Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

ĐAU THẮT NGỰC KHÔNG ỔN ĐỊNH (Kỳ 4) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.26 KB, 4 trang )

ĐAU THẮT NGỰC KHÔNG ỔN ĐỊNH
(Kỳ 4)
Các thuốc ức chế thụ thể Glycoprotein IIb/IIIa của tiểu cầu
Cơ chế: Trên bề mặt của tiểu cầu có các vị trí (thụ thể) mà khi được hoạt
hoá sẽ gắn kết với mạng fibrin gây nên sự ngưng kết tiểu cầu, các vị trí này gọi là
các thụ thể Glycoprotein IIb/IIa. Việc ức chế thụ thể này đã ức chế tận gốc quá
trình ngưng kết tiểu cầu nên các thuốc nhóm này sẽ có tác dụng chống ngưng kết
tiểu cầu rất mạnh.
Các loại thuốc và liều:
Abciximab (Reopro): là thuốc được phát hiện và dùng đầu tiên. Liều dùng
tấn công 0,25 mg/kg tiêm thẳng TM sau đó truyền TM 10 mcg/phút trong 12 giờ
tiếp theo.
Eptifibatid (Intergrilin): Liều dùng tấn công 180 mcg/kg tiêm thẳng TM sau
đó truyền TM 1,3 - 2,0 mcg/phút trong 12 giờ tiếp theo.
Tirofiban (Aggrastat): liều tấn công 0,6 mcg/kg/ phút truyền TM trong 30
phút sau đó truyền TM 0,15 mcg/kg/phút trong 12 -24 giờ tiếp theo.
Lamifiban: 0,1 mcg/kg/phút truyền TM/ 24 giờ.
Cách dùng: các thuốc này có thể được dùng như sau:
Dùng trong lúc can thiệp ĐMV làm giảm nguy cơ tử vong hoặc NMCT
(thử nghiệm EPIC với Reopro làm giảm tới 90 % nguy cơ tử vong hoặc NMCT
sau 30 ngày liên quan đến can thiệp).
Dùng trước lúc can thiệp ĐMV (thử nghiệm CAPTURE với Reopro làm
giảm tới 20 % nguy cơ tử vong, NMCT hoặc phải can thiệp lại sau 30 ngày có liên
quan đến can thiệp).
Dùng độc lập cho ĐTNKÔĐ: làm giảm 10-17 % nguy cơ tử vong hoặc
NMCT trong ĐTNKÔĐ (thử nghiệm PURSUIT với Eptifibatid, thử nghiệm
PRISM với Tirofiban).
Các Nitrates
Chưa có nghiên cứu nào chứng minh được Nitrate làm giảm nguy cơ tử
vong hoặc NMCT ở bệnh nhân ĐTNKÔĐ, nhưng Nitrate là điều trị quan trọng để
giảm đau ngực cho bệnh nhân và cải thiện triệu chứng.


Liều dùng: nên bắt đầu ngay bằng xịt dưới lưỡi (hoặc ngậm) cho bệnh
nhân, sau đó thiết lập đường truyền TM để truyền Nitroglycerin với liều 10-20
mcg/phút. Có thể tăng liều sau mỗi 5-10 phút tuỳ đáp ứng của bệnh nhân, mỗi lần
tăng 5-10 mcg/phút. Một số trường hợp đáp ứng tốt có thể dùng thuốc dưới dạng
miếng dán ngực hoặc dạng mỡ bôi.
Các thuốc chẹn bêta giao cảm
Các thuốc chẹn bêta giao cảm giúp làm giảm nhu cầu ôxy của cơ tim do
giảm co bóp cơ tim và giảm nhịp tim. Hơn nữa, thuốc có thể làm giảm áp lực đổ
đầy tâm trương nên làm tăng máu về ĐMV trong kỳ tâm thu. Dùng chẹn bêta giao
cảm ở bệnh nhân ĐTNKÔĐ không những làm giảm đau ngực tốt mà còn được
chứng minh là làm giảm tỷ lệ biến thành NMCT và giảm diện hoại tử cơ tim nếu
bị NMCT. Các thuốc chẹn b giao cảm được coi là thuốc hàng đầu trong điều trị
ĐTNKÔĐ.
Nên dùng các thuốc chẹn chọn lọc b1: Metoprolol, Atenolol
Chống chỉ định: Nhịp chậm (bloc nhĩ thất độ cao); Bệnh phổi mạn tính tắc
nghẽn; Suy tim nặng mất bù; Bệnh mạch ngoại vi; Huyết áp thấp; Sốc tim.
Mục tiêu điều trị là giảm được triệu chứng đau ngực và giảm nhịp tim. Nên
bắt đầu bằng liều thấp và theo dõi sát. Thường dùng Metoprolol tiêm TM 5 mg sau
đó tăng dần liều theo đáp ứng sau 5-10 phút. Có thể dùng gối bằng viên
Metoprolol liều thấp 25-50 mg mỗi 12 giờ.
Các thuốc chẹn kênh canxi
Các thuốc này làm giãn mạch, chậm nhịp tim, giảm sức co bóp cơ tim. Nếu
dùng đơn độc trong ĐTNKÔĐ có thể làm tăng nguy cơ NMCT hoặc tử vong.
Chỉ nên dùng thuốc chẹn kênh calci trong trường hợp có THA nhiều
và/hoặc khi chức năng thất trái bệnh nhân còn tốt, nhịp không chậm và có yếu tố
co thắt mà ít đáp ứng với Nitrates hoặc không thể dùng được thuốc chẹn bêta giao
cảm.
Các thuốc ức chế men chuyển
Không phải thuốc thường quy trong điều trị ĐTNKÔĐ.
Nên dùng khi có kèm theo giảm chức năng thất trái mà huyết áp còn tốt.

Vấn đề dùng các thuốc tiêu huyết khối
Cho đến nay đã thống nhất là KHÔNG dùng thuốc tiêu huyết khối cho
bệnh nhân ĐTNKÔĐ vì không những không cải thiện được tiên lượng mà còn
gia tăng tỷ lệ NMCT và tử vong (nghiên cứu TIMI-IIIb).
Cơ chế có thể là vì trong ĐTNKÔĐ chưa tắc hoàn toàn ĐMV nên thuốc
tiêu huyết khối này không làm cải thiện thêm dòng chảy mà nó lại có thể làm tan
cục máu đông đã bao lấy chỗ vỡ của mảng xơ vữa, làm lộ ra lại lớp dưới nội mạc
này gây hoạt hoá ngưng kết tiểu cầu trở lại.

×