhất của Ninh Bình, nằm về phía Nam của châu thổ Bắc
Bộ. Đất ngập nước với mức sâu khoảng vài mét, đan xen là các dãy núi đá vôi nổi lên
cao sàn sàn dưới 300m, đỉnh núi Ba Chon cao nhất tới 428m. Ranh giới giữa chân các
dãy núi và cùng đất trũng ngập nước còn xen kẽ một số đồi đá thấp có độ cao khơng q

50m. Núi đá vơi và đồi cát chiếm ắ diện tích. Là khu vực có đa dạng sinh học, có HST
núi đá vôi là nơi sinh sống của quần thể “Voọc quần đùi” lớn nhất Việt Nam.
Rừng Vân Long có 457 lồi thực vật bậc cao có mạch thuộc 327 chi, 127 họ. Đặc
biệt có 8 lồi được ghi trong sách Đỏ Việt Nam (1996) là kiêng, lát hoa, tuế lá rộng, cốt
toái bổi, sắng, bách bộ, mã tiền hoa tán… Về động vật có 39 lồi, 19 họ, 7 bộ thú; có 12
lồi động vật q hiếm như Voọc quần đùi (với số lượng lớn nhất ở Việt Nam), gấu
ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt đỏ, cày vằn,… Trong các lồi bị sát có 9 lồi được
ghi trong sách Đỏ Việt Nam là rắn hổ chúa, kỳ đà, trăn đất, rắn ráo trâu, rắn ráo thường,
rắn sọc đầu đỏ, rắn cạp nong, rắn hổ mang, tắc kè. Điều đáng chú ý là tại khu vực ngập
nước Vân Long có lồi cà cuống thuộc họ chân bơi, một lồi cơn trùng q hiếm, hiện
cịn rất ít ở Việt Nam. Cà cuống sống được thể hiện sự trong lành của môi trường nước,
của không gian cảnh quan xung quanh.
Không chỉ là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước, Vân Long cịn là nơi có
cảnh quan và di tích văn hóa có giá trị. Đây là núi Nghiên, núi Hịm Sách, núi Đá Bàn,
núi Mèo cào, kia là núi Cô tiên, núi Voi dựng, núi Cánh cổng… Mỗi trái núi là một
huyền thoại hấp dẫn. Khu Vân Long cịn có 32 hang động đẹp, nhiều hang rộng có giá
trị như hang Cá, hang Bóng, hang Rùa, hang Chanh… ở đây cịn có Kẽm Chăn và đền
thờ Mẫu, nơi thờ mẹ của bốn tướng Hồng Nương…
Non nước Vân Long, một cảnh núi ẩn mây trời, mây che ấp núi. Nước ở đây
mênh mơng phẳng lặng, khơng có sóng to gió lớn, mang phong cảnh một miền quê êm ả
- một Vịnh Hạ Long khơng có sóng. Đây chính là một nơi du lch sinh thỏi rt tt, l

Vũ Thị Liên

8

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng


Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp

hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn nghiên cứu
về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.


Quần thể khu du lịch hang động Tràng An:
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, cách cố đô Hoa Lư

khoảng 4km về phía Nam, diện tích trên 1.500ha, với những dải đá vơi, các thung lũng
và những dịng sơng ngịi đan xen vào nhau tạo nên một không gian huyền ảo và thơ
mộng. Sau khi du khách dâng hương tưởng niệm tại hai đền vua Đinh và vua Lê, đến
bến thuyền sông Sào Khê. Từ đây những chiếc thuyền nan lướt nhẹ trên mặt nước qua
Xuyên Thuỷ Động sẽ đưa du khách vào thăm quần thể hang động Tràng An. Hai bên
dịng sơng là những phong cảnh sơn thuỷ hữu tình mà thiên nhiên đã ban tặng nơi đây:
đây là núi ông Trạng, núi Hòm Sách, núi Mỏ Trả, kia là núi con mèo...
Khu du lịch Tràng An có quần thể hang động như: hang Ba Giọt, hang Địa Linh,
hang Tối, hang Sáng, hang Ao Trai, hang Seo,.. và các thung lũng như: thung đền Trần,
thung Mây, thung Nấu rượu, thung Khống... các hang xuyên thuỷ dài và đẹp mới được
khai thác sẽ làm cho du khách ngỡ ngàng. Tất cả dường như hồ quyện vào nhau tạo
nên một khơng gian kỳ thú.


Tam Cốc:
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi

tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đơ Hà Nội 100
km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang động,
di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam Cốc, chùa

Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba ở thôn Văn Lâm, xã
Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Du khách vào thăm Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy
nhất, vào ra mất khoảng hơn 1 giờ đồng hồ. Đến đình Các ở thơn Văn Lâm, ra bến sông
Ngô Đồng - con đường thủy dẫn vào Tam Cốc. Lúc thuyền luồn vào ba hang, du khách
sẽ cảm nhận được làn khơng khí trong lành, mát lạnh của hương đồng gió nội. Thạch
nhũ từ trần hang rủ xuống lơ nhơ óng ánh như những khối châu ngọc kỳ ảo.


Động Địch Lộng:
Động thuộc xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, được nhân dân phát hiện từ năm

1739. Trong động có một nhũ đá giống tượng Phật nên đã lập bàn thờ Phật ở đây. Đến
năm 1740 động được nhân dân trong vùng tu bổ thành một ngôi chùa để thờ Phật. Động
rộng chừng 10 gian nhà, trong động được bày nhiều tượng Phật, tượng La hán, tượng
Hộ pháp đặt trên các bệ đá. Đặc biệt có hai tượng Phật được tc bng ỏ xanh nguyờn
khi rt p.

Vũ Thị Liên

9

Kinh tế ®Çu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

Động gồm có ba hang nối liền nhau, hang ngồi thờ Phật, rồi đến hang Tối, hang

Sáng. Vào động Địch Lộng du khách như đang lạc vào cõi trùng điệp của đá. Nhiều nhũ
đá mang hình dáng như voi uống nước, voi chầu, hổ phục, phượng múa, rồng uống
nước, khỉ cõng con… Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ
thuật, một nét chạm khắc tuyệt với của thiên nhiên, của thời gian trên đá.
Một điều độc đáo là nhũ đá trong động thay đổi màu theo ánh sáng mặt trời. Lúc
rạng đơng có màu hồng, buổi trưa lấp lánh như pha lê, và chuyển màu đỏ thẫm khi
hồng hơn. Trong động cịn có lối lên Trời, lối xuống Âm phủ, lối xuống Âm phủ của
động đầy huyền bí bởi nước của các nhũ đá đều đặn nhỏ giọt tạo nên một bản nhạc
không bao giờ dứt. Cảnh đẹp của Địch Lộng được vua Minh Mạng ban tặng cho 5 chữ
khi đến tham nơi đây - “Nam thiên đệ tam động” (Động đẹp thứ 3 Trời Nam).


Động Tiên:
Động Tiên cịn có tên gọi khác là động Móc, ở thơn Đam Khê, xã Ninh Hải,

huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách Bích Động gần 1km. Động gồm có ba hang lớn,
rộng, và cao vời vợi. Đường vào động phải đi qua một khe hang nhỏ, mấp mô. Trần
động là vân đá, nhũ đá rủ xuống lấp lánh nhiều sắc màu. Nhiều khối nhũ đá từ trên trần
rủ xuống nền động cao hơn chục mét tựa như những rễ cây đa cổ thụ. Nhiều nhũ đá
được đặt tên như: cây tiền, cây thóc, ơng tiên, cơ tiên, con voi, con hổ, kỳ đà... Xung
quanh vách động và trên nền cũng có rất nhiều măng đá, nhũ đá. Những nhũ đá được
thiên nhiên chạm trổ vừa phóng khống, vừa tinh xảo mà sống động. Đứng từ bên ngồi
nhìn vào, dưới ánh sáng kỳ ảo động Tiên như một lâu đài nguy nga tráng lệ trong huyền
thoại. Đến thăm động Tiên, du khách sẽ như lạc bước vào chốn bồng lai, tiên cảnh,
được khám phá và hồ mình vào khung cảnh tự nhiên kỳ thú.


Động Sinh Dược:
Động Sinh dược thuộc địa phận thơn Xn Trì, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, là


động xuyên thủy dài gần 2km. Vào động bằng một trong hai cửa, ngồi thuyền mất hơn
một giờ đồng hồ, du khách vào cửa động bên này sẽ ra cửa động bên kia. Những dải nhũ
đá thiên hình vạn trạng, quyến rũ sức tưởng tượng của du khách. Chỗ này nhũ đá như
được gọt dũa một cách tinh tế, chỗ kia như bột dẻo nặn ra rất mềm mại. Có nhiều “con
vật” như sống ở thời hồng hoang hiện về. Tùy theo hướng ngồi và ánh sáng chiếu vào,
du khách sẽ thấy nhũ đá với những dáng hình khác nhau. Đặc biệt là có chỗ nhũ đá nhỏ
li ti, có chỗ nhũ đá chảy dài xuống mặt nước, sống trong nước như san hô. Điều kỳ lạ
nữa là rất nhiều nhũ đá ở trên trần hang trắng muốt như dát bạc, như muối trắng phau
bao bọc xung quanh. Thành động là những vách đá phẳng dựng đứng, chỗ này như đá
xây, chỗ kia đá bào mòn đến trơ trụi, nhẵn bóng. Chắc chắn du khách sẽ bị cuốn hút bi

Vũ Thị Liên

10

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

vẻ đẹp kỳ ảo của động và khơng thể khám phá hết cái thế giới kỳ thú này chỉ thông qua
một chuyến đi.


Đèo Tam Điệp:
Đèo Tam Điệp cịn có tên là đèo Ba Dội đã đi vào trong thơ ca của bà chúa thơ

Nôm Hồ Xuân Hương. Đèo thuộc thị xã Tam Điệp, cách thị xã Ninh Bình 18km về phía

Nam. Nơi đây có 3 dãy núi đá vơi chạy suốt từ Hịa Bình về, ăn ra biển Đơng theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam. Chỗ núi đá hạ thấp xuống gọi là Đèo. Vì có ba đèo liền
nhau nên gọi là Tam Điệp.
Điều độc đáo ở đây là đèo Tam Điệp có đất đỏ. Từ đây, du khách có thể quan sát
cả một vùng rộng lớn. Toàn cảnh đèo là những dãy núi hùng vĩ, hiểm trở, quanh co như
những con rồng uốn khúc, đan xen là những thung lũng rộng và nhiều dòng suối trong
xanh uốn lượn. Đèo Tam Điệp khơng chỉ có cảnh đẹp mà cịn là một phong tuyến phịng
ngự rất lợi hại, mang vị trí chiến lược trong quân sự như bức tường thành thiên nhiên án
ngữ con đường thiên lý ra Bắc vào Nam. Vì vậy, từ xa xưa nơi đây đã được chọn là cửa
ải (quận Cửu Chân - Thanh Hóa và quận Giao Chỉ - Bắc Bộ). Như vậy, đèo Tam Điệp
không chỉ là một thắng cảnh mà còn là một di tích lịch sử nổi tiếng đã đi vào lịch sử, đi
vào thơ văn của các thi nhân xưa và nay.


Suối nước nóng Kênh Gà:
Suối nước nóng mặn Kênh Gà thuộc thôn Kênh Gà, xã Gia Thịnh, huyện Gia

Viễn. Du khách đến bến sơng ở cống Đồng Trưa trên dịng sơng Hồng Long để bắt đầu
hành trình tham quan suối nước nóng Kênh Gà. Thuyền ngược dịng Hồng Long, du
khách thỏa sức ngắm nhìn cảnh trời mây, sơng nước. Núi Kênh gà trơng xa như hình
một con lạc đà đang đi, nơi đây có một nguồn nước suối nóng mặn, vì thế suối có tên là
Kênh Gà. Dịng nước từ trong núi chảy ra, trong vắt, chưa bao giờ ngừng. Mạch nước
này có từ lâu lắm, nhưng đến năm 1940 người Pháp mới biết tới và bắt đầu nghiên cứu
và đưa vào khai thác. Nước khoáng Kênh gà chứa nhiều muối natriclorua, kaliclorua,
canxi, magieeclorua và muối Bicacbonat, nước không màu, trong, nhiệt độ ổn định cho
quanh năm là 53ºC. Nước khoáng Kênh Gà dùng để tắm hay ngâm mình nhiều lần sẽ
khỏi các bệnh như khớp mãn tính, viêm dây thần kinh, các bệnh ngoài da và phụ khoa...
Nước suối Kênh gà uống vào có tác dụng kích thích hoạt động của gan, mật, chữa bệnh
bướu cổ, và dùng để bào chế thành huyết thanh tiêm tĩnh mạch...



Động Vân Trình:
Động Vân Trình rộng gần 3.500m2, là một động lớn nhất và đẹp nhất của tỉnh

Ninh Bình, sánh ngang với động Thiên Cung ở Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Động nằm

Vị ThÞ Liên

11

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

trong núi Mõ, thuộc thơn Vân Trình xã Thượng Hịa huyện Nho Quan. Núi Mõ là tên
gọi tượng hình của dân gian, còn tên chữ thời xưa gọi là núi Thổ Tích. Theo sách Đại
Nam nhất thống chí “núi Thổ Tích cách huyện Gia Viễn 32 dặm về phía Tây, sườn núi
có động, động lại chia làm hai, động trước có khe hở ánh sáng thấu suốt, động sau rất
sâu, khi vào tất phải dùng đuốc, phần này rộng rãi có thể chứa được vài trăm người;
thạch nhũ kết tụ, sắc óng ánh đáng u”.
Động Vân Trình gồm 2 hang liền nhau, so le một cao một thấp là hang Cả và
hang Hai. Trong cả hai hang đều là những nhũ đá đẹp như những “vách gấm”, nhiều
khối nhũ đá từ trên nóc động chảy xuống, có khối chạm đến nền hang, như những nhánh
rễ cây đa cổ thụ to lớn thả xuống mặt đất. Động Vân Trình cịn giữ nguyên được nét đẹp
trinh nguyên, tinh khiết của đá. Du khách đến đây không cần phải tưởng tượng về chốn
bồng lai tiên cảnh, mà chính hang đã là cảnh thần tiên hiện giữa cõi trần.



Hồ Đồng Chương:
Một hồ nước trong nằm giữa hai xã Phú Lộc và Phú Long, huyện Nho Quan có

tên gọi là Đồng Chương. Xung quanh hồ là những dải đồi thông xanh mướt, nhấp nhô,
trùng điệp vây phủ lấy mặt hồ làm cho nước hồ đã xanh lại càng thêm xanh. Gần hồ có
thác Ba Tua, và dịng Chín Suối. Đi thăm hồ, rồi leo đồi lên đến đỉnh du khách sẽ gặp
được một hồ nước nhỏ gọi là Ao Trời, cũng trong xanh và không lúc nào cạn nước. Du
khách đến đây sẽ thấy được vẻ đẹp hòa quyện của thiên nhiên và con người nơi đây, vì
thế Đồng Chương được ví như “Đà Lạt” của Ninh Bình.


Hồ Đồng Thái:
Cách thủ đơ Hà Nội 115 km về phía Đơng Nam hồ Đng Đèn và hồ Đồng Thái

trên địa bàn hai xã Đông Sơn (Thị xã Tam Điệp) và n Đồng (huyện n Mơ) có diện
tích rộng hơn 380ha được bao bọc bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ và con đê trải dài hơn
10 km. Hồ có trữ lượng hơn 8.000.000m3 nước với hàng trăm lồi thực vật, động vật
thủy sinh khơng chỉ phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản mà còn là
một điểm du lịch sinh thái lý tưởng.


Núi chùa Bái Đính:
Ninh Bình là địa phương có nhiều hang động nổi tiếng. Trong đó, có một động

được người xưa khẳng định “Nào Địch Lộng, nào Thiên Tơn, Bàn Long, Bích Động xem
cịn kém đây”, đó là hang động ở núi Bái Đính thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn.
Núi Bái Đính đứng độc lập, cao đến hơn 200m, có diện tích khoảng gần
150.000m2, quay hướng Đơng, có dáng vịng cung hai bờn khộp li ta tay ngai to


Vũ Thị Liên

12

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp

thành một thung ở dưới rộng khoảng 3ha gọi là thung Chùa. Nhìn theo một góc khác,
núi lại trơng giống một người khổng lồ ngồi quay lưng ra biển, hai chân duỗi về phía
Tây Bắc và Tây Nam. Đứng từ xa nhìn lên thấy cảnh núi ẩn mây trời, mây che ấp núi
tạo thành một bức tranh phong cảnh sơn lâm ngoạn mục. Núi Bái Đính hiện cịn giữ
được cái nguyên sơ của núi rừng xa xưa, cây cối tươi tốt, có nhiều cây cao to bao phủ
núi non, xanh mướt một màu dịu mát.
Lên thăm động, du khách phải bước lên trên 300 bậc đá. Đi được nửa quãng
đường là đến hang Voi Phục, trong hang đặt tượng Đức Ơng mặt đỏ - người có nhiệm
vụ trơng coi tồn bộ cảnh chùa. Tiếp tục leo hết 300 bậc đá, phía bên tay phải là động
Sáng - động thờ Phật. Chiều cao của động trên 2m, dài 25m và rộng 15m, nền hang
bằng phẳng. Một điều rất kỳ lạ là trần hang khơng có các nhũ đá chảy xuống mà bằng
phẳng, nhẵn lỳ. Chỉ lác đác ở thành hang có nhũ đá. Tương truyền, xưa kia Thiền sư
Nguyễn Minh Không (1065-1141) khi đến đây tìm cây thuốc đã phát hiện ra động này
và từ đó biến làm động thờ Phật.
Đối diện với động Sáng thờ Phật là động Tối thờ Liễu Hạnh - bà chúa Thượng
Ngàn. Động Tối cao và rộng hơn gồm 7 hang, mỗi hang có cấu tạo khác nhau, có hang ở
trên cao, có hang ở sâu hơn 4m, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng như lịng
chảo nhưng đều thơng nhau theo các ngách đá. Hang giữa rộng nhất là nơi thờ bà chúa
Thượng Ngàn, tượng bằng đá được sơn son thiếp vàng. Du khách đi thăm quan núi Bái

Đính khơng chỉ thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, mà điều quan trọng là u thích
khám phá thiên nhiên, tìm thấy sự đồng cảm, sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên,
từ đó nâng tâm hồn con người thêm phong phú.
Thời kỳ Cách mạng tháng 8 năm 1945, núi chùa Bái Đính là nơi hoạt động bí
mật của các chiến sỹ cộng sản. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
núi chùa Bái Đính là nơi ở, làm việc của công an, bộ đội, ban tôn giáo vận khu ủy…
Nơi đây cũng dùng làm khu vũ khí, kho quân lương, bệnh viện… rất an tồn. Ngày
18/6/1997 Bộ Văn hóa Thơng tin đã ra quyết định số 1543, cấp bằng “Di tích lịch sử
văn hóa Núi Chùa Bái Đính”. Hiện nay, khu vực núi chùa Bái Đính đã được UBND tỉnh
phê duyệt dự án tu bổ tôn tạo lại chùa Bái Đính thành một tổ hợp vui chơi giải trí, văn
hóa tín ngưỡng tâm linh vào loại lớn của tỉnh và vùng đồng bằng Sơng Hồng. Chùa Bái
Đính đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo khang trang hơn, với pho tượng Phật ngồi bằng đồng
nặng 150 tấn (to nhất khu vực Đông Nam á), 3 pho tượng Tam thế nặng 100 tấn và quả
chng đồng nặng 50 tấn. Ngồi ra, cịn có khu vườn tượng với 108 pho tượng các vị la
hán được chế tác từ đá xanh Ninh Bình. Khi dự án hoàn thành, nơi đây sẽ là một trung
tâm dịch vụ du lịch lịch văn hóa tín ngưỡng hp dn.

Vũ Thị Liên

13

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

Ngồi các điểm danh lam thắng cảnh trên, Ninh Bình cịn có nhiều vùng cảnh
quan khác có giá trị, đặc biệt là hệ thống các hang động karst nằm trải dài dọc theo lãnh

thổ của tỉnh Ninh Bình (đáng chú ý là khu vực huyện Yên Mô và Tam Điệp) trong đó
đáng chú ý như động Mã Tiên, động Hang Mát, động Trà Tu, động chùa Hang, hang
Dơi, hang Bụt... đều là những tài nguyên du lịch có giá trị; cùng với hệ thống các hồ
thủy lợi như hồ Yên Thắng, hồ Yên Đồng... bên cạnh việc cung cấp nước cho thủy lợi,
sinh hoạt còn sẽ là những điểm tài nguyên du lịch sinh thái hồ có nhiều khả năng hấp
dẫn du khách.


Hệ sinh thái vùng ven biển:
Với 18 km đường bờ biển nơi có cửa sơng đổ ra với sự hình thành 2 cồn nổi

(Cồn Thoi và Hịn Nẹ), thảm thực vật ngập mặn đã hình thành tạo thành nơi cư trú của
nhiều loài sinh vật, đặc biệt là một số lồi chim di cư q hiếm như Cị thìa… Đây cũng
là một dạng tài nguyên du lịch tự nhiên có ý nghĩa đối với sự phát triển du lịch của Ninh
Bình.
3.2 Những đặc điểm văn hố, phong tục tập quán ảnh hưởng tới phát triển ngành
du lịch của tỉnh.
Tài nguyên du lịch nhân văn là những giá trị vật chất cũng như tinh thần do bàn
tay và khối óc của sự đoàn kết của cộng đồng các dân tộc anh em cùng chung sống ở
Ninh Bình sáng tạo và gìn giữ trong dịng chảy của cuộc sống. Các tài nguyên này bao
gồm những di tích lịch sử - văn hóa, di tích lịch sử - cách mạng, các làng nghề thủ cơng
truyền thống, những giá trị văn hóa phi vật thể như văn nghệ dân gian, lễ hội... thể hiện
bẳn sắc văn hóa hết sức đa dạng của nhân dân Ninh Bình và là nguồn lực thu hút khách
du lịch trong và ngồi nước.
3.2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa
♦ Cố đơ Hoa Lư
Cố đơ Hoa Lư là kinh đô của nhà nước phong kiến tập quyền ở nước ta, thuộc xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư, nằm trên một diện tích trải rộng khoảng 400ha.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngơi hồng đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên
nước là Đại Cồ Việt và chọn Hoa Lư là kinh đô. Kinh đô Hoa Lư tồn tại 41 năm (từ

năm 968 đến năm 1009) trong đó 12 năm là triều đại nhà Đinh và 29 năm kế tiếp là triều
đại nhà Tiền Lê (người đầu tiên là Lê Hồn lên ngơi Hồng Đế hiệu là Lê Đại Hành).
Trước khi rời đô về kinh thành Thăng Long, Lý Công Uẩn lên ngôi vua tại Hoa Lư, lấy
đế hiu l Lý Thỏi T.

Vũ Thị Liên

14

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

Hơn ngàn năm trước, Hoa Lư là đế đơ thật nguy nga, tráng lệ. Những núi đồi
trùng điệp xung quanh vịng đai kinh đơ như tấm bình phong; sơng Hồng Long uốn
khúc và cánh đồng Hoa Lư Nho Quan, Gia Viễn mênh mông là hào sâu thiên nhiên rất
thuận lợi về mặt quân sự. Khu thành Hoa Lư rộng đến 300ha. Thành gồm hai khu là khu
trong và khu ngoài, thông với nhau bằng một lối đi nhỏ hẹp và hiểm trở. Mỗi khu gồm
có nhiều vịng, nhiều tuyến nhỏ. Theo truyền thuyết, cung điện được xây ở thành ngoài.
ở phía Đơng có lối đi chính vào thành. Đến năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra
Thăng Long, từ đó kinh đơ Hoa Lư trở thành cố đô. Ngày nay trên nền cung điện năm
xưa là hai ngôi đền cách nhau chừng 500m. Một đền thờ Đinh Tiên Hoàng và một đền
thờ Lê Đại Hành. Về thăm lại đất Hoa Lư là dịp để chúng ta chiêm ngưỡng các cơng
trình kiến trúc, những nét đẹp của tồn bộ khu di tích, ghi dấu thời kỳ mở nước huy
hoàng, độc lập, tự chủ của đất nước Đại Cồ Việt từ ngàn năm về trước...
♦ Đền vua Đinh (làng Trường Yên Thượng, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư):
Đền thờ vua Đinh Tiên Hồng. Đền toạ lạc trên khn viên diện tích chừng 5 ha, thờ

vua Đinh Tiên Hồng. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17, theo kiểu “nội
cơng, ngoại quốc”. Lớp ngồi là Ngọ mơn quan (cổng ngồi) có 3 gian lợp ngói. Qua
một sân ngắn vào đến lớp thứ hai là đến Nghi môn (cổng trong) 3 gian dựng bằng gỗ
lim kiến trúc theo 3 hàng chân cột. Bốn góc ngồi của Nghi mơn nội có xây bốn cột trụ
cao. Đi hết chính đạo, qua hai cột trụ lớn là đến sân rồng. Giữa sân rồng có một long
sàng bằng đá xung quanh chạm nổi, dài 1,8m, rộng 1,4m. Hai bên sập rồng có 2 con
nghê đá chầu, được tạc trên hai tảng đá xanh nguyên khối đẹp.
Từ sân rồng bước lên là Bái đường 5 gian, kiến trúc độc đáo. Tiếp đến là Thiêu
hương, kiến trúc theo kiểu ống muống, nơi thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh. Đi hết tồ
Thiêu hương du khách bước vào chính cung 5 gian. Gian giữa thờ tượng vua Đinh được
đúc bằng đồng đặt trên bệ thờ bằng đá xanh nguyên khối. Hai bên bệ đá có hai con rồng
chầu bằng đá, tạc theo kiểu yên ngựa. Gian bên phải thờ tượng Đinh Hạng Lang (ngoài),
Đinh Toàn (trong) đều quay mặt về phía Bắc, là hai con thứ của vua Đinh Tiên Hoàng.
Gian bên trái thờ tượng Đinh Liễn quay mặt về phía nam là con trưởng của vua Đinh
Tiên Hoàng.
Đền Đinh Tiên Hoàng là một kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm khắc gỗ
và đá của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17 - 19. Đền vua Đinh nằm giữa các
tán cây đại thụ, các vườn cây ăn quả, cây cảnh đan xen nhau càng tạo nên vẻ bề thế,
hồnh tráng tơn nghiờm ca ngụi n.

Vũ Thị Liên

15

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp


♦ Đền vua Lê (làng Trường Yên Hạ, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư):
Đền thờ vua Lê Đại Hành cách đền vua Đinh chừng 300m. Đền nằm ở làng Trường Yên
Hạ nên còn gọi là đền Hạ. Trước mặt đền là núi Đèn, sau lưng là núi Đìa. Đền có qui
mô nhỏ hơn đền vua Đinh. Qua Nghi môn ngoại (cửa ngồi) theo đường chính đạo lát
gạch, phía bên trái là một hịn non bộ lớn, cao 3m tượng hình chim phượng múa, mỏ
quay vào đền, hai cánh như đang bay. Bên tay phải là nhà Tiền bái, ở mặt tiền có hịn
non bộ “Hổ phục” gồm gốc cây duối thân to có 9 núi, tuổi thọ trên 300 năm. Bên trái
nhà Tiền bái có hịn non bộ có dáng “voi quỳ” được khắc hai chữ Hán “Bất di”.
Qua Nghi mơn nội (cửa trong) cũng 3 gian, theo chính đạo kiến trúc đăng đối là hai
vườn hoa, tiếp đó là hai dãy nhà vọng. ở giữa vườn hoa bên phải có hai non bộ “Phượng
ấp”, bên trái là hịn non bộ “Long Mã”. ở sân rồng gần gian giữa của Bái đường có long
sàng bằng đá. Đền có ba tồ: toà ngoài là Bái đường; toà giữa là Thiêu hương thờ Phạm
Cự Lượng (người có cơng với vua Lê Đại Hành) và Chính cung nơi đặt tượng vua Lê
Đại Hành (gian giữa), tượng thái hậu Dương Vân Nga (bên trái) và tượng Lê Long Đĩnh
con thứ 5 của vua Lê (bên phải). Điều đặc biệt ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật
chạm khắc gỗ ở thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Đền được xây dựng
để tỏ lòng biết ơn của nhân dân đối với ơng vua đã có cơng lớn lao trong việc xây dựng
đất nước vào thế kỷ thứ 10.
♦ Nhà thờ đá Phát Diệm
Nhà thờ đá Phát Diệm (thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn): cách Hà Nội 129
km về phía Nam, được xây dựng từ năm 1875 đến năm 1898. Phát Diệm có nghĩa là
phát sinh ra cái đẹp, tên Phát Diệm do Nguyễn Công Trứ đặt. Nhà thờ được xây dựng
với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ 19 thì chỉ việc
vận chuyển hàng nghìn tấn đá, có những phiến nặng 20 tấn, hàng trăm cây gỗ lim về tới
Phát Diệm để xây nhà thờ cũng là một kỳ công. Kim Sơn vốn là vùng đất mới khai
khẩn, trước đây rất lầy lội, để xử lý độ lún của khu đất trước khi xây dựng người ta đã
chuyển cả một quả núi nhỏ cách 40km về Phát Diệm, khách về thăm nhà thờ cịn thấy
núi Sọ, đấy chính là một phần của trái núi đã được dân rời về Phát Diệm. Đây là một
quần thể kiến trúc gồm có: Ao hồ, Phương Đình, Nhà thờ lớn, Nhà nguyện kinh thánh

Rô Cô, Nhà nguyện kinh trái tim chúa, Nhà nguyện kinh thánh Giu-Se, Nhà nguyện
kinh thánh Phê-Rô, ba hang đá nhân tạo, nhà thờ đá.
♦ Đền Thái Vy:
Đền Thái Vy được xây dựng theo kiểu “nội công, ngoại quốc”. Trước đền có giếng
Ngọc xây bằng đá xanh. Qua nghi mơn phía bên phải là gác chng hai tầng, tám mái,
xây theo kiểu chồng diêm. Gác chuông làm bằng gỗ lim, mỏi lp ngúi mi hi, cỏc u

Vũ Thị Liên

16

Kinh tế ®Çu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

đao cong vút như đi chim phượng. Bên hơng có quả chuông đúc năm 1698. Từ sân
rồng bước theo các bậc đá có độ cao 1,2m là đến Ngũ Đại mơn (5 cửa lớn), có 6 cột đá
trịn song song đều được chạm khắc nổi chầu và chính điện. Qua 5 cửa lớn là đến Bái
Đường 5 gian uy nghi cũng có 6 cột đá vng chạm khắc câu đối ở mặt ngoài, các mặt
khác chạm khắc nổi: long, ly, quy, phượng, cá chép hoá long. Tiếp theo 4 hàng cột, đều
được chạm khắc nổi long vân. Qua Trung đường vào 5 gian Chính tẩm cũng có 8 cột đá
trịn được chạm khắc nổi: cầm, kỳ, thi, họa. Trong cung khám của Chính Tẩm giữa là
tượng Trần Thánh Tơng, bên trái là tượng Trần Thái Tông, bên phải là tượng hồng hậu
Thuận Thiên. Ngồi ra, trong Chính Tẩm cịn phối thờ Trần Nhân Tông (bài vị thờ),
Trần Anh Tông.
Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 3 (âm lịch), lễ hội đền Thái Vy được tổ chức,
gọi là quốc lễ. Đây là dịp để nhân dân Ninh Bình và nhân dân cả nước tưởng nhớ công

lao các vua Trần - những người có cơng lớn với dân, với nước. Hình thức tổ chức lễ hội
gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ được tiến hành hai hình thức: rước kiệu và
tế. Phần hội ở đền Thái Vy thực sự là phần vui chơi giải trí của nhân dân và những
người đến dự với các trò múa lân, múa rồng, đánh cờ người, đấu vật, bơi thuyền...
♦ Đền đức Thánh Nguyễn
Đền đức Thánh Nguyễn (đền Nguyễn Minh Không): tọa lạc tại xã Gia Thắng,
huyện Gia Viễn, thờ quốc sư Nguyễn Minh Không.
Nguyễn Minh Không sinh ngày 15/10 năm ất Tỵ (1065), đời vua Lý Thánh Tông,
tại Đàm Xá phủ Trường n, tên tự là Chí Thành. Năm 11 tuổi ơng xuất giá, thụ giáo
đạo Phật với Từ Đạo Hạnh (? - 1117) người làng Yên Lãng (nay thuộc huyện Từ Liêm,
Hà Nội) là bậc cao tăng nổi tiếng. Trở thành nhà tu hành với pháp danh Minh Không,
ông đã lập ra nhiều chùa và trụ trì nhiều chùa. Trong chùa Quỳnh Lâm ở Quảng Ninh,
do Nguyễn Minh Không sáng lập, hiện còn lưu giữ một pho tượng Phật Di lặc bằng
đồng cao 6 trượng, được coi là một trong “An Nam tứ đại khí” (Bốn báu vật lớn của
Việt Nam). Không chỉ là một nhà tu hành lớn, Nguyễn Minh Khơng cịn là một danh y.
Tương truyền, khi vua Lý Thần Tông mắc trọng bệnh, Ngài được mời về cung chữa trị
cho vua khỏi bệnh và được vua ban cho hiệu “Quốc sư”, từ đó ngài được gọi là “Lý
Quốc sư”. Nguyễn Minh Khơng cịn được suy tơn là ơng tổ của nghề đúc đồng. Vua Lý
Anh Tông (1138-1175) cho lập đền thờ ở Kinh đô (phố Lý Quốc Sư ngày nay); Ngài
còn được thờ ở chùa Keo xã Xuân Hồng huyện Giao Thủy Nam Định; chùa Địch Lộng
xã Gia Thanh huyện Gia Viễn Ninh Bình và ở nhiều chùa ở các nơi khác trong cả nước
và được tôn là Bc Thỏnh.

Vũ Thị Liên

17

Kinh tế đầu t 48C - QN



GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

Đền đức Thánh Nguyễn vốn là một ngơi chùa nhỏ do chính ơng xây dựng vào
khoảng năm 1121. Đền được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc trên một khu đất
rộng gần 2 mẫu. Đền quay hướng Nam, trước đền có một con ngịi hình rồng chín khúc
(một nhánh của sơng Hồng Long), xa hơn nữa là sơng Hồng Long, rồi đến các dãy núi
phía Tây Nam có núi Rồng, núi Rắn, núi Phượng, núi Voi, núi Đính. Bài vị của đức
Thánh Nguyễn được thờ ở gian giữa của Chính Tẩm, phía sau bài vị là bát hương và
tượng Thánh ở tuổi 40 ngồi xếp bằng trong tư thế thiền định.
3.2.2 Các lễ hội
Với lịch sử hình thành lâu đời, là nơi sinh sống của một số dân tộc thiểu số như
Mường, Tày, Nùng, Thái, Dao…, lại có truyền thống đấu tranh anh dũng, cần cù lao
động, chất phác, thật thà đã tạo nên một sắc thái văn hóa đặc trưng riêng có của Ninh
Bình. Các lễ hội như lễ hội Trường Yên, lễ hội đền Thái Vi, lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội
đền Nguyễn Cơng Trứ…, các làng nghề truyền thống như làng thêu ren Ninh Hải, làng
nghề chiếu cói Kim Sơn, làng chạm khắc đá Ninh Vân… góp phần tạo nên một hệ thống
tài nguyên du lịch văn hóa hấp dẫn, có giá trị để phát triển du lịch.
* Lễ hội Trường Yên: Hội được tổ chức vào ngày mồng 10 đến 13 tháng 3 âm
lịch hàng năm tại xã Trường Yên, Huyện Hoa Lư (Cố đô Hoa Lư) để tưởng nhớ công
đức vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành, bao gồm hai phần lễ và hội. Phần Lễ Tổ
chức rước nước ở bến Trường n (sơng Hồng Long) và được tổ chức tế lễ rất trang
nghiêm ở hai đền vua Đinh và vua Lê. Phần Hội: Tổ chức diễn trò “Cờ lau tập trận”, thi
viết chữ nho, cờ tướng, múa rồng, kéo chữ... Mùa xuân trẩy hội Trường Yên cũng là dịp
du khách đi thăm di tích đền vua Đinh, đền vua Lê, thăm lăng vua Đinh trên đỉnh núi
Mã Yên, độ cao khoảng 150m, tưởng nhớ về nguồn cội, tổ tiên - một vùng đất “địa linh
nhân kiệt”.
* Lễ hội đền Thái Vi: Hội được tổ chức hàng năm từ ngày 14 đến ngày 17 tháng
3 âm lịch tại thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đây là dịp để nhân dân Ninh

Bình và nhân dân cả nước tưởng nhớ cơng lao các vua Trần - những người có cơng lớn
với dân với nước. Phần Lễ được tiến hành dưới hai hình thức: rước kiệu và tế. Rước
kiệu ở đền Thái Vi khơng chỉ có một đồn, mà là trên 30 đoàn của các xã trong huyện
Hoa Lư và trong tỉnh Ninh Bình. Sau phần rước kiệu là đến phần tế. Tế là nghi lễ quan
trọng được tổ chức trước đền. Phần Hội ở đền Thái Vi thực sự là phần vui chơi giải trí
của nhân dân và những người đến dự hội, gồm các trò: múa lân, múa rồng, đánh cờ
người, đấu vật, bơi thuyền ngoạn mục.
* Lễ hội đền Địch Lộng: Lễ hội được tổ chức vào hai ngày: mùng 6 và mùng 7
tháng 3 (âm lịch) tại chùa Địch Lộng thuộc huyện Gia Thanh, huyện Gia Viễn. Phn L

Vũ Thị Liên

18

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp

tổ chức dâng hương và lễ Phật theo nghi thức nhà Phật. Phần Hội cũng tổ chức các trò
chơi dân gian như: múa lân, múa rồng, cờ tướng, thi viết chữ nho...
* Lễ hội chùa Bái Đính: được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng giêng hàng năm
tại thôn Sinh Dược xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn. Cũng như các lễ hội khác, hội gồm có
hai phần là phần lễ và phần hội. Phần Lễ thường tổ chức dâng hương, tưởng nhớ các vị
anh hùng có cơng với nước với dân. Phần Hội kéo dài từ 3 đến 5 ngày, tổ chức các trò
chơi dân gian như: đánh cờ, đấu vật...
* Lễ hội Báo bản Nộn Khê: Lễ hội được tổ chức vào ngày 14 tháng giêng (âm
lịch) hàng năm tại đình làng Nộn Khê, xã Yên Từ, huyện Yên Mơ. Phần Lễ ngồi việc

tổ chức tế, dâng hương tơn vinh công đức của các vị tiền bối lập ra làng xã, còn dâng
hương tưởng nhớ, tỏ lòng biết ơn các liệt sỹ là con em của làng. Một nét độc đáo của lễ
hội Báo bản là kính báo lên Thành Hoàng, các bậc tiên tổ về sự thành đạt, hiếu học của
con em dân làng và những thành tích của làng đã đạt được trong năm cũ. Phần Hội
cũng có những trị vui chơi giải trí như các lễ hội khác.
* Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ: tổ chức vào 3 ngày, từ ngày 13 đến ngày 15
tháng 11 (âm lịch) tại đền Nguyễn Công Trứ thuộc xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn.
Ngày 13 tế yết cáo, ngày 14 tế chính kỵ, ngày 15 tế tạ. Hình thức tế theo phong tục tế lễ
như các lễ hội khác. Phần Hội có các trị dân gian như: múa lân, đấu vật, thi bơi trải
trên sông Ân...
3.2.3. Các làng nghề truyền thống

* Thêu ren Ninh Hải: Tương truyền, từ năm 1285, khi vua Trần Thái Tơng trịn 40
tuổi, nhường ngơi cho con lên làm Thái Thượng Hoàng đã về vùng núi Vũ Lâm tu hành (xã
Ninh Hải, huyện Hoa Lư), bà Trần Thị Dung là vợ Thái sư Trần Thủ Độ theo triều đình nhà
Trần về đây đã truyền dạy cho nhân dân thôn Văn Lâm nghề thêu ren. Như thế, nghề này đến
nay đã có trên 700 năm.
Hiện nay ở Ninh Hải, gia đình nào cũng có nhiều loại khung thêu, có khung to bằng cả
chiếc chiếu nằm, có khung nhỏ chỉ bằng bàn tay. Bằng những sợi chỉ mảnh mai, cùng những
miếng vải rộng, hẹp, đủ mọi mầu sắc, với đôi bàn tay khéo léo, người thêu ren đã tạo nên
những tác phẩm nghệ thuật. Đường nét thêu ren rất tinh xảo, uyển chuyển, mềm mại, thanh tú,
nhưng lại sống động, mịn màng như những nét vẽ. Sản phẩm thêu ren rất phong phú: ga trải
giường, rèm cửa, gối, khăn bàn, tranh, ảnh...

* Mỹ nghệ cói Kim Sơn: Cây cói xuất hiện ở Kim Sơn mới gần 2 thế kỷ nhưng
đã có một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế của huyện. Người dân Kim Sơn đã dùng
cây cói làm nhiều sản phẩm như: chiếu, thảm, làn, khay, hộp, đĩa, cốc, tách, túi xách,
mũ.... Đặc biệt, khi nói đến nghề mỹ nghệ cói cở Kim Sơn phải nói đến nghề dệt chiếu.
Dệt chiếu là cả một quá trình lao động sáng tạo, vất vả, thận trọng từ khõu chn cúi,


Vũ Thị Liên

19

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

phơi cói, nhuộm cói sao cho đỏ tươi và bền mầu, sợi đay dệt phải nhỏ và bền, đến khâu
đan dệt cải hoa của chiếu. Người cải hoa phải nhanh, uyển chuyển, mềm mại, mắt phải
tinh, tay phải chính xác, thuộc từng nét cải để không đan lỗi. Người tạo cói phải nhanh,
đặc biệt là phải nhịp nhàng theo người dệt. Sự hài hồ, ăn ý giữa người lao cói và dệt
chiếu phải cẩn thận, trau chuốt, tỷ mỉ.
* Chạm khắc đá Ninh Vân: Nói đến xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, nhân dân cả
nước đều biết đến nghề cổ truyền chạm khắc đá. Từ những hịn đá sù sì, qua bàn tay
của người thợ đã thành những tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo. Sản phẩm đá gồm các
loại: tượng, chim thú, bể cảnh, bia, thống, chậu hoa, bàn, ghế, sập, hương án, ngai,
cầu, cổng, ngưỡng cửa, xà nhà... Ngoài ra cịn có các mặt hàng thủ cơng mỹ nghệ và
những đồ vật bằng đá như: bộ ấm trà, gạt tàn thuốc lá, khóm trúc, bé cưỡi trâu, đĩa,
bát, tranh ảnh... Tất cả đều được chạm khắc tinh tế, sống động, đường nét tao nhã,
uyển chuyển, mềm mại, dường như có phép lạ ở đơi bàn tay và khối óc của các
nghệ nhân.
3.2.4. Ẩm thực
Bên cạnh những món ăn của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ, ẩm thực Ninh
Bình có đặc trưng riêng. Đó là:
* Tái dê Hoa Lư: Huyện Hoa Lư có những dãy núi đá vơi nên dê thường sống
trên đó rất nhiều. Người ta bắt dê núi về làm lông, thui vàng, mổ ra ướp với lá hương

nhu hoặc lá cúc tần hơn chục phút, rồi lọc lấy thịt (để cả da) đem nhúng vào nước sơi
cho chín tái, sau đó thái nhỏ, mỏng đều (thái ngang xớ). Lấy vừng đã rang giã dập, sả
thái nhỏ, lá chanh, gừng, ớt tươi thái nhỏ, nước chanh, bột ngọt đổ vào thịt dê tái đã thái,
tất cả trộn đều là thành tái dê. Ăn tái dê phải kèm theo lá sung, chuối xanh, khế, lá mơ
và không thể thiếu tương gừng để chấm. Có thêm chén rượu Lai Thành để uống thì quả
là điều thú vị.
* Nhất hưởng thiên kim (cơm cháy): Cơm cháy được làm từ cơm đã nấu chín,
dàn mỏng ra thành hình trịn, để cho nguội và khô, rồi bỏ vào chảo dầu rán cho đến khi
giòn vàng lấy ra bẻ thành từng tảng nhỏ để vào bát to. Thịt bò thăn thái lát, tim cật lợn
thái mỏng, ướp gia vị cùng với cà chua, cà rốt, hành tây, nấm hương trộn đều, xào cho
chín, rồi đổ vào bát cơm cháy. Cơm cháy kêu xèo xèo, bốc khói, toả mùi thơm. Nhai
cơm cháy giịn tơi, chứa nhiều hương vị của món ăn thập cẩm nóng st, m , khụng
bao gi quờn c.

Vũ Thị Liên

20

Kinh tế ®Çu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

* Nem n Mạc (n Mơ): Nem chua n Mạc có từ lâu lắm rồi, nhưng hiện
nay ở Yên Mạc số người làm được loại nem đặc biệt này không nhiều, bởi ngồi bí
quyết nhà nghề địi hỏi phải có niềm đam mê, yêu nghề. Quy trình chế biến phải tuân
thủ nghiêm ngặt: nem làm ra bảo đảm phải sạch, thơm ngon, mầu sắc tươi, sợi thái phải
đều, để hàng tuần vẫn dùng được và không bị biến chất. Nem Yên Mạc sau thời gian ủ

men là ăn được ngay, để từ 5 đến 7 ngày mở ra sắc vẫn hồng, hương vị thơm và ngọt.
Dù ăn ngay hay để lâu, khi gỡ nem ra vẫn rời, tơi cho lên đĩa gắp từng dúm nhỏ, lấy lá
ổi tầu, lá sung, cùng rau thơm cuộn lại, chấm với nước mắm chanh, tỏi giã nhỏ thêm ớt
hoặc hạt tiêu người ăn sẽ cảm nhận đủ vị ngọt, cay, thơm lan toả khắp cơ thể.
* Rượu Lai Thành: Lai Thành là miền quê nằm ở cực Nam huyện Kim Sơn, có
nhiều đặc sản như gạo tám xoan, dự hương, nếp mùa, nếp hoa cau, chiếu cải.... Nhưng
nổi tiếng hơn cả vẫn là thứ rượu được chưng cất từ gạo trồng trên chính đất này. Hạt
gạo tròn, thơm, vỡ ra trắng như mầu sữa, thoang thoảng một vị hương dịu ngọt... Mỗi
năm, người Lai Thành đều giành một phần quỹ đất để trồng thứ lúa nếp truyền thống
đó. Lúa nếp gặt về, phơi khơ, sàng sẩy thật kỹ đưa vào chum bảo quản để nấu rượu. ở
đây đã có nhiều gia đình hàng chục đời theo nghề nấu rượu, có vài tộc họ chuyên làm
men rượu và họ có những bí quyết riêng, nên men của họ dù có để hàng năm vẫn thơm
và khơ. Để có một loại men q họ cịn dùng cả một vài thứ dược liệu có tác dụng lưu
thơng khí huyết, diệt khuẩn, nên rượu Lai Thành, khi nấu ra càng để lâu rượu uống càng
ngon, càng chắc.
Qua những đặc điểm kể trên ta thấy, khách đến với Ninh Bình sẽ được thăm
các di tích lịch sử văn hóa, chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên rừng núi trùng
điệp các dãy núi đá vôi và hệ thống các hang động karst huyền bí kỳ ảo, thăm vường
quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn đất ngập nước đồng bằng Vân Long, tìm hiểu nét
văn hóa của cộng đồng các dân tộc anh em, tham gia vào các sinh hoạt tín ngưỡng
truyền thống của nhân dân địa phương và thưởng thức các món ăn đặc sản của
vùng đất Ninh Bình... Đây có thể coi là nguồn tài nguyên du lịch vô tận của Ninh
Bình trong sự nghiệp phát triển du lịch.
4. Đánh giá chung về tiềm năng, nguồn lực phát triển du lịch
4.1. Những lợi thế:
-

Ninh Bình với vị trí địa lý thuận lợi, lại nằm trong vùng tiếp giáp giữa đồng

bằng và vùng núi, lại nằm trong một khu vực trũng tiếp giáp Biển Đơng, tạo cho Tỉnh có

một dạng địa hình đa dạng, có nhiều tiềm năng để phát triển các loại hình du lịch du lịch
tham quan nghỉ dưỡng, du lịch thể thao mạo hiểm, du lịch vui chơi gii trớ, du lch sinh

Vũ Thị Liên

21

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

thái, du lịch văn hóa - tín ngưỡng tâm linh… Các di tích danh thắng như VQG Cúc
Phương, khu du lịch sinh thái Tràng An, khu Tam Cốc-Bích Động, khu suối khống
Kênh Gà-Vân Trình, khu BTTN đất ngập nước Vân Long, hệ thống các hang động karst
như động Tiên, động bà chúa Mát, cảnh quan các vùng hồ thủy lợi… đều có sức hấp
dẫn đối với du khách.
-

Với vị trí thuận lợi trong giao thông, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có cả đường

sắt và đường bộ chạy qua thuộc hệ thống đường giao thông huyết mạch xuyên suốt BắcNam, có đường Hồ Chí Minh chạy qua…, nếu biết liên kết với các tỉnh, thành phố lớn
thuộc vùng đồng bằng sơng Hồng (Hà Nội, Hải Phịng, Hà Tây) và các tỉnh thuộc miền
núi Tây Bắc và Trung Bộ, Nam Bộ thì sẽ tạo được những tuyến du lịch hấp dẫn, có khả
năng đón tiếp cả khách du lịch nội địa lẫn quốc tế.
-

Một trong những yếu tố tạo nên sự độc đáo của du lịch Ninh Bình đó là sự


tồn tại của một hệ thống núi đá vôi Karst già với diện tích hàng ngàn ha tập trung ở khu
vực phía Bắc và Tây Bắc của tỉnh. Nhiều du khách trong và ngồi nước khi đến thăm
Ninh Bình đã ví nơi đây như là “Hạ Long cạn”, đó là quần thể núi đá vơi tại cố đơ Hoa
Lư, Tam Cốc-Bích Động, và gần đây là khu vực Kênh Gà-Vân Trình, khu bảo tồn đất
ngập nước Vân Long, khu du lịch sinh thái Tràng An… Ngoài ra, khu vực núi đá vôi
Trường Yên, khu vực thị xã Tam Điệp huyện Yên Mơ, cũng là những vùng cảnh quan
đẹp có giá trị cho phát triển du lịch. Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác các nguồn tài
nguyên tự nhiên để phát triển kinh tế xã hội ở Ninh Bình, đặc biệt là khai thác tài
nguyên núi đá vôi cho phát triển công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng đã và đang đe
dọa đến tài nguyên, môi trường du lịch.
4.2.Những hạn chế và nguyên nhân:
Các tài nguyên du lịch của Ninh Bình phần lớn vẫn ở dạng tiềm năng, một số

-

đã được quan tâm nhưng vẫn ở dưới dạng quy hoạch mà chưa triển khai thành các dự án
đầu tư cụ thể, hoặc đã lập dự án đầu tư nhưng công tác triển khai còn chậm… nên chưa
thể biến tiềm năng thành những sản phẩm du lịch.
-

Là một địa phương nằm trong vùng Bắc Bộ, hoạt động của du lịch Ninh Bình

mang tính “mùa vụ” rất rõ nét do chịu ảnh hưởng sâu sắc của đặc điểm khí hậu á nhiệt
đới ở khu vực phía Bắc bên cạnh những ảnh hưởng khác mang tính xã hội như “mùa” lễ
hội; “mùa” nghỉ hè của học sinh, sinh viên; “mùa” du lịch của khách du lịch quốc tế,
đặc biệt từ các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Đại dương.
-

Một số tai biến tự nhiên bất lợi như lũ quét, bão lụt, úng ngập… cùng những


tác động tiêu cực của con người như phá rừng, khai thỏc vt liu xõy dng ba bói

Vũ Thị Liên

22

Kinh tế đầu t 48C - QN


GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

cũng gây ra những cản trở khơng nhỏ đối với cơng tác gìn giữ và khai thác tài ngun du
lịch, một số vùng cảnh quan đã bị ô nhiễm và xuống cấp.
-

Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch (cấp thốt nước, cấp điện, bưu chính

viễn thơng…) tuy thời gian gần đây đã được chú trọng đầu tư nhưng nhìn chung vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu; một số khu vực vẫn chưa được cấp nước sạch sinh hoạt, một số
khu vực chưa có sóng di động… Hệ thống dịch vụ y tế, bảo hiểm, ngân hàng… chưa đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của khách du lịch.
-

Trình độ dân trí cịn thấp, nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ quản lý và kinh

doanh còn thiếu, lao động nhàn rỗi thiếu việc làm cịn nhiều.
II. Tình hình đầu tư phát triển Ngành Du lịch Ninh Bình giai đoạn 2006-2009

1.Thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho ngành Du lịch Tỉnh Ninh
Bình
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường không mang lại những lợi ích kinh tế cụ thể
hay thời gian thu được lợi nhuận là rất dài, đồng thời đây là lĩnh vực u cầu nguồn vốn
khá lớn. Chính vì vậy các nhà đầu tư thường không đủ khả năng hoặc không mong
muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng cơ sở hạ tầng lại là yếu tố tiên quyết để phát triển
kinh tế - xã hội. Vậy để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Nhà nước
có vai trị rất quan trọng trong việc điều tiết nguồn vốn. Trong thời gian qua, những
cơng trình lớn, trọng điểm đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường là do Nhà nước đầu tư. Sự
hỗ trợ từ ngân sách, kết hợp cả nguồn vốn địa phương và nguồn vốn đầu tư phát triển hạ
tầng du lịch của Trung ương thật sự là “xúc tác” góp phần quan trọng trong việc tạo ra
môi trường thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Tỉnh Ninh
Bình có nguồn tài ngun du lịch phong phú nhưng với ngân sách địa phương eo hẹp
nên những năm trước đây đã không cho phép tỉnh đầu tư phát triển trong lĩnh vực này.
Từ năm 2000 đến nay, với nguồn vốn hỗ trợ của Ngân sách Trung Ương nhiều dự án
đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ chiến lược phát triển du lịch đã được triển khai.
 Năm 2004, Chính phủ tiếp tục hỗ trợ 500 tỷ đồng vốn ngân sách cho đầu tư cơ sở
hạ tầng du lịch (tổng số vốn được cấp 4 năm 2001-2004 là 1.596 tỷ đồng), trong đó hơn
70% vốn đầu tư vào các địa phương có khu du lịch Quốc gia. Nguồn vốn trên đã được
các địa phương triển khai nghiêm túc, có hiệu quả, làm "mồi" thu hút các nguồn vốn đầu
tư khác trong nước và ngồi nước.... Năm 2004, có 18 dự án đầu tư nước ngoài (FDI) vào
lĩnh vực du lịch, với tổng số vốn đăng ký đạt trên 110 triệu USD; nguồn vốn ODA chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực (Dự án EU, Dự án VIE 015), xây
dựng Luật Du lịch và phát triển du lịch cộng đồng. Các dự án đào tạo nguồn nhõn lc do

Vũ Thị Liên

23

Kinh tế đầu t 48C - QN



GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiÖp

EU tài trợ với số vốn 11,8 triệu EURO, Dự án "Phát triển du lịch Mêkong" vay của ADB,
dự án đào tạo nghiệp vụ Khách sạn do Luxembourg tài trợ.... đã được triển khai.
 Năm 2006, tồn Tỉnh có 5 dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng được chuyển tiếp từ
năm trước vào các khu du lịch với tổng mức đầu tư là 2.879,378 tỷ đồng ( từ nguồn vốn
ngân sách TW và ngân sách địa phương). Bao gồm các dự án:
-

Dự án đầu tư xây dựng phát triển tôn tạo, nâng cấp CSHT khu du lịch Tam

Cốc- Bích Động: tổng mức đầu tư là 199,850 tỷ đồng.
-

Dự án đường lang nghề truyền thống ( Ninh Thắng, Ninh Hải, Ninh Xuân,

Ninh Vân): tổng mức đầu tư là 18,965 tỷ đồng.
-

Dự án nạo vét tuyến giao thông đường thuỷ Bích Động- hang Bụt, Thạch

Bích- thung Nắng với tổng mức đầu tư là 50,8 tỷ đồng.
-

Dự án khu du lịch Tràng An, diện tích 1961 ha. Đây là là dự án đầu tư CSHT


trọng điểm của tỉnh với tổng mức vốn là 2.572,243 tỷ đồng.
-

Đầu tư vào CSHT khu du lịch sinh thái Vân Long với tổng số vốn đầu tư là

37.520 tỷ đồng.
 Năm 2007 khơng có dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mới, 5 dự án chuyển
tiếp từ năm trước với tổng số vốn kế hoạch được giao là 399 tỷ đồng ( 100% từ nguồn
vốn ngân sách TW).
 Năm 2008, cơ sở hạ tầng của du lịch Ninh Bình đã được đầu tư 913,2546 tỷ
đồng tập trung vào 11 dự án, bằng 29,1% tổng mức đầu tư đã được duyệt. Trong đó
vốn đầu tư từ Ngân sách Trung ương là 908,9196 tỷ đồng, riêng khu du lịch Tràng An
được xác định là điểm nhấn quan trọng để thu hút khách du lịch đến Ninh Bình.
 Năm 2009,cơ sở hạ tầng của du lịch Ninh Bình đã được đầu tư là 1.395.124,6 tỷ
đồng tập trung vào 9 dự án,bằng 40% tổng mức đầu tư đã được duyệt.
Theo kế hoạch, trong năm 2010 các doanh nghiệp sẽ phấn đấu đầu tư cơ sở vật
chất, hạ tầng kỹ thuật du lịch trên 1.557 tỷ đồng. Tập trung vào những hạng mục của
Khu du lịch sinh thái Tràng An, Bái Đính, Tam Cốc - Bích Động, Thạch Bích - Thung
Nắng, Khu tắm ngâm Kênh Gà, Khu liên hiệp thể thao sân golf 54 lỗ hồ Yên Thắng…
Các cơng trình kiến trúc văn hố được chú trọng xây dựng, trùng tu, tôn tạo, bảo tồn
như vùng bảo vệ đặc biệt Cố đô Hoa Lư, Quảng trường tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế,
xây dựng quảng trường sân lễ hội trước đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại
Hành. Cùng với đó Tỉnh phối hợp với Viện Kiến trúc nhiệt đới – Trường Đại học Kiến
trúc Hà Nội từng bước hoàn chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển du lch Ninh Bỡnh giai

Vũ Thị Liên

24

Kinh tế đầu t 48C - QN



GVHD : TS Phạm Văn Hùng

Chuyên đề thực tập tốt nghiƯp

đoạn 2007 – 2015, có một số khu du lịch đã quy hoạch đến năm 2020. Các bản quy
hoạch của từng vùng du lịch được công bố công khai để từng người dân được biết, từ đó
họ ý thức hơn về làm du lịch, đây cũng là điều kiện thuận lợi để tiến đến xã hội hóa du
lịch..Trong những năm qua, Tỉnh đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch.
Những khu du lịch trọng điểm của Ninh Bình được ưu tiên vốn đầu tư, đang gấp rút xây
dựng và hoàn thành xong phần cơ bản về hạ tầng, bắt đầu tiến hành khai thác như khu
Tam Cốc – Bích Động, Tràng An, núi chùa Bái Đính, nước nóng Kênh Gà. Các dự án
khác như: Cơ sở hạ tầng tuyến du lịch đường thủy Bích Động- Hang Bụt, Thạch BíchThung Nắng, cơ sở hạ tầng Khu du lịch các làng nghề truyền thống cũng đang được gấp
rút hoàn thiện để đưa vào khai thác.
Bảng 2.1. Tổng hợp các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ 2002-2009
Đơn vị: Triệu đồng
Thời gian
thực hiện

Chỉ tiêu

Dự toán
được duyệt

Vốn giải ngân
đến
31/12/2008

5.384


4,335

2005-2006

5.181,6

4,185.20

2004

102,4

50

2005-2006

100

100

4.119.121

908.919,6

I. Ngân sách địa phương:
1. XD Trụ sở làm việc của Sở Du lịch
2. Qui hoạch khu DL Kênh Gà – Vân Trình
3. Bổ sung Qui hoạch Khu DL Tam Cốc
- Bích Động

II. Ngân sách Trung ương
1.Khu du lịch Kênh Gà, Vân Trình, Vân Long

2002-2007

43.289

21.300,6

2.Khu DL vườn QG Cúc Phương

2004-2009

46.619

36.619

3.Khu DL Tam Cốc Bích Động, Tràng An

2008-2010

4.020.257

836.000

4. XD CSHT Khu DL các làng nghề truyền thống

2002-2006

18.956


15.000

5. CSHT khu công viên văn hoá Tràng An

2009-2012

1.866.000

213.600

6. XD nhà làm việc Sở Du lịch

2009-2010

2.500.000

123.170

2009-2012

1.543.000

145.100

10.043.000

1.395.124,6

7. XD Quảng Trường và tượng đài Đinh Tiên

Hoàng
Tổng số

Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Cơ sở hạ tầng được đầu tư cải thiện là đệm phóng cho những dự án đầu tư của
khu vực tư nhân. Những năm gần đây, các doanh nghiệp trong Tnh cng nh trong

Vũ Thị Liên

25

Kinh tế đầu t 48C - QN


×