Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ĐAU THẮT NGỰC KHÔNG ỔN ĐỊNH (Kỳ 2) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.11 KB, 5 trang )

ĐAU THẮT NGỰC KHÔNG ỔN ĐỊNH
(Kỳ 2)
Các xét nghiệm chẩn đoán
Điện tâm đồ:
Trong cơn đau có thể thấy sự biến đổi của đoạn ST: ST chênh xuống, T đảo
chiều, ST chênh lên thoáng qua. Nếu ST chênh lên bền vững hoặc mới có xuất
hiện bloc nhánh trái thì ta cần phải nghĩ đến NMCT.
Có 20 % bệnh nhân không có thay đổi trên ĐTĐ.
Việc phân biệt ĐTNKÔĐ với NMCT cấp không có sóng Q chủ yếu là xem
có sự thay đổi của men tim hay không.
Bảng 1-2. Phân tầng nguy cơ của bệnh nhân ĐTNKÔĐ
Nguy cơ cao

Nguy cơ vừa

Nguy cơ
thấp
Có m
ột trong
Không có
Không có
các biểu hiện sau: các d
ấu hiệu nguy
cơ cao nhưng có 1
trong các d
ấu hiệu
sau:
các bi
ểu hiện của
nguy cơ cao ho
ặc


vừa
Đau ng
ực
khi ngh
ỉ > 20 phút,
của bệnh mạch vành

Có phù ph
ổi
c
ấp do bệnh mạch
vành
Đau ng
ực
khi nghỉ có k
èm
theo đo
ạn ST thay
đổi > 1mm
Đau ng
ực
kèm theo xu
ất hiện
ran
ở phổi, tiếng tim
th
ứ 3 hoặc HoHL
Đau ng
ực
khi ngh

ỉ >20 phút
nhưng đã tự đỡ
Đau ng
ực
khi ngh
ỉ >20 phút
nhưng đáp
ứng tốt
với điều trị
Đau ng
ực về
đêm
Đau ng
ực có
kèm theo thay đ
ổi
ST
Đau ng
ực
m
ới xảy ra trong
Có s
ự gia
tăng về tần số v
à
mức độ đau ngực
Đau ng
ực
kh
ởi phát do gắng

sức nhẹ
Đau ng
ực
m
ới xuất hiện
trong vòng 2 tuần-

2 tháng
Không thay
đổi ST
mới
Đau ng
ực
kèm theo t
ụt huyết
áp
vòng 2 tu
ần, tính
chất nặng.
Có sóng Q
b
ệnh lý hoặc xuất
hiện ST ch
ênh
xu
ống ở nhiều
chuyển đạo.
Tuổi > 65
Men tim:
Vì tính chất khó phân biệt với NMCT (không sóng Q) và có thể tiến triển

đến NMCT của ĐTNKÔĐ nên mọi bệnh nhân cần được làm xét nghiệm men tim
và theo dõi các men này.
Các men thường được dùng để theo dõi là CK và CK-MB; Troponin T và I.
Về nguyên tắc trong ĐTNKÔĐ không có sự thay đổi các men tim, tuy
nhiên trong một số trường hợp có thể thấy tăng đôi chút men Troponin I và điều
này báo hiệu tiên lượng xấu hơn.
Siêu âm tim: Siêu âm tim thường giúp ích cho ta chẩn đoán rối loạn vận
động vùng (nếu có), đánh giá chức năng thất trái (đặc biệt sau NMCT) và các bệnh
lý thực tổn van tim kèm theo hoặc giúp cho việc chẩn đoán phân biệt.
Các nghiệm pháp gắng sức:
Cần chú ý là khi đã chẩn đoán chắc chắn ĐTNKÔĐ thì không có chỉ định
làm các nghiệm pháp gắng sức do tính chất bất ổn của bệnh.
Các nghiệm pháp này chỉ đặt ra khi bệnh nhân ở nhóm nguy cơ thấp, lâm
sàng không điển hình, không có thay đổi trên ĐTĐ và đã điều trị ổn định tại bệnh
viện trong vài ngày.
Chụp động mạch vành:
Chỉ định chụp động mạch vành trong ĐTNKÔĐ được các tác giả thống
nhất là ở nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao, vì mục đích của chụp ĐMV là để can
thiệp ĐMV nếu có thể. Các chỉ định khác là khi bệnh nhân không đáp ứng hoặc tái
phát đau ngực sau khi đã dùng thuốc điều trị tối ưu, khi bệnh nhân có suy tim, rối
loạn nhịp, giảm chức năng thất trái (bảng 1-3). Hiện nay một số trung tâm trên
thế giới chủ trương chụp ĐMV và can thiệp cho mọi bệnh nhân ĐTNKÔĐ ngay
thì đầu. Tuy nhiên, cách này chưa tỏ ra lợi ích vượt trội so với cách điều trị bảo
tồn trước, nó chỉ vượt trội ở nhóm có nguy cơ cao.
Bảng 1-3. Các chỉ định của chụp ĐMV trong ĐTNKÔĐ.
Nhóm nguy cơ cao.
Tiền sử có can thiệp ĐMV hoặc mổ cầu nối.
Suy tim.
Giảm chức năng thất trái (EF < 50%).
Rối loạn nhịp thất ác tính.

Còn tồn tại hoặc tái phát đau ngực sau dùng thuốc .
Có vùng giảm tưới máu cơ tim rộng tr
ên các xét
nghiệm chẩn đoán không chảy máu (xạ đồ c
ơ tim, siêu âm
tim stress).
Có bệnh van tim rõ rệt kèm theo (HoHL, HoC).

×