Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Đề cương thi vấn đáp Xã hội hóa trong GD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.47 KB, 66 trang )

NỘI DUNG ÔN THI VẤN ĐÁP
PHÂN HÓA XÃ HỘI VÀ BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC
1. Phân tích khái niệm phân hóa xã hội. Phân hóa xã hội và phân tầng xã hội ?
2. Phân hóa xã hội trong giáo dục là gì?
3. Bình đẳng xã hội là gì? Bình đẳng xã hội trong giáo dục là gì?
4. Công bằng xã hội là gì? Cần hiểu công bằng xã hội trong giáo dục như thế nào?
5. Phân tích mối quan hệ giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục?
6. Căn cứ vào “tỉ lệ đi học đúng tuổi” tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông,
cao đẳng, đại học của Việt Nam trong thời gian vừa qua, hay phân tích thực trạng
phân hóa xã hội và bất bình đẳng xã hội trong giáo dục?
7. Phân biệt tỉ lệ bỏ học của học sinh với tỉ lệ không đến trường đúng độ tuổi. Phân
tích tầm quan trọng của việc phải làm rõ hai khái niệm này?
8. Phân tích nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến sự phân hóa xã hội, bình đẳng xã
hội trong giáo dục ở Việt Nam hiện nay?
9. Chức năng sàng lọc của giáo dục giáo dục là gì? Liên hệ với vấn đề bất bình đẳng
giáo dục? Liên hệ với phân ban, phân luồng trong giáo dục
10. Thiết chế xã hội là gì? Phân tích một số loại thiết chế xã hội (giáo dục, kinh tế,
pháp luật, văn hóa) và mối quan hệ của nó với vấn đề bất bình đẳng xã hội trong
giáo dục? Đối với từng thiết chế hãy chỉ ra những yếu tố thúc đẩy và yếu tố kìm
hãm bình đẳng xã hội trong giáo dục.
11. Bất bình đẳng xã hội trong giáo dục gia đình và bất bình đẳng xã hội trong giáo
dục nhà trường. Liên hệ với thực tế.
12.Phân tích ảnh hưởng của gia đình (ví dụ sự đầu tư của gia đình cho giáo dục) đối
với sự bình đẳng xã hội trong giáo dục?
13.Xã hội hóa giáo dục phổ thông có ảnh hưởng gì đến vấn đề bất bình đẳng xã hội
trong giáo dục?
14. Phân tích các tác động, hệ quả hay chức năng của phân hóa xã hội và bình đẳng
xã hội trong giáo dục đối với sự phát triển nhanh, bền vững?
15.Cần phải làm gì với hiện tượng “thừa thày, thiếu thợ”?
16. Phân hóa xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục nghề nghiệp.
17. Từ góc độ lý thuyết xã hội bằng cấp và xã hội phi trường quy hãy phân tích vấn


đề bất bình đẳng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam?
18. Phân tích mối quan hệ của chủ đề “Phân hóa xã hội và bình đẳng xã hội trong
giáo dục” với Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
1
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
Tài liệu bắt buộc
1. Lê Ngọc Hùng. Xã hội học giáo dục (Sách chuyên khảo). Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội. 2009.
2. Đỗ Thiên Kính. Bất bình đẳng về giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Xã hội
học. Số 1. 2005
3. Tổng cục Thống kê. Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Chuyên đề:
Phân tích số liệu thống kê về giáo dục. (tìm trang Tổng cục thống kê để lấy số liệu
về giáo dục).
4. Số liệu thống kê về giáo dục (tỉ lệ đi học đúng tuổi các cấp bậc học) ở địa phương
(Hà Nội và các tỉnh/thành phố nơi học viên đang công tác/sinh sống).
Yêu cầu khi thi vấn đáp
 Từng cá nhân bắt thăm câu hỏi và chuẩn bị trả lời
 Khi trả lời câu hỏi cần:
- Trình bày sơ đồ, bảng, biểu và dữ liệu minh chứng
- Giới thiệu ngắn gọn kết quả bài tập nhóm và đóng góp của cá nhân trong
bài tập nhóm
- Giới thiệu bản copy bài viết trên tạp chí khoa học trực tiếp liên quan
đến nội dung môn học
2
ĐÁP ÁN
Câu 7: PHÂN HÓA XÃ HỘI VÀ BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC
19.Phân biệt tỉ lệ bỏ học của học sinh với tỉ lệ không đến trường đúng độ tuổi. Phân
tích tầm quan trọng của việc phải làm rõ hai khái niệm này?
1.1. Phân biệt các khái niệm

• Tỷ lệ bỏ học của học sinh là tỷ số giữa : số lượng học sinh được đi học nhưng vì lý
do nào đó không đi học nữa trên tổng số học sinh đang đi học
• Tỷ lệ học sinh không đến trường đúng độ tuổi là tỷ số giữa: số học sinh đúng độ
tuổi không được đến trường trên tổng số học sinh đúng độ tuổi được đến trường
1.2. Phải làm rõ hai khái niệm nhằm:
- Tìm ra các nguyên nhân gây ra tỷ lệ bỏ học của học sinh và Tỷ lệ học sinh không
đến trường đúng độ tuổi .
+Bất bình đẳng giới trong giáo dục: Với định kiến của cha mẹ cho rằng các
em nữ không cần phải học nhiều mà cần học nội trợ trong gia đình là đủ. Điều này
dẫn đến các em gái đúng độ tuổi đi học phải ở nhà không được đi học.Gắn liền với
nguyên nhân này là tình trạng đói nghèo của gia đình và trình độ học vấn thấp của
cha mẹ ( phổ biến ở các vùng dân tộc)
+Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn
` +Bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo
+ Bất bình đẳng giữa các dân tộc.)
Từ đó tìm hiểu nguyên nhân nào là nguyên nhân chính gây nên các hiện tượng trên
- So sánh giũa hai tỷ lệ này ( tỷ lệ học sinh bỏ học bao giờ cũng nhỏ hơn tỷ lệ học
sinh không đến trường đúng độ tuổi. Vì học sinh bỏ học chỉ là số học sinh đã tham
gia đi học nhưng do một nguyên nhân: hoàn cảnh gia đình mà em phải bỏ học. Trong
khi đó học sinh không đi học đúng độ tuổi do nhiều nguyên nhân khách quan như đã
kể trên)
- Tìm ra các biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học và học sinh không được
đến trường đúng độ tuổi
+Lồng ghép giới trong giáo dục nhằm nâng cao bình đẳng giới
+Đầu tư cơ sở vật chất, trường lớp tại các vùng nông thôn, vùng cao, vùng dân
tộc ít người.Đồng thời tuyên truyền, vận động để mọi gia đình đều cho con em đến
trường đúng độ tuổi
+Có chính sách hỗ trợ cho con em gia đình nghèo, con em dân tộc thiểu số có
điều kiện tham gia học tập
1.3.Số liệu về tỷ lệ học sinh không đi học đúng độ tuổi:

- Tiểu học : 4%; THCS : 17%; THPT : 43% ; Đại học : 83,7%
3
Câu 8: Phân tích nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến phân hoá xã hội, bình đẳng
xã hội trong giáo dục Việt Nam hiện nay.
Trả lời: (Tóm tắt còn chi tiết xin xem trong chương 6 – xã hội học giáo dục.)
1.Phân hoá xã hội
1.1Khái niệm
Phân hoá xã hội là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về một hoặc một số
đặc điểm, tính chất xã hội nhất định.
1.2 Các yếu tố tác động đến sự phân hoá xã hội
Sự phân hoá xã hội diễn ra một cách tất yếu theo các quy luật tự nhiên và quy luật khách
quan. Sự phân hoá xã hội diễn ra dưới tác động của nhiều yếu tố,nhưng có hai yếu tố
quan trọng nhất là sự phân công lao động và giáo dục và đào tạo. Hai yếu tố kể trên có
thể lấn át nhưng không làm mất tác dụng của các yếu tố tự nhiên như tuổi, giới tính, dân
tộc.
2.Bình đẳng xã hội
2.1Khái niệm bình đẳng xã hội
Bình đẳng xã hội là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các điều kiện, các cơ hội và các
quyền lợi ngang nhaucho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân các nhóm xã hội.
2.1Khái niệm bình đẳng xã hội trong giáo dục
Bình đẳng giáo dục là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các nhóm người về điều kiện, cơ
hội và quyền lợi trong giáo dục.
2.3 Một số hình thức bất bình đẳng xã hội trong giáo dục và nguyên nhân.
2.3.1 Một số hình thức bất bình đẳng xã hội trong giáo dục
* Bất bình đẳng giới trong giáo dục.
Nguyên nhân:- Định kiến của cha mẹ biểu hiện ở quan niệm cho rằng các em gái không
cần phải đi học nhiều.( Tư tưởng trọng nam khinh nữ)
- Tình trạng đói nghèo
- Trình độ học vấn của cha mẹ thấp.
* Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn

* Bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo
4
* Bất bình đẳng giữa các dân tộc
2.3.2 Nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội trong giáo dục
- Điều kiện tự nhiên ( vị trí địa lý)và cơ sở hạ tầng
- Bất bình đẳng về kinh tế và nhận thức không đồng đều giữa các nhóm xã hội.
- Bất bình đẳng giữa các vùng miền, giữa các gia đình và môi trường sinh sống
- Sự phân bổ giữa các nguồn đầu tư cho giáo dục.
Câu 9. Chức năng sàng lọc của giáo dục là gì? Liên hệ với vấn đề bất bình đẳng
giáo dục? Liên hệ với phân ban, phân luồng trong giáo dục?
Trả lời
1.Chức năng sàng lọc của giáo dục
Chức năng đánh giá, phân loại trình độ học vấn của học sinh, từ đó tuyển chọn học sinh
vào những trường, những lớp khác nhau về năng lực học tập và trình độ phát triển của cá
nhân, được gọi là chức năng sàng lọc của giáo dục.
2.Liên hệ với vấn đề bất bình đẳng giáo dục
a. Quan điểm thứ nhất: Chức năng sàng lọc của giáo dục đảm bảo công bằng và
bình đẳng xã hội.
- Nhờ cơ chế tuyển sinh thông qua việc kiểm tra, thi các trường (phổ thông, cao
đẳng, đại học…) sẽ tuyển chọn và phân loại được trình độ học sinh, từ đó có thể xếp các
em vào các lớp có phương pháp dạy học phù hợp, giúp cho các em có thể phát huy hết
năng lực của bản thân.
- Cũng nhờ có cơ chế thi tuyển sinh mà các em học sinh năng lực cao, đạt điểm
cao hơn có thể đỗ vào các trường đại học danh tiếng, các em học sinh năng lực thấp, đạt
điểm thấp chỉ có thể đỗ và theo học ở các trường đại học bình thường.
Với cơ chế thi cử trên, nếu làm khách quan, chính xác, thì việc sắp xếp các em học
sinh vào các lớp học khác nhau trong một trường hoặc vào các trường khác nhau, không
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và địa vị xã hội của gia đình các em, từ đó đảm bảo công
bằng, bình đẳng xã hội trong giáo dục.
2.Quan điểm thứ 2: Giáo dục là công cụ sàng lọc của xã hội nên nó góp phần củng

cố, duy trì cấu trúc phân tầng bất bình đẳng trong xã hội.
- Thông qua thi tuyển sinh, các trường phân loại trình độ học sinh và thường xếp
các em có kết quả cao vào các lớp có nội dung và phương pháp dạy học tốt hơn so với
các em học sinh còn lại, việc làm này tạo nên sự bất bình đẳng xã hội ngay trong quá
trình các em học tại trường; sự sàng lọc, phân biệt đối xử này theo đuổi suốt quá trình
5
giáo dục từ tiểu học lên đến đại học, sau đại học và nó dẫn tới sự phân tầng bất bình
đẳng xã hội về nghề nghiệp, thu nhập, vị thế xã hội của học sinh sau khi ra trường.
- Với chức năng sàng lọc của giáo dục, tạo ra các trường chất lượng cao, các lớp
chất lượng cao trong các nhà trường, học sinh trong các trường này, các lớp này được hết
sức quan tâm và được tạo điều kiện học tập tốt nhất có thể; do đó nhiều gia đình giàu có
hoặc có địa vị xã hội đã tìm mọi cách cho con cái họ được vào học trong các trường này,
lớp này, gây nên các tiêu cực và sự bất bình đẳng xã hội trong giáo dục.
3.Liên hệ tới vấn đề Phân ban, Phân luồng trong giáo dục của nước ta hiện nay.
- Nước ta trong giai đoạn vừa qua đã tiến hành thí điểm và thực hiện mô hình Phân ban
trung học phổ thông:
+ Năm 1992 đến 1998 tiến hành thí điểm Phân ban THPT với 3 ban: Ban Khoa
học tự nhiên (ban A), Ban Khoa học tự nhiên – kỹ thuật (ban B), Ban Khoa học xã hội
(ban C) (Năm 1998 Thủ Tướng CP ra chỉ số 30 thị dừng CTTĐPB, quay lại CTCCGD)
+ Năm 2003 – 2004 tiến hành thí điểm Phân ban THPT mới với 2 ban: KHTN(ban
A), KHXH (ban C). Năm 2005 Bộ GD&ĐT đề nghị điều chỉnh mô hình PB, bổ sung
thêm ban cơ bản.
+ Từ năm 2006 đến nay tiếp tục thực hiện mô hình THPT Phân ban với 3 ban: ban
cơ bản, ban khoa học tự nhiên, ban khoa học xã hội và nhân văn (thực tế hiện nay đa số
học sinh chọn học ban cơ bản).
- Sự phân ban, phân luồng trong giáo dục sẽ không tạo ra sự bất bình đẳng xã hội
nếu như nền giáo dục đại học đã được phổ cập, ai có nhu cầu được đi học đại học đều
được đáp ứng và có nhiều hình thức học đại học khác nhau để mọi người lựa chọn phù
hợp với điều kiện từng người, đồng thời việc tuyển chọn nhân lực lao động trong xã hội
không chỉ dựa trên bằng cấp mà còn căn cứ chủ yếu vào kết quả khảo sát năng lực nghề

nghiệp thực tế của từng người. Khi đó sự phân ban, phân luồng trong giáo dục sẽ giúp
cho các cá nhân lựa chọn được những môn học, ngành học phù hợp với năng lực – sở
trường của bản thân, từ đó phát huy hết được năng lực bản thân, đồng thời có nhiều cơ
hội thành công hơn trong nghề nghiệp sau này.
- Tuy nhiên với đặc điểm xã hội nước ta hiện nay với hệ thống giáo dục có tính
chất tinh hoa (người giỏi hơn mới được đi học theo cơ chế tuyển sinh đại học) và tuyển
chọn nhân lực chủ yếu dựa vào bằng cấp thì phân ban, phân luồng trong giáo dục còn
gây nên sự bất bình đẳng xã hội. Thực tế ở các trường THPT hiện nay cho thấy học sinh
học ban cơ bản có lợi thế hơn hẳn các ban còn lại vì thứ nhất chương trình học nhẹ hơn,
thứ hai học sinh có nhiều cơ hội hơn khi chọn ngành nghề để học, chọn trường đại học
để thi. Học sinh học ban khoa học tự nhiên phải học chương trình nặng nề hơn, tuy nhiên
6
cơ hội chọn ngành nghề, chọn trường thi không hơn gì đối với học sinh ban cơ bản. Học
sinh ban KHXH&NV có ít cơ hội chọn ngành nghề hơn, chọn trường đại học để thi hơn
hai ban còn lại, nên học sinh học ban này cũng thiệt thòi hơn. Các trường THPT hiện nay
hầu hết học sinh đăng ký học ban cơ bản; nếu các trường buộc phải có đủ các lớp học
cho đủ các ban thì ban KHXH&NV thường chỉ chọn được các học sinh kém nhất trong
tổng số các em học sinh dự tuyển vào trường và luôn là những lớp, những học sinh yếu
nhất trường trong quá trình học tập.
Câu 10: Thiết chế xã hội là gì? Phân tích một số loại thiết chế xã hội (giáo dục, kinh
tế, pháp luật, văn hóa) và mối quan hệ của nó với vấn đề bất bình đẳng xã hội trong
giáo dục? Đối với từng thiết chế hãy chỉ ra những yếu tố thúc đẩy và yếu tố kìm
hãm bình đẳng xã hội trong giáo dục.
- Khái niệm: Thiết chế XH là một hệ thống các cách thức, các quy tắc chính
thức và phi chính thức được con người tạo ra để điều chỉnh hành vi, hoạt
động của các cá nhân, các nhóm, các tổ chức nhằm đáp ứng những nhu cầu
nhất định của XH.
1. Các thiết chế xã hội cơ bản
1.1. Thiết chế giáo dục
- Khái niệm: Giáo dục là thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kiến thức và kinh

nghiệm xã hội, và thế hệ sau đã lĩnh hội và phát huy những kinh nghiệm xã hội đó để
tham gia vào đời sống xã hội của mình như lao động sản xuất và các hoạt động khác.
- Chức năng của thiết chế giáo dục thể hiện các mặt sau:
+ Chức năng cung cấp tri thức và hình thành nhân cách con người.
+ Chức năng kinh tế - sản xuất (rèn luyện kỹ năng kỹ xảo về nghề nghiệp).
+ Chức năng chính trị, tư tưởng và văn hoá.
- Quan hệ:
+ Thúc đẩy:
- Thiết chế giáo dục quy định mọi trẻ em từ 6 tuổi đều có quyền được đến trường.
- Quy định về phổ cập tiểu học, phổ cập THSC.
- Một số quy tắc ứng xử trong giáo dục : Tôn sư trọng đạo…
+ Kìm hãm:
- Quy định chưa nhất quán, khó thực thi.
- Hành lang pháp lý chưa đồng bộ
- Từ sự khác biệt kinh tế vùng miền dẫn đến bất bình đẳng trong gd
- Mắc bệnh thành tích  áp lực học hành, thi cử, tình trạng dạy thêm học thêm…
1.2. Thiết chế kinh tế
- Khái niệm: Kinh tế là TCXH liên quan tới sự quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.
- Chức năng của thiết chế kinh tế thể hiện trong việc tổ chức sản xuất và kiểm soát, điều
hoà các mối quan hệ sau đây:
+ Quan hệ với tư liệu sản xuất
+ Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất
7
+ Quan hệ trong phân phối lợi ích
- Quan hệ:
+ Thúc đẩy:
- Xóa đói giảm nghèo tạo cơ hội cho giáo dục
- Chính sách cho tổ chức, cá nhân phát triển, đầu tư vào gd
- Nhà nước đầu tư vốn cho gd
- Doanh nghiệp đầu tư đào tạo nghề cho chính doanh nghiệp

+ Kìm hãm:
- Người nghèo ko đủ chi cho các chi phí học tập
- Người thu nhập khá muốn con học trường công để đỡ tốm kém
- Người giàu muốn con đi du học.
- Các trường chỉ đầu tư đào tạo các ngành có lãi cao.
- Vốn đầu tư dàn trải, ko đạt đc mục tiêu
1.3. Thiết chế pháp luật:
+ Mối quan hệ giữa thiết chế pháp luật với thiết chế giáo dục:
- Nhà trường giáo dục học sinh pháp luật để học sinh sống và làm việc theo hiến
pháp, pháp luật.
- Toàn bộ hoạt động giáo dục cũng phải tuân theo hiến pháp luật.
+ Thúc đẩy:
- Nhờ hiểu biết pháp luật mà bất bình đẳng được hạn chế
- Các tiêu cực trong giáo dục bị lên án, xử lý và giảm dần
- Các luật đảm bảo quyền lợi cho người học, đảm bảo sự bình đẳng trong gd
- Luật phổ cập thúc đẩy phổ cập giáo dục tiểu học và THCS
+ Kìm hãm:
- Các quy định về SGK, các khoản đóng góp làm cho người nghèo khó đáp ứng.
- Chính sách tiền lương chưa phù hợp làm nảy sinh hàng loạt tiêu cực trong gd
1.4 Thiết chế văn hóa:
- KN: TCVH là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố: cở sở CV, bộ máy nhân sự,
quy chế hoạt động, nguồn kinh phí…
+ Thúc đẩy:
- Học sinh tiếp thu tinh hoa văn hóa qua các thế hệ từ đó có cách ứng xủ phù hợp.
- Con người khi được giáo dục bằng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc sẽ trở thành những công dân tốt, con người có ích…
- Giải phóng phụ nữ  bình đẳng XH trong GD
- Thiết chế VH cơ sở làm cho đời sống khu dân cư tốt hơn, văn minh hơn
+ Kìm hãm:
- Bất bình đẳng giới trong gd

- Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn
- Bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, giữa các dân tộc…
CÂU 10: Thiết chế xã hội là gì? Phân tích một số loại thiết chế xã hội (giáo dục,
kinh tế, pháp luật, văn hóa) và mối quan hệ của nó với vấn đề bất bình đẳng xã hội
trong giáo dục? Đối với từng thiết chế hãy chỉ ra những yếu tố thúc đẩy và yếu tố
kìm hãm bình đẳng xã hội trong giáo dục.
8
1. Thiết chế giáo dục
+ Khái niệm: Thiết chế giáo dục là hệ thống các cách thức, quy tắc, các chuẩn
mực(chính thức và phi chính thức) trong qua trình lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội.
+ Thiết chê Gd:
- Là cách tổ chức các hành vi, hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội:-
Là cấu trúc trọng tâm nghiên cứu của xã hội.
- Phụ thuộc trực tiếp các điều kiện lịch sử xã hôi.
+ Đặc điểm, tính chất
1. Về mặt tổ chức xã hội: gồm các cá nhân, nhóm người hoạt động theo một cách
thức (tuân thủ một thủ tục – bị chi phối bởi các giá trị, chuẩn mực nhằm đáp ứng
nhu cầu đạt kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo,kinh nghiệm).
2. Về văn hóa xã hội: thiết chế xã hội gồm các niềm tin, lí tưởng, giá trị, chuẩn mực
định hướng và thực hiện chức năng giáo dục.
3. Yếu tố vật thể của thiết chế giáo dục: gồm nhà trường, lớp, thầy giáo, cô giáo, học
sinh, cơ sở, điều kiện, phương tiện giảng dạy.
4. Các yếu tố phi vật thể của thiết chế: các giá trị, các chuẩn mực giáo dục
+ Các chức năng của giáo dục: 2 chức năng:
- Chức năng quản lí giáo dục: sự quản lí của nhà trường được chăm sóc, bảo vệ.
- - Chức năng tạo việc làm: nhà trường tạo công ăn việc làm giáo viên – học sinh và
thu hút nhiều lao động phục vụ: (dịch vụ - ăn ở, cửa hàng )
b. Thiết chế giáo dục có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự BĐXH và PHXH trong GD
Việt Nam:
+ Sự thức đẩy;

-Thiết chế giáo dục với cấu trúc quá trình và các khuôn mẫu tương tác, trọng tâm
nghiên cứu của xã hội về giáo dục và phụ thuộc trực tiếp vào các điều kiện lịch sử.
Thiết chế giáo dục Việt Nam bao gồm những bộ luật (luật giáo dục, chăm sóc và bảo
vệ trẻ em).
- Luật giáo dục và một số quy tắc thể hiện giá trị, chuẩn mực, truyền thống hiếu học
“tôn sư trọng đạo”.
- Thiết chế quy định tất cả các trẻ em đến 6 tuổi đều có quyền và cơ hội đến trường.
Phổ cập PT cơ sở, hướng tới phổ cập trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học.
-Thiết chế giáo dục này tạo ra sự bình đẳng xã hội. Mọi trẻ em đều có cơ hội đến
trường. Mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
-Về đạo đức, làm cho các cá nhân trở thành con người có nhận thức, có thái độ và
ứng xử phù hợp đối với xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Sự kìm hãm giáo dục:
-Trong việc xây dựng luật giáo dục tạo ra sự bất cập tồn tại các quy định luật chưa
nhất quán, khó thực thi, lẫn lộn mục tiêu, hành lang pháp lý chưa đồng bộ. -Phổ cập
giáo dục có nguy cơ mất chuẩn vì nền kinh tế mỗi vùng khác nhau. Dẫn đến bất bình
9
đẳng giàu nghèo giữa các tỉnh, giữa các vùng. Trong các trường, cơ sở vật chất còn
thiếu thốn, thiếu giáo viên.
- Trong giáo dục còn mắc bệnh thành tích (học thêm giờ). Toàn bộ thiết chế đó tạo ra
sự mất bình đẳng trong xã hội về giáo dục, kìm hãm ngành giáo dục Việt nam trong
giai đoạn hiện nay.
2. Thiết chế pháp luật
*KN: Thiết chế giáo dục là cách tổ chức các hành vi, hoạt động nhằm đáp ứng nhu
cầu học tập của xã hội.
• Thiết chế pháp luật thúc đẩy sự bình đẳng trong giáo dục.
- Nhà trương là nơi dạy học sinh biết về pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật và thực
hành pháp luật. Nhờ có thiết chế pháp luật mà các hiện tượng gây bất bình đẳng
trong giáo dục ở các trường được hạn chế. Đó là các hiện tượng tiêu cực, gian lận,
dối trá trong thi cử đang bị xã hội lên án mạnh mẽ và đang giảm dần.

- Lậu giáo dục , luật Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em mang lại quyền bình đẳng
trong giáo dục cho toàn bộ mọi người ở bất kì hoàn cảnh, lứa tuổi, giới tính địa
phương nào.
- Tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi cho thấy Luật giáo dục đã thúc đẩy mạnh mẽ sự bình
đẳng giới trong giáo dục. Tỉ lệ nữ giới nhập học đúng độ tuổi ở các cấp học luôn
cao hơn so với nam giới.
- Khoảng cách bất bình đẳng trong giáo dục giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm
giàu và nhóm nghèo cũng được thu hẹp đặc biệt ở cấp phổ thông.
- Luật phổ cập giáo dục tiểu học ở nước ta ban hành đáp ứng nhu cầu học tập của
đại đa số các thành viên trong xã hội. hiện nay trên 95% tree m qua tuổi tiểu học
đã hoàn thành chương trình tiểu học.
- Luật người khuyết tật đem lại bình đẳng trong giáo dục cho những con người
không được lành lặn về (thể xác, trí tuệ, tinh thần).
• Thiết chế pháp luật kìm hãm sự bình đẳng trong giáo dục:
- Các quy định về chương trình sách giáo khoa. SGK đắt gia đình khó khăn không
có đủ điều kiện để mua.
- Những tiêu cực trong gd chính sách tiền lương cho gv còn thấp dẫn đến dạy thêm
học thêm tràn lan.
3. Thiết chế văn hóa:
KN: TCVH là chỉnh thể vh hội tụ đầy đủ các yếu tố: csvc, bộ máy tổ chức, nhân
sự, quy chế hoạt động, nguông kinh phí
• Thúc đẩy bình đẳng xã hội:
- Gd là quá trình lĩnh hội, bảo tồn duy trì và phát triển vh từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Học sinh được giáo dục đẻ tiếp thu kiến thức và kĩ năng ứng xử văn hóa.
Việc vận dụn sang tạo các kiểu kiến thức vào thực tiễn nhằm phát huy mặt mạnh,
măt tích cực của nó hạn chế tối đa bbdxh trong gd.
10
- Vận dụn linh hoạt các chính sách hỗ tợ gd cho học sinh sinh viên đặc biệt là sinh
viên ngheo học giỏi giúp họ phát triển những năng lưc để họ cống hiến cho xh.
- Aps dục luật kinh tế thị trường vào việc giải quyết những vấn đề chi phí và lợi ích

giáo dục.
- Kìm hãm:
- Bất bình đẳng giới trong giáo dục.
- Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn
- Bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo.
- Bất bình đẳng giưac các các dân tộc.
4. Thiết chế kinh tế
- Khái niệm: Kinh tế là TCXH liên quan tới sự quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm.là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các
hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm các yếu
tố chủ yếu: các đạo luật, luật lệ, quy định, quy tắc, về kinh tế gắn với các chế tài xử
lý vi phạm; các tổ chức kinh tế; cơ chế vận hành nền kinh tế.
- Chức năng của thiết chế kinh tế thể hiện trong việc tổ chức sản xuất và kiểm soát,
điều hoà các mối quan hệ sau đây:
+ Quan hệ với tư liệu sản xuất
+ Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất
+ Quan hệ trong phân phối lợi ích
Sử dụng các biểu thống kê về số lượng người có mức thu nhập khác nhau đi học đúng
tuổi
Câu 11: Bất bình đẳng xã hội trong giáo dục gia đình và bất bình đẳng xã hội trong
giáo dục nhà trường ? Liên hệ thực tế
Trả lời:
1. Bất bình đẳng xã hội trong giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình phụ thuộc vào các yếu tố:
- Qui mô, đặc điểm, tính chất của gia đình ( Trang 280- XHH giáo dục)
- Mức sống của gia đình ( Trang 282 – XHH giáo dục)
Trên cơ sở đó ta thấy bất bình đẳng xã hội trong giáo dục gia đình thể hiện:
- Bất bình đẳng giới: quan tâm, đầu tư giáo dục trẻ em trai nhiều hơn trẻ em gái
( tư tưởng trọng nam, khinh nữ).
- Bất bình đẳng về cơ hội học tập, điều kiện học tập: do mức sống, mức thu

nhập ở các giai đoạn khác nhau làm cho điều kiện, cơ hội học tập khác nhau.
2.Bất bình đẳng xã hội trong giáo dục nhà trường.
- Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn: Tỉ lệ đi học của trẻ em ở thành thị
luôn cao hơn tỉ lệ đi học của trẻ em ở nông thôn.
Tỷ lệ đi học đúng tuổi thành thị - nông thôn
2006 2008
Cấp học phổ thông đúng
tuổi
Thành
thị
Nông
thôn
Thành
thị
Nông
thôn
11
Tiểu học: 6-10 tuổi 89.7 89.1 89.2 88.1
Trung học cơ sở: 11-14 tuổi 82.9 77.8 82.6 77.1
Trung học phổ thông: 15-17
tuổi 66.5 50.6 66.4 50.6
- Bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo: Tỉ lệ đi học của trẻ em xuất thân
từ nhóm gia đình nghèo luôn thấp hơn tỉ lệ đi học của nhóm gia đình giàu.
Ví dụ:
1/ Vào năm 1998-1999 tỉ lệ đi học cao đẳng, đại học của thanh niên (18 đến 24) tuổi xuất
thân từ số 20% gia đình giàu nhất (28.13%) nhiều gấp 60 lần tỉ lệ của nhóm gia đình
nghèo nhất (0.46%) . ( Nguồn: Tổng cục thống kê . Điều tra mức sống cư dân Việt Nam
1997-1998. Hà Nội. 2000. Tr. 61)
2/ Vào cuối những năm 1980, 92% sinh viên đại học ở Indonesia, 77% ở Venezuala xuất
thân từ nhóm 20% gia đình giàu nhất.(Nguồn: Ngân hàng thế giới .Những ưu tiên và

chiến lược cho giáo dục. Hà nội. 1997. Tr. 49)
- Bất bình đẳng giữa các dân tộc:
Ví dụ:
1/ Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 13% tổng số dân Việt Nam, nhưng sinh viên người
dân tộc thiểu số chỉ chiếm khoảng 4 % trong tổng số hơn một triệu sinh viên đại hoc.
2/ Báo cáo của các Sở giáo dục của 5 tỉnh miền núi là Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu,
Điện Biên và Sơn La cho biết tỉ lệ học sinh người dân tộc chiếm gần 54% trong tổng số
học sinh THPT của 5 tỉnh này, nhưng đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 80% tổng số
dân ( Nguồn: Ban khoa giáo trung ương. Công tác khoa giáo vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Hà Nội. 2006. Tr. 38.).
Ngoài tỉ lệ đi học, bất bình đẳng xã hội trong giáo dục nhà trường còn thể hiện:
- Đầu tư, quan niệm của xã hội ( vùng, miền ).
- Chất lượng đội ngũ giáo viên.
- Các hoạt động ngoại khóa, TDTT…
VD: quan niệm phân biệt “trò giỏi – trò dốt”, “thông minh – tối dạ” đã trở thành một nếp
nghĩ hằn sâu trong tư duy mọi người, từ các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục cho đến phụ
huynh học sinh.
Từ nếp nghĩ này mới sinh ra những mô hình như trường chuyên, lớp chọn, lớp
“chất lượng cao” …Những học sinh lớp chọn, trường chuyên, lớp chất lượng cao được
học chương trình nâng cao với những nhà giáo giỏi nhất, trong điều kiện cơ sở vật chất
tốt hơn nhiều so với các trường, lớp “đại trà”. Vì vậy, các bậc phụ huynh thường tìm mọi
cách (kể cả “chạy chọt”) để con em mình được vào trường chuyên, lớp chọn.
Ngay trong một lớp “đại trà”, các giáo viên cũng có sự phân biệt, đánh giá học
sinh theo mức độ “giỏi – dốt”. Không ít giáo viên chỉ chú ý đến những học sinh giỏi, chú
trọng kèm cặp, bồi dưỡng những học sinh này để đi thi học sinh giỏi, thi đại học…mà ít
quan tâm đến những học sinh mà họ cho là “dốt”.
12
Những giáo viên này nghĩ rằng những học sinh học khá trở lên mới học hành, thi
cử đỗ đạt, thành đạt, lập nghiệp được. Còn những học sinh “dốt” thì học cũng chẳng
“nên cơm nên cháo” gì, lo kiếm xong tấm bằng rồi đi học nghề, hoặc đi làm lao động

phổ thông. Khâu phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu kém hầu như ít được quan tâm, chỉ nêu
ra cho có trong các bản báo cáo của các trường.
Vì vậy, đối tượng học sinh “dốt” bị bỏ rơi, ngày càng tụt hậu và trở nên dốt thật,
không thể theo kịp bạn bè. Nhiều em chán nản, bỏ học đi làm hoặc đi lấy chồng, lấy vợ.
Hầu hết trường hợp học sinh bỏ học đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn, học lực quá yếu.
Câu 12.Phân tích ảnh hưởng của gia đình (ví dụ sự đầu tư của gia đình cho giáo
dục) đối với sự bình đẳng xã hội trong giáo dục?
Sự đầu tư của gia đình cho giáo dục chính là các khoản chi phí mà gia đình đầu tư
cho sự phát triển của con cái họ trong tương lai. Chỉ khi được học tập trong môi trường
giáo dục thì con người mới có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cơ bản và cần
thiết phục vụ cho như cầu về nguồn nhân lực của thị trường lao động. Ảnh hưởng của gia
đình đối với giáo dục:
- Gia đình là môi trường quan trọng hàng đầu cho sự phát triển tâm lý, trí tuệ và nhân
cách của trẻ em. Đứa trẻ được sinh ra trong một gia đình nghèo, sự phát triển của trẻ
trong tương lai gặp rất nhiều khó khăn do:
+ Không có điều kiện học tập trong môi trường tốt,
+ Không có điều kiện phát triển thể lực, đủ sức để học tập (trẻ ốm yếu, suy dinh
dưỡng, không phát triển cân đối về thể chất)
+ Không có thời gian để học tập như chúng bạn vì phải phụ giúp gia đình việc nhà,
thậm chí phải lao động, kiếm tiền
Đối với những trẻ em trong trường hợp này, cần sự giúp đỡ từ phía cộng đồng, những
nhà hảo tâm, chính sách hỗ trỡ từ nhà nước rất nhiều mới có thể phát triển cả về trí tuệ
và thể lực. Có như vậy, tương lai của các em mới được đảm bảo và xã hội sẽ bớt gánh
nặng đối với những trẻ mù chữ, nạn thất học, xã hội nghèo nàn về tri thức
- Trình độ học vấn của cha mẹ cũng rất quan trọng đối với giáo dục và bảo vệ, chăm sóc
trẻ em. Cha mẹ và nhất là người mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến đứa trẻ. Từ khi mang thai
cho đến khi sinh nở, người mẹ có giáo dục sẽ biết cách chăm sóc cho con, ví dụ: người
mẹ có sự hiểu biết, có điều kiện, sẽ biết cách chăm sóc thai nhi thật tốt: cách thức ăn
uống để nuôi dưỡng, cho thai nhi nghe nhạc để phát triển từ khi trong bụng mẹ; ngược
lại nếu người mẹ nghèo, không có giáo dục, ngày phải lao động vất vả, ăn uống thiếu

dinh dưỡng, có những người mẹ hút thuốc lá, uống rượu, sẽ ảnh hưởng đến não bộ của
trẻ; hơn nữa là còn ảnh hưởng đến việc gây ra tỉ lệ chết ở mẹ và trẻ em khi thiếu hiểu
biết, không được giáo dục.
13
- Đầu tư chi phí cho con cái học tập không chỉ tăng về vốn kiến thức cho con mà còn
tăng được kỹ năng giao tiếp, quan hệ bạn bè, ví dụ như cho con theo học thêm ở các lớp
năng khiếu, là tạo cho con cái thêm mối quan hệ xã hội, làm quen với môi trường đa loại
hình hình thành được kinh nghiệm sống cá nhân, góp phần vào việc phát triển nhân
cách cho trẻ.
Ở nhiều địa phương, nhiều tổ chức kinh tế - xã hội đã tài trợ cho các hoạt động của
nhà trường như hỗ trợ trẻ em nghèo, mua sắm thiết bị dạy học, cử người hướng nghiệp
cho học sinh, giúp nhà trường tô chức các hoạt động nội, ngoại khóa có chất lượng .
Câu 16. Phân hóa xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục nghề nghiệp.
1. Phân hóa xã hội trong giáo dục nghề nghiệp
- Điều 4, Luật giáo dục khẳng định, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam gồm 4 cấp
học và trình độ đào tạo, trong đó giáo dục nghề nghiệp là một trong 4 cấp học đó. Giáo dục
nghề nghiệp bao gồm Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Phân hóa xã hội trong giáo dục nghề nghiệp : Là quá trình hình thành cách nhóm xã
hội khác nhau về một số đặc điểm, tính chất nhất định trong giáo dục nghề nghiệp.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân hóa xã hội trong giáo dục nghề nghiệp:
+ Nguyện vọng của học sinh và hoàn cảnh gia đình
Việc học theo trào lưu, hầu hết học sinh và phụ huynh đều có quan điểm học xong
THPT đều phải thi vào một trường ĐH nào đó dẫn đến thực tế hiện nay đó là tình trạng thừa
thầy thiếu thợ. Nhiều sinh viên ra trường chưa tìm được việc làm hoặc rất nhiều học sinh phải
làm việc trái với chuyên môn được đào tạo trong trường ĐH
+ Công tác định hướng nghề ở các nhà trường phổ thông
Tập trung vào dạy văn hóa là chính. Không có giáo viên chuyên trách thực hiện công tác
hướng nghiệp nghề cho học sinh. Việc dạy Hướng nghiệp nghề chỉ được giới thiệu thông một
số ít tiết do giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên dạy mô GDCD thực hiện.
Nhận thức về các nghề của hầu hết học sinh và thậm chí ở cả giáo viên còn rất mơ hồ.

Hoặc chỉ biết đến một số ít nghề hiện xung quanh hoặc có những hình dung sai lệch về các
nghề nghiệp dẫn đến những tư vấn, những cái nhìn lệch lạc trong HS. Chưa nắm bắt được nhu
cầu của xã hội trong tương lai
14
Quan điểm "học để đi thi, học để “làm quan”, không thích làm thợ còn khá nặng nề
trong nhân dân ta, đặc biệt là trong học sinh và phụ huynh. Yếu tố tâm lý này có ảnh hưởng rất
lớn đến sự định hướng nghề nghiệp tương lai của học sinh sắp ra trường, làm cho chủ trương
phân luồng học sinh PT không thực hiện được. Có thể nói rằng, công tác HN cho học sinh PT ở
nước ta còn yếu kém, còn cách xa với các nước trong khu vực; chưa đáp ứng được nhiệm vụ
chuẩn bị nguồn lực cho công nghiệp hoá"
+ Điều kiện kinh tế-xã hội và nhu cầu nhân lực của địa phương
+ Đầu vào, đầu ra của giáo dục nghề nghiệp :
Đầu vào : Điều kiện bắt buộc của đa số các trường TCCN thậm chí cả các trường dạy
nghề yêu cầu HS phải có bằng tốt nghiệp THPT. Vì vậy những học sinh học xong lớp 9 không
có điều kiện học tiếp THPT có rất ít cơ hộ kiếm việc là học thường phải tìm kiếm công việc lao
động tự do.
Đầu ra : Việc đào tạo nghề chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội: học sinh học nghề xong
vào thực tế chưa biết làm việc lại phải do các doanh nghiệp đào tạo lại điều này ảnh hưởng lớn
đến việc học sinh có chọn đi học nghề hay không. - Việc liên kết giữa các trường TCCN,
trường nghề với các doanh nghiệp, với các nhà sản xuất chưa chặt chẽ. Các ngành nghề được
đào tạo tự do, học sinh học xong phải tự đi tìm nghề. Việc đào tạo theo đơn đặt hàng về nguồn
nhân công lao động còn hạn chế nên chưa thu hút được một lượng lớn học sinh vào học.
- Biểu hiện của sự phân hóa xã hội trong giáo dục nghề nghiệp :
+ Phân hóa về trình độ : Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong dạy nghề phân
thành 3 trình độ : Sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề
+ Phân hóa về nhóm ngành : Phân thành các nhóm nghề nghiệp khác nhau: Y-dược, cơ
khí, kinh tế, kỹ thuật…
+ Phân hóa về chất lượng
- Đề xuất nhằm tạp nên sự phân hóa xã hội hợp lý trong giáo dục nghề nghiệp :
+ Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp nghề cho học sinh ngay từ cấp THCS

+ Tạo ra nhiều hướng phân luồng học sinh sau THCS và THPT:
+ Giảm hiện trạng sự mất cân đối trong cơ cấu tuyển sinh ĐH, CĐ và THCN, dẫn tới
mất cân đối trong cơ cấu đào tạo và tất yếu dẫn tới mất cân đối trong cơ cấu nguồn nhân lực.
15
Cần chú trọng: Hướng một bộ phận (phân luồng) học sinh THCS vào hệ thống các trường
THCN, dạy nghề ở các địa phương ; Phát triển loại trường THPT kỹ thuật ở các địa phương,
để tạo nguồn lao động phổ thông.
+ Củng cố, phát triển hệ thống trung tâm KTTH-HN cấp huyện, thị. Một trong những
hạn chế lớn nhất hiện nay của các trung tâm KTTH-HN là chưa chú trọng quan tâm phối hợp
với các trường trung học để HN cho học sinh. Bởi vậy, trong những năm tới cần phải có sự
điều chỉnh hợp lý từ việc bố trí đội ngũ chuyên trách HN, dến việc xây dựng CSVC - thiết bị và
cơ chế phối hợp giữa trung tâm với các trường THPT.
2. Bình đẳng xã hội là gì, bình đẳng xã hội trong giáo dục
- Khái niệm bình đẳng xã hội: Bình đẳng XH trong giáo dục được hiểu: Bình đẳng về cơ
hội học tập, bình đẳng về cơ hội đến trường mọi học sinh đều có quyền đến trường, quyền chọn
trường chọn lớp là như nhau.
- Bình đẳng trong giáo dục không có nghĩa là tất cả các học sinh đều được kết quả học
tập như nhau hay tốt nghiệp với kết quả như nhau. Kết quả học tập phụ thuộc phẩm chất năng
lực, tâm lý thi cử hay sự nỗ lực của bản thân
Thiết chế giáo dục đòi hỏi phải thực hiện nguên tắc công bằng trong XH để tạo ra sự
bình đẳng về cơ hội giáo dục:
+ Một là, bình đẳng về cơ hội đầu vào giáo dục về: cơ hội đến trường cho mọi hóm xã
hội từ miền ngược đến miền xuôi, từ trẻ em bình thường đến những trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn; cơ hội đầu tư
+ Hai là, bình đẳng về cơ hội đầu ra của giáo dục: bình đẳng về cơ hội sử dụng bằng cấp,
bình đẳng về cơ hội tìm việc làm phù hợp với trình độ đào tạo trên thực tế có sự phân biệt đối
xử đối với sinh viên tốt nghiệp giữa đào tạo chính qui và đào tạo tại chức, giữa các trường dân
lập và các trường tư thục.
- Bình đẳng xã hội trong giáo dục nghề nghiệp:
16

ĐỀ CƯƠNG THAM KHẢO
Câu 1. Phân tích khái niệm phân hóa xã hội. Phân hóa xã hội và phân tầng xã hội ?
1. Phân hóa xã hội
- Phân hóa xã hội là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về một hoặc
một số đặc điểm, tính chất xã hội nhất định
- Sự phân hóa xã hội có thể dẫn đến sự hình thành các nhóm xã hội khác nhau, mâu
thuẫn nhau thậm chí đối lập nhau. Khi sự phân hóa xã hội tạo thành hai nhóm xã hội đối
lập nhau thì được gọi là sự phân cực xã hội
Ví dụ:
Về kinh tế: Sự phân hóa xã hội tạo ra 2 nhóm đối lập nhau là nhóm giàu và nhóm
nghèo, tương ứng là nhóm học sinh con nhà giàu và nhóm học sinh con nhà nghèo.
Về giáo dục: sự phân hóa xã hội tạo thành nhóm học sinh giỏi và nhóm học sinh
kém.
- có những sự phân hóa xã hội tạo ra sự phong phú, đa dạng của các nhóm xã hội. ví
dụ như: sự phân hóa về nghề nghiệp.
- có sự phân hóa xã hội tạo ra sự phân tầng xã hội và thậm chí là sự bất bình đẳng
xẫ hội sâu sắc. ví dụ như: sự phân hóa về giai cấp (tư sản và vô sản), sự phân hóa về tầng
lớp (giàu, nghèo)
* cơ chế và các yếu tố tác động tới sự phân hóa xã hội
Cơ chế:
- sự phân hóa xã hội diễn ra trong những điều kiện xã hội cụ thể. Vd: trong xã hội
nông nghiệp thì mới xuất hiện giai tầng nông dân, địa chủ. Trong xã hội hiện nay thì mới
xuất hiện những người làm nghề về máy tính
- Sự phân hóa xã hội diễn ra theo quy luật: quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.
17
VD: theo quy luật tự nhiên, con người lớn lên và tham gia vào các nhóm xã hội
khác nhau tùy theo đặc điểm về lứa tuổi, tâm sinh lí. (hội người cao tuổi, đoàn thanh
niên )
Theo quy luật xã hội: trẻ em đến 6 tuổi thì đi học lớp 1 và mỗi năm lên một lớp. đủ
điều kiện sẽ chuyển sang học cấp học mới. người lao động thất nghiệp thường khó tránh

khỏi tình trạng nghèo.
Các yếu tố:
Có nhiều yếu tố khác nhau tác động tới sự phân hóa xã hội như: gia đình, năng lực
cá nhân, cơ may xã hội trong đó sự phân công lao động trong xã hội và Giáo dục (trình
độ học vấn) là hai yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất nhưng không làm mất tác dụng của
các yếu tố khác.
2. Phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội là sự phân hóa xã hội tạo thành các tầng xã hội khác nhau về vị
thế xã hội trong cấu trúc xã hội.
- là quá trình phân hóa xã hội với đặc trưng là tạo ra các nhóm xã hội có vị thế trên
dưới, cao thấp khác nhau về mổ hoặc một số đặc điểm, tính chất cơ bản, trong đó quan
trọng nhất là về kinh tế, quyền lực và uy tín xã hội
- tạo nên cấu trúc phân tầng xã hội gồm các nhóm người có vị thế xác định trong
một trật tự xã hội.
- sự phân tầng xã hội luôn chưa đựng yếu tố bất bình đẳng xã hội bởi ở đó luôn có
những tầng lớp trên và tầng lớp dưới.
* Cơ chế và các yếu tố tác động đến phân tầng xã hội
Cơ chế:
- Quy luật tự nhiên: VD: về lứa tuổi, trong xã hội có thế hệ trước và thế hệ sau, tầng
lớp trên (nhóm người cao tuổi) và tầng lớp dưới (nhóm thanh niên, trẻ em)
- Quy luật xã hội: VD. Người càng học lên cao càng có khả năng gia nhập những
giai tầng trên của xã hội
Yếu tố
18
- gia đình: gia đình giàu có điều kiện cho con cái ăn học tốt hơn, điều kiện sống
sung túc hơn các gia đình nghèo, con cái theo nghề nghiệp của cha mẹ …
- Phẩm chất, năng lực cá nhân: tùy theo những phẩm chất và năng lực cá nhân mà
người đó có cơ hội thăng tiến nhiều hay ít…
- giáo dục và đào tạo: giúp cá nhân hình thành và phát triển những phẩm chất, năng
lực cần thiết. đây là con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất để mỗi cá nhân lĩnh hội

được các kinh nghiệm và tri thức nghề nghiệp để thăng tiến
- cơ may xã hội: VD: Sinh viên tốt nghiệp đúng ngành nghề mà xã hội đang cần thì
cơ hội việc làm rất cao.
Câu 2: Phân hoá XH trong GD là gì ?
Trả lời:
Phân hoá XH trong GD là: quá trình hình thành các nhóm học sinh (sinh viên, học
viên…), các nhóm nghề nghiệp, trình độ khác nhau trong giáo dục.
Ví dụ như: phân hoá XH trong GD tạo thành các nhóm học sinh:
- Nhóm học sinh con nhà giàu và nhóm học sinh con nhà nghèo.
- Nhóm học sinh học giỏi, học khá và nhóm học sinh học yếu.
- Nhóm học sinh có sở trường, năng khiếu về các môn khoa học TN, XH, VH, VN -
TD - TT
- Nhóm học sinh theo độ tuổi.
- Nhóm học sinh học nghề và nhóm học sinh học văn hoá….
Hay phân hoá XH trong GD còn tạo ra các nhóm nghề nghiệp khác nhau như:
- Các nhà thơ, nhà văn.
- Các nhà khoa học (TN hoặc XH)
- Gíáo viên, bác sĩ, kĩ sư, doanh nhân…
Rồi sự phân hoá này còn hình thành các nhóm với trình độ học vân khác nhau như trung
cấp, cao đẳng, đại học…
Sự phân hoá XH trong giáo dục vừa là hệ quả của sự phân hoá giàu nghèo trong
XH song đồng thời nó cũng là tiền đề, là một trong 2 nguyên nhân (cùng với phân công
lao động) tác động tới phân hoá xã hội.
19
Giáo dục là một trog những phương thức phân hóa XH sâu sắc.Những người học
ở trường ĐH Bách Khoa thường tham gia vào các nhóm khoa học công nghệ, người
tham gia vào trường ĐH xây dựng sẽ tham gia vào các nhóm nghề xây dựng. Trình độ
học vấn khác nhau tạo những vị thế XH khác nhau như: học trường ĐH Y sẽ trở thành
bác sĩ… Học sinh (HS) trong cùng độ tuổi vừa có sự giống nhau lại vừa có sự khác nhau
về khả năng tư duy, nhân cách và hoàn cảnh gia đình, nề nếp gia đình, khả năng kinh tế,

nhận thức của cha mẹ về giáo dục, ).
Sự phân công lao động và giáo dục – đào tạo là hai trong số nhứng yếu tố có tác động
mạnh mẽ tới sự phân hóa xã hội. Những yếu tố này có thể lấn át nhưng không làm mất
tác dụng của những yếu tố tự nhiên như tuổi, giới tính…
Liên hệ thực tế: (đọc tham khảo)
1. Dạy học phân hóa trong các giờ học chính khóa.
2. Hoạt động ngoại khóa.
3. Bồi dưỡng HS giỏi.
4. Giúp đỡ HS yếu kém.
Câu 3. Bình đẳng xã hội là gì? Bình đẳng xã hội trong giáo dục là gì?
1. Khái niệm
- Công bằng xã hội: Là sự tiếp cận và xử lý đúng đắn, không thiên vị các mối quan hệ
cơ bản giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
- Bình đẳng xã hội: Nói tới bình đẳng xã hội là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các
điều kiện, các cơ hội và các quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá
nhân, các nhóm xã hội.
→ Công bằng, bình đẳng và tự do gắn liền với quyền cơ bản của của con người.
- Bình đẳng giáo dục: Là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các nhóm người về điều kiện,
cơ hội và quyền lợi trong giáo dục.
- Bình đẳng xã hội trong giáo dục được hiểu một cách cụ thể, rõ ràng là sự bình đẳng
giáo dục, bình đẳng về cơ hội giáo dục, bình đẳng về cơ hội học tập, bình đẳng về cơ hội
đến trường.
2. Yêu cầu về bình đẳng xã hội trong giáo dục
20
- Một là, cơ hội đầu vào giáo dục: bình đẳng về cơ hội đến trường, bình đẳng về cơ hội
đầu tư cho giáo dục. Cần tạo ra sự bình đẳng về cơ hội đến trường cho mọi nhóm xã hội
từ miền xuôi đến miền ngược, từ trẻ em bình thường đến trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
- Hai là, bình đẳng về cơ hội đầu ra của giáo dục: bình đẳng về cơ hội sử dụng bằng cấp,
bình đẳng về cơ hội tìm việc làm phù hợp với trình độ đào tạo.
- Ba là, cần thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội để từng bước tiến tới bình đẳng xã

hội trong giáo dục (phải hành động trên nền tảng công lý, pháp luật).
3. Từ góc độ xã hội học, vấn đề về bình dẳng xã hội trong giáo dục được nhìn nhận:
- Thứ nhất, vấn đề công bằng, bình đẳng và hiệu quả giáo dục không phải là vấn đề nội
bộ của ngành giáo dục mà là của xã hội.
- Thứ hai, sự công bằng và bình đẳng trong giáo dục phụ thuộc vào cách phân bổ ngân
sách của nhà nước và quy mô, cơ cấu phát triển giáo dục tiểu học, trung học và đại học.
- Thứ ba, là trình độ phát triển kinh tế xã hội: cần thực hiện công bằng ngay cả khi kinh
tế chậm phát triển. Bởi vì bình đẳng xã hội trong giáo dục vừa là mục tiêu vừa là con
đường phát triển con người , phát triển xã hội.
→ Nếu muốn trình bày cụ thể hơn, các bạn đọc tại Tài liệu Xã hội học giáo dục – Trang
185 đến 218
Câu 4: Công bằng xã hội là gì? Cần hiểu công bằng xã hội trong giáo dục như
thế nào?
Trả lời:
. Công bằng xã hội là sự tiếp cận và xử lí đúng đắn, không thiên vị các mối quan hệ
cơ bản giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Công bằng xã hội theo pháp luật không phải là mục đích tự thân mà là phương thức,
là cơ chế để thực hiện bình đẳng xã hội thực chất.
. Công bằng xã hội trong giáo dục:
Mọi công dân đều có quyền tiếp cận các cơ hội học tập theo quy định của Luật giáo
dục.
Công bằng giáo dục mà mục tiêu cuối cùng là thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, phát triển kinh tế xã hội, bảo tồn sự đa dạng của nền văn hóa các dân tộc Việt
21
Nam, góp phần xây dựng xã hội: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Lấy thêm các ví dụ
Tham khảo để trả lời cho sinh động phần hỏi thêm của Thầy
Hồ Chủ tịch đã nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm

ăn áo mặc, ai cũng được học hành…” . Ham muốn vô bờ đó của Người thực sự đã chứng
minh cho những quan tâm hết sức lớn lao của Hồ Chủ tịch đối với vấn đề quốc kế dân
sinh.
(Phát triển giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo là cơ sở
để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn vốn văn hoá
cho đồng bào các dân tộc để họ có điều kiện vươn lên hoà nhập và thực hiện quyền bình
đẳng của mình là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết nhưng cũng rất khó khăn ở nước
ta hiện nay. Chỉ khi nào đồng bào dân tộc thiểu số có được một trình độ học vấn cao thì
khi ấy họ mới có điều kiện thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, tiếp thu và áp dụng tiến bộ
kỹ thuật vào trong sản xuất và đời sống vượt qua nghèo nàn, góp phần vào sự nghiệp
phát triển chung của đất, tức là mới có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ của mình, và chỉ
khi đó các dân tộc thiểu số mới thực sự bình đẳng trong một quốc gia đa dân tộc.
Read more: />name=Content&op=details&mid=944#ixzz2iPMwd3OZ
Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia
đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.
Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng
được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều
kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng.
Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách
22
ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực
hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.)( Điều 10 Luật GD2005)
Câu 5:
Phân tích mối quan hệ giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục.
Công bằng xã hội (Tr.194-195)
− là sự tiếp cận và xử lý đúng đắn ,
không thiên vị các mối quan hệ cơ
bản (nhu cầu & hưởng thụ, nghĩa vụ
& quyền lợi, chi phí & lợi ích, đóng

góp & phần thưởng) giữa các cá
nhân, tổ chức trong xã hội.
− được cụ thể hóa thành các nguyên
tắc ứng xử và được thể chế hóa
thành các quy định pháp luật hoặc
thành quy tắc bất thành văn.
− Công bằng xã hội theo pháp luật là
phương thức, là cơ chế để thực hiện
bình đẳng xã hội thực chất.
Bình đẳng xã hội (Tr. 195 - 196)
− là sự thừa nhận và thiết lập các điều
kiện, các cơ hội và các quyền lợi ngang
nhau cho sự tồn tại và phát triển của các
cá nhân, các nhóm xã hội.
− nói tới hành vi ứng xử cụ thể giữa người
với người trên từng phương diện của
cuộc sống.
Bình đẳng giáo dục (Tr.199-200, 267-268)
Công bằng xã hội trong giáo dục
(Tr.199-200)
- là tạo ra sự bình đẳng về cơ hội học
tập của mọi công dân không phân biệt
tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính v.v
được nhà nước quy định trong Điều 10,
Luật Giáo dục 2005
Bình đẳng xã hội trong giáo dục
− là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các
nhóm người về điều kiện, cơ hội và
quyền lợi trong giáo dục
− được hiểu một cách cụ thể, rõ ràng là sự

bình đẳng giáo dục, bình đẳng về cơ hội
giáo dục, bình đẳng về cơ hội học tập,
binh đẳng về cơ hội đến trường
Công bằng xã hội va bình đẳng xã hội là một quá trình xã hội:
- Công bằng xã hội là một trong nhựng nguyên tắc phát triển có ý nghĩa trọng đại của
mỗi quốc gia. Trong đó phải nhấn mạnh sự công bằng về quyền được học hành, quyền
23
được hưởng thụ một nền giáo dục hiện đại, quyền được tham gia phát triển giáo dục.
Thực hiện công bằng trong giáo dục trước hết là tạo cơ hội như nhau trong học tập là
điều kiện quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng trong giáo dục. Khi nền công nghiệp
dần nhường chỗ cho kinh tế tri thức thì giáo dục không những là quyền của mọi công
dân, mà còn mang sứ mạng vĩ đại là tạo mọi cơ hội để con người được học tập suốt đời,
nghĩa là phải làm cho quốc gia thành một xã hội học tập.
- Khi tạo cơ hội giáo dục tính đến từng con người, không loại trừ một ai thì chính đó là
sự công bằng về giáo dục được giải quyết cơ bản . Sự công bằng về giáo dục là sự công
bằng về cơ hội để con người phát triển bền vững trên cơ sở họ thực hiện được quyền lợi
và nghĩa vụ học tập suốt đời . Thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội để từng bước tiến
tới bình đẳng xã hội trong giáo dục: bình dẳng về đầu vào giáo dục, bình đẳng về đầu ra
của giáo dục.
- Giáo dục là phương tiện tạo ra bình đẳng bằng cách mang lại cơ hội công bằng cho mọi
người. Thông qua cơ hội công bằng, giáo dục kích thích nỗ lực vươn lên của mọi cá
nhân, thúc đẩy sự ưu tú, tài năng, sự sáng tạo, nhờ đó tạo ra tiến bộ và phát triển xã hội.
Ví dụ sự bình đẳng về cơ hội đến trường: trẻ em ở miền núi, miền xuôi khi đủ 6 tuổi đều
có thể đi học tiểu học. Công bằng về giáo dục luôn đòi hỏi sự công bằng về điều kiện
học tập. Một phường trong thành phố lớn có ít nhất một trường tiểu học; một xã vùng
cao hiện nay cũng có trường tiểu học. Nếu nhìn vào con số thống kê này, người ta có thể
cho rằng, giữa miền núi với vùng đô thị đã có sự công bằng về giáo dục tiểu học. Thực
ra vẫn rất bất công bằng khi trường tiểu học ở thành phố được xây dựng kiên cố, có đủ
điện chiếu sáng trong từng lớp học, có bàn ghế học sinh đóng đúng quy cách, có máy
tính cho học sinh sử dụng ngay khi vào lớp 1, v.v. còn trường ở vùng cao được bao bọc

bằng những tấm phên đan bằng tre hoặc nứa, ghế học sinh ghép bằng những cây tre, mùa
đông đến gió rừng làm cho lũ trẻ co ro trong lớp học, trời mưa hoặc lúc chiều tà, lớp học
tối om. Cũng là học tiểu học, nhưng chất lượng trường lớp như thế làm sao mà bảo đảm
việc học tập ở hai nơi là công bằng?
24
Câu hỏi 6: Căn cứ vào “tỉ lệ đi học đúng tuổi” tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông, cao đẳng, đại học của Việt Nam trong thời gian vừa qua, hãy phân tích thực trạng
phân hóa xã hội và bất bình đẳng xã hội trong giáo dục?
Bài làm:
Phân hóa xã hội: Phân hóa xã hội là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về
một hoặc một số đặc điểm, tính chất xã hội nhất định.
Thực trạng phân hóa xã hội
Ở Việt Nam thời gian qua “tỉ lệ đi học đúng tuổi” tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông, cao đẳng, đại học đã hình thành các nhóm xã hội khác nhau, mâu thuẫn
nhau, thậm chí đối lập nhau. Từ đó có thể tạo ra những nhóm xã hội khác nhau về trình
độ, về nghề nghiệp. Với các trình độ và khả năng khác nhau sẽ có hàng trăm ngành nghề
khác nhau, trong trường hợp này sự phân hóa xã hội dẫn đến sự phong phú, đa dạng của
các nhóm xã hội, các cộng đồng xã hội.
Điều nổi cộm nhất trong trường hợp này là sự phân hóa xã hội bởi “tỉ lệ đi học
đúng tuổi” tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, cao đẳng, đại học của nước ta
hiện nay đã dẫn đến sự phân tầng xã hội và sự bất bình đẳng xã hội sâu sắc.
Ví dụ như trong bảng thống kê một số tỉ lệ liên quan:
Tỉ lệ biết chữ % Tỉ lệ đi học % Trình độ ≥ trung học
Tiểu học Trung học Đại học nữ nam
92,8 104,1 66,9 9,7 24,7 28,0
(Nguồn: Báo cáo phát triển Con người (HDR) năm 2011)
Bất bình đẳng XH trong giáo dục (Bất bình đẳng giới, bất bình đẳng giữa thành
thị và nông thôn, bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, bất bình đẳng giữa các
dân tộc).
Sự bất bình đẳng xã hội trong giáo dục có ảnh hưởng lớn tới việc trẻ em đi học và

không đi học.
- Sự bất bình đẳng giới trong giáo dục
+ Thể hiện ở tỷ lệ nam đi học nhiều hơn nữ. Ví dụ: năm 2011, trong báo cáo phát
triển con người tỷ lệ nữ đi học là 24,7% ; nam là 28,0% (trình độ trung học, trên trung
học). Và càng lên cấp cao hơn thì bất bình đẳng giáo dục càng lớn. Với tỷ lệ chênh lệch
25

×