Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Họ Xương rồng Họ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.54 KB, 19 trang )


Họ Xương rồng
Họ Xương rồng

Xương rồng Saguaro ở sa mạc
Sonoran, Mexico
Phân loại khoa học
Giới (regnum):

Plantae
(không phân
hạng):
Angiospermae

(không phân
hạng)
Eudicots
Bộ (ordo): Caryophyllales

Họ (familia):
Cactaceae
Juss.

Phân họ
 Cactoideae
 Maihuenioideae
 Opuntioideae
 Pereskioideae
Xem thêm trong bài.
Họ Xương rồng (danh pháp
khoa học: Cactaceae) thường là


các loài cây mọng nước hai lá
mầm và có hoa. Họ Cactaceae có
từ 24 đến 220 chi, tùy theo nguồn
(90 chi phổ biến nhất), trong đó
có từ 1.500 đến 1.800 loài.
Những cây xương rồng được biết
đến như là có nguồn gốc từ châu
Mỹ, nhất là ở những vùng sa
mạc. Cũng có một số loại biểu
sinh trong rừng nhiệt đới, những
loại đó mọc trên những cành cây,
vì ở đó mưa rơi xuống đất nhanh,
cho nên ở đó thường xuyên bị
khô.Cây xương rồng có gai và
thân để chứa nước dự trữ.
Xương rồng gần như là loại thực
vật của Tân thế giới, ngoại trừ
duy nhất là Rhipsalis baccifera,
sinh trưởng chủ yếu ở vùng nhiệt
đới của Cựu thế giới, chủ yếu ở
vùng nhiệt đới châu
Phi, Madagascar và Sri
Lanka cũng như ở vùng nhiệt đới
châu Mỹ. Loài này được cho là
mới định cư gần đây ở Cựu thế
giới (trong vài nghìn năm gần
đây), có thể là do các
loài chim di cư mang theo dưới
dạng hạt không tiêu hóa được.
Nhiều loài xương rồng khác đã

thích hợp với môi trường sống
mới trên các phần khác nhau của
thế giới do sự đem theo của con
người.


Đủ loại xương rồng trồng trong
chậu hoa
Mục lục

1 Mô tả

2 Chăm sóc

3 Loài cây quen thuộc có
chung họ xương rồng

4 Công dụng

5 Nguồn gốc tên gọi


Mô tả


Hình hoa xương rồng chụp cận
cảnh (Echinopsis spachiana) cho
thấy hoa này có rất nhiều nhị
Xương rồng là một loài thực vật
mọng nước, có nhiều dạng phát

triển: thành cây lớn, thành bụi
hoặc phủ sát mặt đất. Đa số các
loài xương rồng đều mọc và phát
triển từ đất, nhưng cũng có rất
nhiều loài kí sinh trên các loài
cây khác để phát triển. Phần lớn
xương rồng, trừ
nhánh Pereskioideae phân loại
dưới-họ (xem ảnh bên), có lá tiêu
biến rất đáng kể. Cánh hoa phân
bố đồng đều và đồng tâm, hoa đa
phần là lưỡng tính, nở vào cả
sáng và tối tuỳ theo loài. Hình
dạng thay đổi từ dạng-phễu qua
dạng-chuông và tới dạng-tròn-
phẳng, kích thước trong khoảng
từ 0,2 đến 15-30cm. Phần lớn có
đài hoa (từ 5-50 cái hoặc hơn),
thay đổi dạng từ ngoài vào trong,
từ lá bắc
[1]
đến cánh hoa. Số
lượng nhị rất lớn, từ 50 đến
1.500 (hiếm khi ít hơn). Gần như
tất cả các loài xương rồng có vị
đắng, thi thoảng bên trong còn có
nhựa đục. Một trái xương rồng
chứa khoảng 3.000 hạt, mỗi hạt
dài 0,4-12mm.
[2]




Hoa xương rồng ở Vườn thực
vật Bay Area
Trung bình, một cây xương rồng
sống rất lâu, tới hơn 300 năm, và
cũng có loài chỉ sống 25 năm
( ??). Loài xương
rồng Saguaro (Carnegiea
gigantea) có thể cao tới 15m (kỉ
lục đo được là 17m67, trong khi
đó 10 năm đầu nó chỉ cao 10cm.
Cây xương rồng "Gối bông của
mẹ chồng" ("mother-in-law's
cushion",Echinocactus grusonii)
nhỏ nhất ở quần đảo Canaria cao
2m50 và đường kính là 1m, cho
bông mỗi 6 năm. Đường kính
hoa xương rồng khoảng 5-
30cm:orng6The diameter of
cactus flowers ranges from 5 to
30 cm; màu sắc rất sặc sỡ, lộng
lẫy.
Chăm sóc
Hầu như người chơi xương rồng
kiểng trong nhà không được
hướng dẫn kĩ thuật chăm sóc sau
khi mua, dẫn tới tuổi thọ xương
rồng không cao. Đối với những

chậu xương rồng kiểng trồng nơi
râm, hoặc trang trí trong nhà,
chúng ta không được phép tưới
nước cho cây. Đối với những cây
xương rồng trồng bên ngoài thì
phải tưới nước cho cây khoảng
một lần mỗi tuần. Muốn cây mau
lớn thì phải đảm bảo vị trí đặt
cây xương rồng sao cho có nhiều
nắng, trung bình một ngày xương
rồng phải sưởi sáu tiếng đồng hồ.
Thi thoảng nên tưới xương rồng,
đừng tưới quá thường xuyên vì
có thể gây ra tình trạng úng rễ
Và mỗi khi tưới, chúng ta nên
dùng nước âm ấm; đừng dùng
nước lạnh khiến rễ cây khó hấp
thụ, đôi khi còn bị sốc nhiệt. Để
kiểm tra xem cây có đang thiếu
nước không, chúng ta dùng một
que tùng bách California đỏ cắm
vào đất, nếu nó có phần sậm màu
hơn màu của cả que thì đất vẫn
ẩm.
Loài cây quen thuộc có chung họ
xương rồng


Hoa xương rồng
 Quỳnh trắng (Epiphyllum

oxypetallum): Đây là loại hoa
cảnh rất được nhiều người yêu
chuộng vì đặc tính hoa đẹp chỉ
nở một lần vào giữa đêm và có
một sự tích giải thích về loài
hoa này.
 Thanh long (Hylocereus
undatus)[1]: Đây là một loại
cây ăn trái. Trái có mùi vị đặc
trưng, hơi chua, ngọt. Vỏ trái
màu từ đỏ hồng đến đỏ tía.
Nhiều người Việt ưa chuộng
loại trái này không chỉ để ăn mà
còn để chưng trên các bàn thờ
rất đẹp và trang trọng.
Công dụng


Xương rồng lê gai cho trái


Biểu tượng cảnh quan khô cằn


Ferocactus pilosus phía nam
Saltillo, Coahuila, đông bắc
Mexico
Con người trồng xương rồng ở
khắp nơi trên thế giới, nhắc đến
nó ai cũng liên tưởng với một

loài cây trồng chậu, một loại cây
cảnh quen thuộc trong nhà hay
trong những vườn kiểng có khí
hậu nhiệt đới. Nó còn hình thành
cảnh quan khô cằn trong những
hoang mạc, hay làm nên những
hòn non bộ. Ở nhiều quốc gia,
đặc biệt làAustralia, lượng nước
sử dụng rất thiếu thốn, nên loài
thực vật chịu-hạn chiếm ưu thế.
Số lượng loài phát triển nhanh
chóng, như các
loài: Echinopsis, Mammillaria và
Cereus, bên cạnh các loài khác.
Nhêều loài còn đóng vai trò chủ
yếu như: xương rồng Gối bông
của mẹ chồng (mother-in-law's
coushion en:Echinocactus
grusonii), xương rồng Golden
Barrel dekha.
Người ta thường trồng xương
rồng thành hàng rào, ở những
vùng sâu vùng xa thiếu điều kiện
kinh tế hoặc thiếu thốn nguồn
nguyên liệu tự nhiên. Như khu
bảo tồn Masai Mara, Kenya là
một ví dụ. Xương rồng được
dùng trang trí, tạo cảnh quan
thiên nhiên cho ngôi nhà và
chống trộm, nhiều mục đích khác

nữa. Gai nhọn của xương rồng
gây đau buốt cho kẻ trộm, khiến
chúng phải thoái lui và bỏ ý định
ban đầu của mình. Tuỳ loại, mà
sự kết hợp hình dạng xương rồng
và hình dạng hàng rào sao cho
thẩm mỹ nhất.
[3]

Như các loại cây trồng khác,
xương rồng cũng được sử dụng
với mục đích thương mại, nhiều
cây cho trái ăn được như giống:
xương rồng lê gai (Prickly
Pear en:opuntia), thanh
long. en:Opuntia còn là giống
cây dụ loài rệp son (hay con gọi
làbọ diệp chi, dùng cho công
nghiệp nhuộm ở Trung Mỹ).
Loài en:Peyote, Lophophora
williamsii, được biết đến như
một vị thuốc an thần
(psychoactive ??) của thổ
dân châu Mỹ. Nhiều loài
của chi Echinopsis (trước đây
là Trichocereus) có đặc tính an
thần. Như loài xương rồng San
Pedro, mẫu vật có thể tìm dễ
dàng trong các vườn ươm, có
chứa hoạt chất mescaline.

Nguồn gốc tên gọi


Xương rồng lê gai (Prickly
Pear,en:Opuntia) là một trong
những loài xương rồng phổ biến
nhất Bắc Mỹ.
Trong tiếng Anh,
từ cactus (xương rồng) bắt nguồn
từ tiếng Hy Lạp cổ
Κακτος kaktos, dùng để chỉ
những loài cây kế
[4]
có gai ở đây,
đặc biệt là cây kế a-ti-sô, và sau
đó được dùng để gọi chung cho
loài có gai này (do Carolus
Linnaeus khám phá năm 1753,
nay thuộc họ Mammillaria). Số
nhiều của dạng từ "cactus" đang
gây tranh cãi: "cactoi" hay
"cactuses". Có người cho rằng từ
này du nhập từ tiếng Hy Lạp cổ
thì phải dùng luôn số nhiều của
nó (trong tiếng Hy Lạp); tuy
nhiên, từ này thoả quy tắc thành
lập số nhiều trong từ vựng tiếng
Latin, một loại ngôn ngữ có ảnh
hưởng rất lớn đến việc hình
thànhtiếng Anh, nên chuyển sang

là "cacti". Bất chấp các tranh cãi
trên, từ "cactus" được sử dụng
nhiều hơn các nghĩa số ít và số
nhiều của nó, đại diện cho cả hai
theo từ điển Random House
Unabridged Dictionary (2006).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×