Lời nói đầu
Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật của cả nớc. Hà Nội có
di tích lịch sử hình thành và phát triển gần 1000 năm. Hà Nội là nơi qui tụ nhiều di
tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng và là đầu mối giao thông nối với các tỉnh, các n-
ớc trong khu vực và toàn cầu. Với những lợi thế tự nhiên Hà Nội đã thực sự là trung
tâm thu hút nhiều du khách trong nớc và quốc tế từ nhiều thế hệ. Những năm gần
đây, du lịch Hà Nội đã có sự tăng trởng đều đặn. Tuy nhiên sự phát triển của du lịch
Hà Nội cha tơng xứng với tiềm năng hiện có. Nhiều vấn đề đặt ra với ngành du lịch
thủ đô nh sau:
Nhận thức về du lịch cha thực sự đồng bộ giữa các cấp, các ngành.
Các chuyến tham quan Hà Nội và các vùng phụ cận còn đơn điệu, không mang
rõ bản sắc, chất lợng phục vụ thấp, giá cả không tơng xứng với chất lợng gần nh
là đặc điểm cố hữu của sản phẩm du lịch Hà Nội.
Các tài nguyên cha đợc nâng cấp, trùng tu cho phù hợp yêu cầu thu hút khách du
lịch.
Hệ thống đờng xá đến các điểm du lịch còn rất bất cập, các hệ thống dịch dịch
vụ ở các điểm du lịch còn thô sơ...
Để đạt đợc những mục tiêu trên chúng ta phải kết hợp hài hoà các yếu tố hợp tác
quốc tế để gắn liền với thị trờng quốc tế và thị trờng trong nớc nhằm hỗ trợ lẫn nhau
để phát triển một cách hài hoà. Trong sự nghiệp đó, ngành du lịch đóng vai trò là
một ngành kinh tế tổng hợp.
Xuất phát từ đó, chuyên đề này đợc viết nhằm nêu lên thực trạng ngành kinh
doanh du lịch Hà Nội để từ đó thấy đợc những mặt còn tồn tại, đề xuất ý kiến với hy
vọng nhằm đóng góp một phần cho sự phát triển du lịch Hà Nội. Với phơng pháp
nghiên cứu chuyên đề là dựa trên cơ sở phân tích về lý luận, kiểm soát thực trạng để
tìm ra những tồn tại và đề xuất ý kiến thì bản chuyên đề này ngoài lời nói đầu và kết
luận gồm có hai phần chính:
1
Phần thứ nhất: Đánh gía thực trạng ngành kinh doanh du lịch Hà Nội
Phần thứ hai: Những giải pháp phát triển du lịch Hà Nội giai đoạn từ nay đến
năm 2010
2
Phần thứ nhất
Đánh giá thực trạng ngành kinh doanh du lịch Hà Nội
Sự hình thành và phát triển của du lịch Hà Nội gắn liền với sự phát triển của
ngành du lịch Việt Nam từ những năm đầu của thập kỷ 60. Trải qua các thời kỳ, nội
dung hoạt động của mỗi thời kỳ có sự khác nhau.
Trong thời kỳ 1960 - 1975 các cơ sở hoạt động du lịch chủ yếu phục vụ các đoàn
khách của Đảng và Nhà nớc, các nhà ngoại giao, các chuyên gia, thuỷ thủ... của các
nớc. Sau năm 1975 mới bớc đầu tiếp cận với việc tổ chức hoạt động kinh doanh du
lịch, nhng vẫn nằm trong khuôn khổ của mô hình và cơ chế hoá tập trung quan liêu,
bao cấp. Từ năm 1986 hoạt động kinh doanh du lịch gắn với thời kỳ chuyển đổi mô
hình và cơ chế kinh tế theo hớng xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Mặc dù vậy hoạt động
kinh doanh du lịch chỉ thực sự trở nên sôi động từ năm 1990, gắn liền với chính
sách đa dạng hoá và đa phơng hoá trong quan hệ quốc tế và kết quả của mời
năm đổi mới nền kinh tế nói chung và Hà Nội nói riêng. Dới đây sẽ đánh giá thực
trạng kinh tế du lịch Hà Nội:
I. Về thị trờng khách du lịch
1. Khách du lịch quốc tế
Trong những năm qua, cùng với những đà phát triển khách du lịch của cả nớc, số
lợng khách quốc tế đến Hà Nội tăng nhanh.
Năm 1992: 200.000 lợt khách quốc tế đến Hà Nội
Năm 1995: 358.000 lợt khách quốc tế đến Hà Nội
Năm 1996: 352.000 lợt khách quốc tế đến Hà Nội
Năm 1997: 391.000 lợt khách quốc tế đến Hà Nội
Năm 1998: 351.896 lợt khách quốc tế đến Hà Nội
3
Năm 1999: 1.433.000 lợt khách quốc tế đến Hà Nội
Năm 2000: 2.600.000 lợt khách quốc tế đến Hà Nội
Theo số liệu báo cáo của Sở Du lịch Hà Nội, 6 tháng đầu năm 2001 đã có 301.729 l-
ợt khách du lịch quốc tế của 155 nớc đến Hà Nội. Nếu so với cùng kỳ năm 2000
tăng 55,5%. Xét về mục địch, có 283.122 ngời đến Hà Nội với mục đích du lịch,
chiếm tỷ lệ 80,7%. Khách thơng mại và đầu t chỉ chiếm 12,8%. Cơ cấu khách du
lịch quốc tế: Khách du lịch Trung Quốc chiếm tỷ trọng 32,95%; khách Pháp chiếm
tỷ trọng 14,3%; Nhật Bản chiếm tỷ trọng 9,8%; Mỹ chiếm tỷ trọng 6,7%; Australia,
Anh, Đài Loan, Đức, Đan Mạch, Canađa chiếm tỷ trọng 1,6 - 5%. Chỉ tính 10 nớc
nói trên đã chiếm tỷ trọng 83% tổng lợng khách đến Hà Nội. Về khả năng chi tiêu
của khách du lịch đến Hà Nội cha nhiều.
2. Khách du lịch nội địa
Trong những năm gần đây do kết quả đổi mới kinh tế ổn định, điêù kiện đi lại
thuận lợi, đời sống vật chất và tinh thần của dân c đợc cải thiện và từng bớc đợc
nâng cao. Đến Hà Nội du lịch là nguyện vọng, ớc mơ của ngời Việt Nam, ít nhất
một lần trong đời họ đợc đến Hà Nội. Kết quả theo dõi khách du lịch nội địa hàng
năm cho thấy du lịch nội địa ngày càng cao.
Năm 1993 có 150.000 khách đến Thủ Đô
Năm 1994 có 250.000 lợt khách đến Thủ Đô
Năm 1995 có 311.000 lợt khách đến Thủ Đô
Năm 1996 có 700.000 lợt khách đến Thủ Đô
Năm 1997 có 900.000 lợt khách đến Thủ Đô
Số lợng khách nội địa đến Hà Nội trong giai đoạn từ năm 1996 - 2000 đã tăng từ
700.000 đến hơn 2.000.000 triệu lợt khách. Khách du lịch đến Hà Nội ngoài mục
đích công vụ còn phần lớn là đi tham quan, thăm ngời thân kết hợp tham quan. Xu
thế sử dụng các dịch vụ du lịch ngày càng tăng lên. Số ngày lu trú trên dới hai ngày
vì không phải tất cả khách đều sử dụng dịch vụ lu trú, mà một phần thờng ăn nghỉ
nhà ngời thân. Khách đến Hà Nội thờng tham gia các hình thức du lịch nh: dự lễ
4
hội, du lịch tham quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, du lịch công vụ
của cán bộ Nhà nớc và các doanh nghiệp cho mỗi khách mỗi ngày có tăng lên so
với trớc.
3. Đánh giía chung về thị trờng khách du lịch
Theo đà phát triển chung, du lịch Hà Nội có tốc độ tăng trởng nhanh qua các
năm (cả khách quốc tế và khách nội địa). Thị trờng khách du lịch quốc tế có sự biến
đổi cơ bản, khách du lịch ngời Việt Nam ở nớc ngoài và khách du lịch trong nớc
cũng rất đa dạng về mục đích và cơ cấu. Những thành tựu đó bắt nguồn từ nguyên
nhân sâu xa ở kết quả của 10 năm đổi mới kinh tế, xã hội, chính sách Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nớc mà ngành kinh doanh du lịch đã khai thác thông
qua hoạt động nỗ lực chủ quan.
Tuy nhiên dơí góc nhìn của thị trờng, một số vấn đề sau cần lu ý: Thời gian lu trú,
khả năng chi tiêu của khách du lịch còn thấp (nhất là khách du lịch nớc ngoài. Có
nhiều nguyên nhân, nhng có một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: một số điểm du
lịch ở các địa phơng khác đợc hình thành gắn liền với điều kiện và phơng tiện đi lại
gần đây đợc cải thiện, tạo thuận lợi cho du khách đợc tham quan nhiều nơi. Các cơ
sở kinh doanh du lịch và các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ cha tạo đợc
nhiều những sản phẩm đặc sắc có chất lợng và phù hợp với đối tợng du khách
(khách du lịch Trung Quốc và các nớc Châu á khác đến Việt Nam nói chung và Hà
Nội nói riêng thờng phàn nàn rằng không biết mua đặc sản gì cho ngời thân và
bạn bè để kỷ niệm cho chuyến đi du lịch ở Hà Nội - Việt Nam của mình). Cha có
các trung tâm vui chơi giải trí tổng hợp, các dịch vụ bổ sung khác còn nghèo nàn và
các tour du lịch hấp dẫn cha đợc tổ chức rộng rãi.
II. Hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch
1. Tình hình các cơ sở lu trú, ăn uống
1.1 - Các cơ sở lu trú
Tính ra trên địa bàn Hà Nội năm 1996 đã có trên dới 200 khách sạn, số phòng
đạt tiêu chuẩn quốc tế vào khoảng 400 phòng. Công suất sử dụng phòng của các
5
khách sạn thời kỳ này là khá cao từ 65 - 75%, kèm theo đó là giá thuê phòng cũng
rất đắt đã làm cho lợi nhuận trong việc kinh doanh khách sạn nhanh chóng đạt đén
mức khó ai có thể tởng tợng ra đợc. Các khách sạn mọc nên nh nấm làm cung vợt
qúa cầu, nên trong những năm 1996 - 1997 tình hình hoạt động khách sạn bị chững
lại mặc dù lợng khách du lịch trong và ngoài nớc đến Hà Nội đến Hà Nội vẫn tăng
hơn so với năm 1995, các khách sạn rơi vào công suất sử dụng phòng không cao.
Năm 1998, ngành du lịch Việt Nam đã nộp cho ngân sách 1134 tỷ đồng tăng 8%
so với năm 1997, riêng ngành khách sạn nộp cho ngân sách là 153 tỷ tăng 7%. Để
đạt đợc điều đó các khách sạn đã phải lao vào một cuộc cạnh tranh quyết liệt để tồn
tại. Một trong những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh đó là việc giảm giá
phòng xuống thấp một cách đáng kể dẫn đến nguồn thu từ buồng phòng giảm
xuống khoảng 12% so với năm 1997.
Đứng trớc tình trạng đó Tổng cục Du Lịch, Sở Du Lịch Hà Nội đã đề ra những
giải pháp cấp bách để phát triển ngành du lịch thủ đô nh: đề ra và triển khai chơng
trình hành động quốc gia về du lịch, tổ chức nhiều hoạt động lễ hội truyền thống,
mở rộng các tour tạo ra nhiêù điểm vui chơi tham quan cho khách du lịch, tạo hành
lang pháp lý cho hoạt động du lịch.... Cùng với những xúc tiến du lịch nêu trên và
sự phục hồi từng bớc của nền kinh tế sau khủng hoảng, ngành kinh doanh khách
sạn đã vợt qua khó khăn và từng bớc có những chuyển biến đáng phấn khởi.
Năm 2000, tổng số các khách sạn trên địa bàn Hà Nội là 310 khách sạn gồm
9372 phòng. Trong đó:
-76 khách sạn quốc doanh với 3100 phòng
-17 khách sạn liên doanh với 3154 phòng
-1 khách sạn liên doanh trong nớc với 44 phòng
-202 khách sạn ngoài quốc doanh với 2644 phòng
-8 khách sạn cổ phần với 91 phòng
-6 khách sạn của các chi nhánh với 139 phòng
Đã có 69 khách sạn đợc xếp hạng:
6
-6 khách sạn 5 sao
-4 khách sạn 4 sao
-18 khách sạn 3 sao
-31 khách sạn 2 sao
-10 khách sạn 1 sao
Tổng doanh thu ngành kinh doanh khách sạn Hà Nội đạt 630 tỷ đồng tăng
14,13% so với năm 1999. Đóng góp vào doanh thu toàn ngành du lịch Hà Nội
15,75%. Công suất phòng ở các khách sạn quốc doanh đạt từ 60 - 70%, ở các khách
sạn liên doanh đạt khoảng hơn 50%. Đặc biệt vào dịp lễ hội 990 năm Thăng Long -
Hà Nội, có khách sạn có mức sử dụng lên tới 100%.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng bên cạnh những tiến bộ vẫn còn những hạn chế
nh:
a. Việc phát triển một số cơ sở lu trú còn tự phát, không theo quy hoạch đã dẫn đến
hàng loạt nhà nghỉ, nhà khách, khách sạn mini, t nhân ra đời mà xét về mặt lâu
dài sẽ là một tồn tại khó khắc phục và điều này có liên quan đến công suất sử
dụng phòng lu trú đạt thấp.
b. Mặc dù nhiều khách sạn đợc nâng cấp về tiện nghi tơng đối hiện đại nhng hệ
thống dịch vụ bổ sung còn nghèo nàn, đơn điệu, các dịch vụ vui chơi giải trí cha
đợc quan tâm đúng mức, cha đáp ứng đợc nhu cầu của khách.
1.2 - Các cơ sở ăn uống
Đáp ứng nhu cầu ăn uống tốt cho khách du lịch là một nhiệm vụ tối cần thiết của
hoạt động du lịch. Cùng với sự gia tăng du khách và cơ sở lu trú, hệ thống các cơ sở
ăn uống trên địa bàn Hà Nội cũng tăng nhanh chóng. Hầu hết các khách sạn, nhà
nghỉ đều có các phòng ăn ( Restaurant ), quầy Bar phục vụ cả khách lu trú tại khách
sạn và cả khách bên ngoài. Trong các cơ sở này, du khách đợc thởng thức đầy đủ
các món ăn dân tộc ( Âu, á,..) do những đầu bếp lành nghề, với chất lợng tốt, đợc
đảm bảo vệ sinh thực phẩm, vừa ăn uống vừa có thể thởng thức các làn điệu dân ca
7
đậm đà bản sắc dân tộc. Song song với các món ăn, đồ uống cũng rất phong phú và
đa dạng có đầy đủ các loại rợu, bia nổi tiếng thế giới với giá cả thờng cao hơn từ 2 -
3 lần so với ở nơi khác. Tất nhiên, nó chỉ phù hợp với đối tợng du khách có thu
nhập cao hoặc khách đi du lịch theo Tour trọn gói. Bên cạnh các cơ sở ăn uống
trong khách sạn, còn có các cơ sở ăn uống ngoài khách sạn, đợc đầu t xây dựng
trong hầu hết các thành phần kinh tế. Chủng loại đồ ăn, thức uống ở đây cũng rất
phong phú và đa dạng với giá cả thích hợp với nhiều loại du khách khác nhau, kể cả
nhân dân ở địa phơng. So với các cơ sở lu trú việc tổ chức kinh doanh ăn uống có
phần đơn giản hơn, song việc kinh doanh ăn uống vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm
và đồ ăn là đặc biệt quan trọng.Mặc dù vậy, cho đến nay chỉ có một vài khách sạn
lớn mới có bộ phận y tế kiểm tra vệ sinh thực phẩm - đồ uống. Còn hầu hết các cơ
sở ăn uống khác vấn đề này còn bị bỏ ngỏ. Nhiều trờng hợp không đảm bảo vệ sinh
ảnh hởng đến sức khoẻ của du khách cần đợc quan tâm trong thời gian tới.
2. Tình hình vận chuyển khách du lịch
Vận chuyển khách du lịch là nhu cầu đi lại bằng nhiều phơng tiện khác nhau của
khách du lịch từ nơi c trú đến các địa điểm du lịch, từ địa điểm du lịch này đến địa
điểm du lịch khác hoặc trong nội bộ khu du lịch.
Cùng với sự nghiệp đổi mới nền kinh tế, dịch vụ vận chuyển khách du lịch nói
chung và Hà Nội nói riêng có những chuyển biến tích cực:
- Ngành hàng không trong thời gian ngắn đã thay đổi hàng loạt máy bay hiện đại, đ-
ờng băng, nhà ga đợc cải tạo nâng cấp và xây dựng mới, chất lợng đội bay và đội
ngũ tiếp viên hàng không đợc nâng cao. Các chuyến bay trên các tuyến quốc tế và
nội địa đợc mở rộng, thông suốt và an toàn thông qua các sân bay: Nội Bài, Tân Sơn
Nhất, Đà Nẵng, Phú Bài, Nha Trang, Điện Biên, Nà Sản...
- Ngành đờng sắt cùng với những đổi mới đáng kể. Chất lợng các đoàn tàu và chất
lợng phục vụ có nâng cao. Thời gian chạy tàu cho mỗi chuyến đã nhiều lần rút ngắn
lại, đã nối lại tuyến đờng sắt quốc tế Việt - Trung...Nhờ đó, đã tạo ra các chuyến du
lịch cho cả khách quốc tế và nội địa thuận tiện, thú vị và hấp dẫn.
8
- Dịch vụ vận chuyển đờng bộ cũng phát triển khá nhanh cả về số lợng lẫn chất l-
ợng. Hầu hết các công ty vận chuyển khách du lịch trên địa bàn Hà Nội đã đầu t đổi
mới các loại xe, nhiều chủng loại phơng tiện (ô tô, taxi, xe máy, xích lô...) sẵn sàng
phục vụ du khách trong và ngoài nớc thuận tiện, kịp thời với chất lợng tốt và giá cả
hợp lý.
Tuy nhiên, việc tổ chức sắp xếp lại các lực lợng dịch vụ vận chuyển cũng cần đặt
ra sao cho hợp lý và văn minh hơn. Việc đổi mới nâng cao chất lợng phơng tiện và
tính hấp dẫn khách du lịch của tuyến đờng sông còn cha cao cần đợc quan tâm
trong thời gian tới.
3. Hiện trạng các cơ sở vui chơi
Vui chơi giải trí là một nhu cầu không thể thiếu đợc của du khách để sử dụng
quỹ thời gian còn lại trong ngày và nhằm tăng cờng sức khoẻ sau những ngày lao
động. Bởi vậy, nếu dịch vụ này đợc phát triển cả về số lợng cơ cấu và chất lợng có
tác dụng tăng cờng thời gian lu trú, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
có và tăng doanh thu. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rất rõ điều đó.
Cho đến nay trên địa bàn Hà Nội thiêú trầm trọng nơi vui chơi giải trí cho khách
du lịch trong và ngoài nớc. Một số cơ sở du lịch, các hình thức vui chơi còn đơn
điệu với quy mô không lớn. Các vũ trờng có phát triển nhng giá cả còn cao chỉ
thích hợp cho lớp trẻ, cha quần chúng...Có thể nói, việc đầu t xây dựng các khu vui
chơi giải trí tổng hợp đang là một đòi hỏi cấp bách trong thời gian tới không thể
thiếu vắng trong chơng trình nghị sự của thành phố và ngành du lịch.
III. Tình hình lao động trong kinh doanh lao động du lịch
Do tính đặc thù của ngành du lịch, nên chất lợng lao động đòi hỏi ngời lao động
về độ tuổi, giới tính và trình độ nghiệp vụ nhất định. Hiện nay trong ngành du lịch
Hà Nội về nữ có độ tuổi trung bình từ 20 - 30 tuổi chiếm số đông trong các cơ sở du
lịch. Nam giới thờng chiếm tỷ lệ thấp hơn so với số lợng nữ và có độ tuổi cao hơn,
9
trình độ học vấn của họ thờng cao hơn so với nữ. Do du lịch mang tính thời vụ nên
việc tuyển dụng, sử dụng và trả công lao động không thể không ký hợp đồng theo
thời vụ, theo tháng và theo ngày. Đây là một mâu thuẫn, mà mâu thuẫn này dẫn đến
hệ quả là trình độ chuyên môn của lao động hợp đồng thời vụ không cao, ảnh hởng
đến chất lợng dịch vụ cần đợc tính đến. Nhìn chung chất lợng lao động du lịch Hà
Nội đợc đào tạo cơ bản, có khả năng nghiệp vụ và ngoại ngữ, thông minh nhanh
nhẹn nắm bắt nhanh công nghệ tiên tiến của nớc ngoài và đợc đánh giá cao. Phần
lớn nguồn nhân lực du lịch đợc đào tạo bao gồm cả 3 cấp: Đại học, Trung học và
Dạy nghề thuộc các trờng ở Hà Nội.
IV. Hiện trạng về tổ chức quản lý
Hoạt động du lịch Hà Nội trớc đây, việc quản lý nó do Sở Kinh Tế Đối Ngoại
đảm nhiệm. Đến ngày21/6/1994 Sở Du Lịch hình thành và đảm nhận chức năng
quản lý này cho đến nay.
Mặc dù mới thành lập, nhng Sở Du Lịch đã nghiên cứu đề xuất với Uỷ ban nhân
dân thành phố nhiều việc có liên quan đến sự phát triển du lịch trên địa bàn. Bớc
đầu đã thực hiện tốt việc chuyển các nhà khách, nhà nghỉ của các Bộ, các cơ quan,
các ngành sang kinh doanh dịch vụ; quản lý vĩ mô đợc các doanh nghiệp dịch vụ du
lịch nhất là dịch vụ lu trú và dịch vụ lữ hành.
Trong hoạt động kinh doanh du lịch xét về chiều hớng tích cực cho thấy:
- Có sự tăng nhanh về nguồn khách, về thị trờng, về cơ hội đầu t để tăng cờng cơ sở
vật chất kỹ thuật theo hớng hiện đại.
- Sự ra đời nhiều tổ chức kinh doanh du lịch khách sạn, nhà hàng với nhiêù quy mô
và trình độ khác nhau của nhiêù chủ sở hữu khác nhau.
- Sự quản lý của Nhà nớc về du lịch đã đợc tăng cờng trong sự thống nhất quản lý
về một mối - Đó là Sở Du Lịch.
Tuy nhiên, cũng còn một số hạn chế:
10
- Việc phối hợp cha có hiệu quả giữa Sở Du Lịch với chính quyền nơi có tài sản du
lịch đối với việc bảo vệ môi trờng, cảnh quan di tích, cũng nh việc cải tạo nâng cấp
và xây dựng mỗi cơ sở phục vụ du lịch.
- Cơ chế quản lý chậm đợc cải tiến môi trờng pháp lý, chính sách lãi xuất còn cao
cha thực sự u đãi, nhất là vốn trung hạn và dài hạn.
- Việc thực hiện chủ trơng cổ phần hoá còn chậm cộng với nguồn vốn đầu t vào lĩnh
vực du lịch thuộc sở hữu Nhà nớc Trung ơng tuy có tăng nhng không đồng bộ, nên
thiếu vốn, thờng vốn chỉ đủ đáp ứng các yêu cầu nâng cấp các cơ sở lu trú hiện có
hoặc xây dựng thêm và giải quyết những khó khăn và trì trệ trong khai thác kinh
doanh, cha có điều kiện để xây dựng các khu vui chơi, giải trí lớn đồng bộ.
- Sự xuất hiện một số nhà hàng, khách sạn không theo quy hoạch, sự phát triển
nhanh và hiện đại của liên doanh đã làm cho các doanh nghiệp du lịch Nhà nớc có
nguy cơ không đứng vững trong cạnh tranh, làm suy yếu chỗ dựa trong quản lý vĩ
mô của Nhà nớc.
- Nguyên tắc quản lý Nhà nớc bằng pháp luật đối với kinh doanh du lịch lữ hành ở
Hà Nội cha đợc nhận thức đầy đủ và thực thi triệt để. Tình trạng không đợc phép
kinh doanh lữ hành nhng vẫn ngang nhiên kinh doanh hoặc đăng ký kinh doanh lữ
hành nhng lại không kinh doanh, sự thay đổi địa chỉ của các doanh nghiệp lữ hành
không có báo cáo cho cơ quan quản lý. Đến tháng 5/2000 có 60 doanh nghiệp là
công ty trách nhiệm hữu hạn và chi nhánh của các công ty kinh doanh du lịch lữ
hành trên địa bàn Hà Nội không đúng địa chỉ nh đã đăng ký kinh doanh lữ hành với
sở du lịch. Vì vậy kinh doanh du lịch lữ hành ở Hà Nội trở nên rất sôi động nhng
tạo ra sự hỗn loạn, kém hiệu quả cả về kinh tế và xã hội.
- Mối quan hệ giữa các nhà cung cấp sản phẩm du lịch Hà Nội và các nhà sản xuất
khác với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành ở Hà Nội lỏng lẻo thiếu sự
ràng buộc, gắn bó.
11