MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO - THỰC HIỆN CÓ NỀ NẾP, CÁCH
DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP HOẠT ĐỘNG NHÓM, NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TOÀN DIỆN Ở BẬC THCS TRÊN ĐỊA
BÀN CÓ HỌC SINH PHẦN LỚN LÀ NÔNG THÔN
A – Đặt vấn đề:
Trong hơn bốn mươi năm qua, trước sự phát triển như vũ bảo của khoa học,
giáo dục nước nhà đã có nhiều cố gắng trong việc tự hoàn thiện mình bằng những
giải pháp như tiến hành cải cách giáo dục (GD), đổi mới chương trình GD phổ
thông nhằm dủ sức đáp ứng nhiệm vụ nhân dân giao phó: trồng người đáp ứng
giai đoạn cách mạng mới.
Trong thời gian qua, dẫu có nhiều nổ lực như thế, nhung nhìn chung giáo
dục của ta vẫn chưa ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng mới: đào tạo con người
toàn diện phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH của đất nước. Hay nói cách khác GD-
ĐT phải bằng mọi cách đáp ứng mục tiêu mà Đảng ta đề ra: nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Tuy vậy, chất lượng GD hiện nay nói chung là thấp, chưa đáp ứng được
mục tiêu mà Đảng ta đã chỉ ra. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng không được như
mong muốn như thế có nhiều. Song vấn đề mấu chốt hiện nay vẫn là Phương
pháp dạy học.
Chính vì lẽ đó, cho nên NQ TW 4 (khoá VII) đã xác định “Khuyến khích
tự học”, phải “Áp dụng những phương pháp hiện đại để bồi dưỡng cho học
sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề” và điều đó lại được
NQ TW 2 (khoá VIII) tiếp tục khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh”.
Từ sự lãnh đạo - định hướng đổi mới giáo dục PT của Đảng (NQ TW 4 và
NQ TW 2) đã được Quốc Hội pháp chế hóa trong luật giáo dục “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Qua sự chỉ đạo ấy, rõ ràng cho ta thấy được việc đổi mới phương pháp tự
học là khâu đột phá của quá trình dạy học đạt mục tiêu: đào tạo con người toàn
diện phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH của đất nước. Mặt khác, cho thấy việc đổi
mới phương pháp dạy học không còn là vấn đề chung chung mà đã có định hướng
rõ ràng; cụ thể phải tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, năng
lực tự học, tự nghiên cứu, cùng nhau trao đổi thảo luận để làm sáng tỏ vấn đề
đặt ra. Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đem lại nguồn vui,
hứng thú học tập cho học sinh và đồng thời phải khắc phục kiểu dạy áp đặt, lấy
giáo viên làm trung tâm; Hạn chế tối đa lối dạy học: thầy đọc – trò ghi,
truyền đạt một chiều; chống lại thói quen học tập thu động
Như vậy, đổi mới giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện đáp ứng mục tiêu đào tạo là phải bắt đầu từ đổi mới phương pháp dạy học
và sự đổi mới ấy không còn là mơ hồ, trừu tượng mà phải theo một định hướng
nhất định: Các thầy cô giáo nói chung và ở trường THCS nói riêng có nhiệm vụ
giúp học hướng tới việc học tập chủ động, tự nghiên cứu và qua trao đổi-thảo
luận để tìm ra kiến thức mới.
Vậy phương pháp dạy học nào có thể gọi là tối ưu để khi phối hợp cùng
với các phương pháp truyền thống khác đã có từ trước, đáp ứng được các yêu cầu
trên và góp phần mang lại hiệu quả cao nhất cho tiết học, theo hướng đôit mới?
Câu trả lời mang tính thuyết phục nhất hiện nay vẫn là cách dạy: tổ chức
hoạt động nhóm. Bởi vì bản thân nó, vốn có khả năng đáp ứng các tiêu chí xây
dựng thành công con người năng động, sáng tạo. Từ thực nghiệm đổi mới PPDH,
đã chứng tỏ qua hoạt động sẽ làm cho mỗi thành viên bộc lộ được suy nghĩ, hiểu
biết, thái độ của mình, qua đó được tập thể uốn nắn, điều chỉnh, phát triễn tình bạn,
ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tương trợ, ý thức cộng đồng Hoạt động trong tập
thể quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tạp sẽ
tăng lên nhất là phải giải quyết vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp
giữa các cá nhân để hoàn thành một nhiệm vụ học tập xác định. Như vậy tổ chức
hoạt động nhóm trong thời gian qua, hiện nay và tương lai vẫn là PPDH mang lại
hiệu quả cao đã được các nước tiên tiến trên thế giới đánh giá cao và được áp
dụng một cách phổ biến, thành thạo trong trường học. Đối với họ, hiện nay tổ
chức hoạt động nhóm đã trở thành một nhu cầu từ cả phía người dạy-người
học.
Còn nước ta phương pháp tổ chức hoạt động nhóm trước đây tuy đã có áp
dụng nhưng còn rất mờ nhạt. Đặc biệt, từ khi thực hiện đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông theo NQ 40/QH-10, thì PPDH hoạt động nhóm không những
khuyến khích, vận động áp dụng, mà còn coi đây là một tiêu chí đánh giá mực
độ hoàn thành nhiệm vụ của người giáo viên khi lên lớp.
Thế nhưng thực tế trong ba năm học qua (02-03, 03-04, 04-05) ở trường
THCS Huỳnh Thúc Kháng chúng tôi, việc áp dụng PPDH hoạt động nhóm còn
lắm điều đáng bàn và trung thực khách quan mà nói thì việc sử dụng PPDH được
khẳng định định là tiên tiến nhất như trên vẫn còn mang hình thức đối phó, chưa
mang lại hiệu quả như mong muốn. Chính vì lẽ đó, cho nên bản thân tôi thời gian
qua (khi thực hiện thay sách) đã có nhiều băn khoăn, trăn trở làm thế nào để có
cách chỉ đạo thực hiện có nề nếp việc dạy học theo phương pháp hoạt động
nhóm, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo NQ 40 cỉa
Quốc hội. Và trong suốt quá trình ấy bản thân đã có một số việc làm tại đơn vị xin
được bày tỏ dưới đây với mục đích trao đỗi, ngõ hầu có được sự góp ý bổ sung của
quý lãnh đạo, đồng nghiệp để kinh nghiệm thêm phong phú, nhằm góp phần tốt
trong việc chỉ đạo chuyên môn, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
B- Giải quyết vấn đề:
1- Nghiên cứu hồ sơ, sổ sách của CBGV và HS để thu thập thông tin cần
thiết:
Như chúng ta đã biết, cốt lõi của việc đổi mới PPDH ở trường THCS là
giúp HS hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Khi nghiên cứu về nhóm PPDH tích cực thì tổ chức hoạt động nhóm không những
nó hoàn toàn có khả năng đó mà còn vượt trội hơn các phương pháp khác và bản
thân nó còn tiềm ẩn một sức mạnh cực kỳ to lớn – có nhiều khả năng phát huy
được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học. Cho nên việc vận
dụng phương pháp tổ chức hoạt động nhóm trong tiết học không còn là vấn đề
nên hay không nên, mà chúng ta phải làm sao để mọi giáo viên thực hiện một
cách tự giác và học sinh chủ động hưởng ứng, đồng thời bàn cách vận dụng
nó như thế nào cho có hiệu quả và tìm ra được nguyên nhân vì sao phần lớn
GV-HS lại không “hít” phương pháp ấy.
Những hồ sơ, sổ sách mà chúng tôi tiếp cận, nghiên cứu gồm:
+ Sổ soạn bài của GV: (ở năm học 02-03, 03-04, 04-05) của 20 giáo viên.
+ Hồ sơ kiểm tra chuyên đề và toàn diện (02-03, 03-04, 04-05 và tháng 9
>10/05) của CBGV (40 hồ sơ)
+ Vở ghi bài của học sinh (40 em lớp 6, 7, 8 và 9 - đủ các đối tượng)
+ Sổ gọi tên và ghi điểm (nt)
+ Hồ sơ 5 tổ chuyên môn (3 năm học: 02-03, 03-04, 4-05)
Ở đây tôi xin nói thêm việc nghiên cứu hồ sơ sổ sách này là nhằm mục đích
thu thập tất cả những thông tin có liên quan đến việc đổi mới chương trình giáo
dục PT, phục vụ cho việc sơ kết công tác thay sách ở trường, đồng thời xuyên qua
đó rút ra những thông tin phục vụ cho đề tài này. Chính vì thế cho nên trong
khuôn khổ của bài viết này, tôi chỉ nêu tóm tắt một số ưu điểm, tồn tại lớn có liên
quan trực tiếp đến đối tượng mà mình quan tâm và muốn làm chuyển biến nó.
Qua nghiên cứu đối chiếu thông tin ở các hồ sơ sổ sách tôi thấy nổi lên:
Ưu điểm:
- Đa số GV có đầu tư trong công tác soạn giáo giảng theo hướng tích cực,
chủ động sáng tạo của HS; thể hiện ở việc vận dụng PP mới - sử dụng ĐDDH.
Đảm bảo quy trình sư phạm.
100% HS có đầy đủ SGK, phần lớn ham học và làm theo sự hướng dẫn của
GV.
Tồn tại:
- GV sử dụng ĐDDH chưa nhiều, chưa thường xuyên, chưa trở thành nề
nếp.
- Việc tổ chức hoạt động nhóm thường diễn ra ở những tiết có người dự,
còn những tiết khác thì rất ít, thậm chí theo cách truyền thụ một chiều. Nội dung
chuẩn bị trước đó cho hoạt động nhóm thiếu chu đáo, lại không đồng đều thường
tập trung phần lớn ở nhóm trưởng.
- Mặc dù ở tổ chuyên môn có triển khai đầy đủ KH công tác, sự chỉ đạo của
trường nhưng nhìn chung chưa có biện pháp cụ thể đỡ từng cá nhân thực hiện hay
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện một số công tác lớn. Trầm
trọng hơn là việc sơ, tổng kết đáng giá việc thực hiện tổ chức hoạt động nhóm còn
chung chung, thiếu mạnh dạn chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến. Do
đó, chưa có bài học kinh nghiệm hữu hiệu.
* Qua trao đổi, thăm dò CBGV: nổi lên một nguyên nhân khiến người dạy
chưa “hít” với phương pháp dạy học này (hoạt động nhóm), bởi vì nó đòi hỏi công
phu và tốn thời gian – kinh phí (tối thiểu 3 nghìn – 4 nghìn đồng/tiết) nhiều hơn
khi khi không áp dụng nó; mặt khác ngay sau tiết học, người học có cảm nhận
tức thời về tính hiệu quả không cao hơn so với các phương pháp truyền thống
mà họ đã sử dụng trước đây. Họ chưa thấy được tác dụng tích cực, tính bền
vững lâu dài của nó trong hoạt động nhận thức của con người. Hơn nữa đây là
việc đổi mới quan niệm, một thói quen trong dạy học cho nên sẽ gặp những khó
khăn cả về nhận thức và hành động Bởi lẽ, đây là phương pháp mới, HS-GV
không quen, còn bỡ ngỡ với cách học như thế và dẫn tới không ham thích. Đó là
chưa nói tới những học sinh yếu, lười học lợi dụng sự sơ hở, quản lý của giáo viên
làm mất trật tự, ồn ào, làm cho người dạy bực mình, chán nản. Thực tế có những
tiết học khi đến phần hoạt động nhóm HS rất ồn, thậm chí có cả quậy phá. Và điều
này cũng dễ hiểu, vì các em HS yếu ít có khả năng và không ham thích tham gia
giải quyết những nhiệm vụ nhóm phân công. Hơn nữa khi cái “mới” ra đời thường
thường ít được chấp nhận, ít được ủng hộ. Và để khắc phục những hạn chế này, là
cán bộ quản lý chúng ta phải tác động bằng nhiều biện pháp, trong đó biện pháp
không thể thiếu đó là phải tiến hành đồng bộ, kiên trì, thường xuyên trên cả chỉ
đạo thực hiện về nội dung, quy trình trên tất cả đối tượng. Bởi vì, nếu để mỗi đơn
vị (tổ chuyên môn), mỗi cá nhân GV làm theo cách riêng của mình thì không bao
giờ có nền nếp và như thế sẽ không bao giờ có hiệu quả cao.
* Nhận thức của GV về tổ chức hoạt động nhóm chưa sâu, họ chưa thực sự
giác ngộ về nó, đặc biệt chưa nắm được cơ sở lý luận mang tính khoa học làm nền
tảng khi áp dụng, dẫn tới độ tin tưởng chưa cao. Làm cho họ thiếu quyết tâm, thiếu
kiên trì chịu khó trong việc làm.
2- Mở hội thảo bàn về cách tổ chức hoạt động nhóm có hiệu quả (tháng
11/05), nhằm đạt mục đích:
- Trên tinh thần phát huy dân chủ, thẳng thắn xác định cho được thực trạng
của việc dạy- học theo cách tổ chức hoạt động nhóm ở từng môn, từng lớp, từng
đối tượng HS, cụ thể phải tìm được các câu trả lời sau:
. Vì sao tỷ lệ việc tổ chức hoạt động nhóm trong tổng các tiết học không
cao?
. Khi tiến hành các hoạt động nhóm thường gặp những thuận lợi, khó khăn
gì?
. Làm thế nào để hoạt động nhóm thực sự có hiệu quả?
- Thông qua diễn đàn này, quán triệt và làm sáng tỏ lại một lần nữa nhận
thức về định hướng đổi mới PPDH và tổ chức hoạt động nhóm trong tất cả CBGV,
như:
+ Định hướng đổi mới PPDH dựa vào:
Một là: kết luận của QN TW 4 khoá VII) “khuyến khích tự học”, phải “áp
dụng nhữn PP giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng
tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề”
Hai là: kết luận của NQ TW 4 (Khoá VIII) “Phải đổi mới PP giáo dục, khắc
phục lối truyền thụ một chiều tự nghiên cứu cho học sinh”.
Ba là: Điều 24.2 của Luật Giáo dục “phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng PP tự học, tự rèn kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
HS”
+ Đặc điểm của PPDH hoạt động nhóm và một số điểm cần lưu ý:
. Nó đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của mỗi HS trong quá trình
tự giành lấy kiến thức mới.
. Trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động thuần tuý cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
thầy – trò, trò- thầy, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trong con
đường đi tới những tri thức mới.
. Trong phương pháp dạy học hoạt động nhóm vẫn có giao tiếp thầy-trò,
nhưng nổi lên mối quan hệ giao tiếp trò-trò. Thông qua hoạt động nhóm tìm tòi
nghiên cứu, thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ,
được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học được nâng mình lên
một trình độ mới, bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cá
nhân và cả lớp.
. Hoạt động trong tập thể nhóm sẽ làm cho từng thành viên được bộc lộ
những suy nghĩ hiểu biết của mình, qua đó được tập thể uốn nắn, điều chỉnh phát
triển tình bạn, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tương trợ, ý thức cộng đồng.
. Từ xưa bên cạnh câu “Không thầy đố mày làm nên”, cha ông ta đã có câu
“Học thầy không tầy học bạn”
. Thoạt nhìn, tưởng như học tập theo cách hoạt động nhóm mâu thuẫn với
học tập cá thể, hạn chế mức độ tích cực của mỗi cá nhân; nhưng thực ra trong hoạt
động nhóm, mục tiêu hoạt động là chung của toàn nhóm, nhưng mỗi cá nhân
đều phải nổ lực không thể ỷ lại vào người khác, toàn nhóm phải phối hợp với nhau
để cùng đạt mục tiêu chung. Kết quả làm việc của từng nhóm được trình bày thảo
luận trước lớp sẽ tạo được không khí thi đua giữa các nhóm, đóng góp tích cực
vào kết quả chung của bài học. Mô hình hợp tác trong XH đưa vào đời sống học
đường có tác dụng chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống XH, trong đó mỗi
người sống và làm việc theo sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng. Trong xu
hướng toàn cầu hoá, xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia thì
năng lực hợp tác thực sự trở thành mục tiêu đào tạo của giáo dục nhà trường.
. Việc tổ chức hoạt động nhóm phải chú ý đến trang thiết bị, ĐDDH nhất là
bàn ghế học sinh. Cụ thể ở đơn vị Huỳnh Thúc Kháng: bàn ghế HS là loại 2 chỗ
ngồi đóng liền (không xoay được) nên việc phân công nhóm có thể là: 2-4-8 (hợp
lý nhất là nhóm 4).
3- Chỉ đạo 5 tổ chuyên môn xây dựng - dạy minh hoạ chuyên đề “Tổ chức
có hiệu quả hoạt động nhóm” đối với 4 môn ở lớp 9: Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh
và địa lý theo hướng sau (lần I cấp trường: vào tháng 12/2004 và rút kinh nghiệm,
bổ sung hoàn chỉnh, để thực hiện lần II ở quy mô toàn Thị xã: vào ngày 7/4/2005;
có mời Phòng GD Thị xã dự):
3.1 Cấu trúc của chuyên đề:
3.1.1- Về cơ sở pháp lý:
3.1.2- Đặt vấn đề: (nêu cho được thực trạng của đối tượng và yêu cầu vè
nó)
3.1.3- Giải quyết vấn đề: (mỗi bộ môn đều có ví dụ minh hoạ cụ thể trong
mỗi bước).
Thống nhất theo quy trình gợi ý sau:
Bước 1: Làm việc chung cả lớp:
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ cho các nhóm.
- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
- Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập (chú ý: yêu cầu các
em suy nghĩ độc lập)
- Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.
- Cử đại diện (hoặc phân công trước) chịu trách nhiệm trình bày kết quả
làm việc của nhóm.
Bước 3: Thảo luận tổng kết trước toàn lớp (chú ý: kiểm tra hoạt động của
nhóm)
- Các nhóm lần trước báo cáo kết quả.
- Thảo luận chung.
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề tiếp theo.
* Những vấn đề GV cần lưu ý:
+ Từ nhóm 4 em trở lên, phải cử 1 nhóm trưởng (HS học khá-giỏi, có uy
tín) và 1 thư ký (HS viết rõ ràng nhanh nhẹn).
+ Trong thời gian đầu, GV hướng dẫn cụ thể cho các nhóm hoạt động (tập
huấn cho nhóm trưởng và thư ký). Có nhận xét, điều chỉnh bổ sung cách làm của
từng nhóm và rút kinh nghiệm chung. Chú ý động viên khích lệ.
+ Khi tiến hành hoạt động nhóm, GV phải điều chỉnh tư thế ngồi cho các
em để đảm bảo sự phát triển về thể chất khắc phục cách ngồi quay quẹo người về
sau mà chân vẫn giữ như cũ.
+ Phải thường xuyên chú ý HS yếu kém và biện pháp giúp đỡ để các em
cùng tham gia giải quyết nhiệm vụ của nhóm.
+ Chọn những vấn đề, bài tập thích hợp (không quá khó, cũng không quá
dễ).
+ Đánh giá, cho điểm, động viên và tuyên dương kịp thời cá nhân, tập thể
(chú ý HS yếu).
4- Mạnh dạn tham mưu với Phòng giáo dục Thị xã cho đăng cai tổ chức
sinh hoạt chuyên môn toàn bậc với chuyên đề: “Tổ chức có hiệu quả hoạt động
nhóm”, vào ngày 07/4/2005; nhằm tranh thủ sự góp ý của trường bạn, mặt khác để
tự khẳng định mình; cụ thể:
. Năm tổ chuyên môn (Toán, Hoá-sinh, Tiếng Anh, Ngữ văn và Sử -địa)
theo định hướng của toàn trường như đã nói ở trên; mỗi tổ xây dựng- báo cáo
chuyên đề vè dạy minh hoạ 1 tiết. Sau đó họp tổ, rút kinh nghiệm chung ở cấp
toàn Thị xã.
Qua buổi sinh hoạt chuyên môn với chuyên đề tren, mặc dù có nhiều ý kiến
tham gia phân tích và bổ sung thêm của lãnh đạo, GV các trường trong Thị đối với
việc xây dựng – áp dụng chuyên đề trên vào từng môn học, song nhìn chung vẫn
thống nhất đánh giá cao giá trị về cả 2 mặt lý luận và thực tiễn của nó.
5- Chỉ đạo xây dựng kế hoạch và quy trình sinh hoạt chuyên môn tổ:
Thực tế đã khẳng định, sự thành công của mỗi công việc đều bắt nguồn từ
khâu làm việc có kế hoạch (KH). Do vậy, ngay từ đầu năm hoc chúng tôi đã có sự
chỉ đạo việc xây dựng KH với những mục tiêu, nội dung, chỉ tiêu, biện pháp cụ
thể: Yêu cầu nội dung ngắn gọn bám sát nhiệm vụ năm học của Bộ, nhưng phải
đảm bảo tính cân đối toàn diện; có mục tiêu rõ ràng và biện pháp khả thi; có phân
công nhiệm vụ cụ thể; có thời gian khởi đầu và kết thú. Bên cạnh việc chỉ đạo xây
dựng KH theo tinh thần đổi mới chương trình GD phổ thông, áp dụng- tăng cường
phương pháp dạy học tích cực, sử dụng ĐDDH; BGH còn xây dựng và chỉ đạo
sinh hoạt chuyên môn hằng tuần bằng một Quy trình cụ thể, gồm 3 phần:
Phần 2: B/c 1 chuyên dề hay thao giảng- thực tập 1 tiết có gắn với một
chuyên đề cụ thể.
Phần 2: Họp, thảo luận rút kinh nghiệm nội dung phần 1, kể cả nội dung
chuyên môn theo sự phân công cho các thành viên ở buổi sinh hoạt chuyên môn
liền trước. Nhất thiết, tổ trưởng phải dành 2/3 thời lượng sinh hoạt cho việc đánh
giá, rút kinh nghiệm tình hình thực hiện nhiệm vụ (chẳng hạn như xác định trước
tổ mục tiêu, nội dung trọng tâm cần truyền đạt, tổ chức hoạt động nhóm, đổi mới
PP giảng dạy, ĐDDH đối với tiết dạy cụ thể, để tập thể tổ tham gia- thống nhất và
cả tổ cùng thực hiện). Ngoài ra mỗi tổ còn có trách nhiệm nghiên cứu trước bài
dạy từ 2-3 tuần để chắt lọc những vấn đề mà mình băn khoăn, lúng túng, khi thiết
kế bài dạy cả biện pháp khắc phục hoặc làm sáng tỏ ý đồ của người viết sách. Sau
khi trao đổi, bàn bạc có thể còn nhiều ý kiến khác nhau, trách nhiệm của tổ trưởng
là phải phân tích đi đến thống nhất chung và đó cũng là kết luận cuối cùng, buộc
mỗi thành viên phải thực hiện. Nhờ việc chỉ đạo mang tính nền nếp- tập trung và
phát huy tinh thần tập thể, tinh thần tự nghiên cứu - học tập, đào sâu suy nghĩ đó,
cho nên trong thời gian qua các nội dung: Thực hiện quy chế chuyên môn, nền nếp
soạn giảng, tổ chức hoạt động nhóm, đổi mới PPDH, sử dụng và tự làm ĐDDH,
cải tiến công tác kiểm tra- đánh giá xếp loại học sinh được diễn ra một cách
đồng bộ, thống nhất đạt được yêu cầu, đúng sự chỉ đạo của ngành. Khắc phục
được hiện tượng tuỳ tiện, thiếu đầu tư, làm qua loa đại khái, vô tổ chức trong
chuyên môn, hay sinh hoạt chuyên môn mà thực chất không bàn về chuyên môn.
Sự chỉ đạo nề nếp, cụ thể trên đã thực sự có tác dụng trong việc giữ vững kỷ
cương, nâng cao chất lượng GD toàn diện và điều minh chứng hùng hồn nhất là
được Phòng giáo dục Thị xã đánh giá cao- xếp loại Tốt qua 2 đợt thanh tra toàn
diện vào ngày 3-4/3/2005 và 24/12/05.
Phần 3: dựa vào KH chung và tình hình thực tế của tổ chuyên môn, của
trường vạch ra những vấn đề cần tập trung giải quyết trong thời gian đến (có sự
phân công cụ thể).
6- Phát huy tốt ĐDDH hiện có và đẩy mạnh phong trào tự làm ĐDDH để
phục vụ tiết dạy:
- Vào cuối năm học (tháng 5), cùng với việc kiểm kê tài sản cuối năm hiệu
trưởng chỉ đạo cán bộ thiết bị cùng với đại diện 5 tổ chuyên môn, tu sửa- sắp xếp
lại tất cả ĐDDH hiện có, đồng thời xác định lại những tiết không có ĐDDH. Trên
cơ sở đó lập kế hoạch đăng ký mua bổ sung dần (để sau 3-4 năm co bản đảm bảo)
theo danh mục của Bộ (những đồ dùng cấp thiết không thể tự làm được) và giao
cho tập thể tổ, cá nhân tự sưu tầm, tự làm những ĐDDH đơn giản để phục vụ cho
bộ môn của mình. Cũng cần nói thêm trong 3 năm học qua trường đã đẩy mạnh
công tác xã hội hoá GD trên tất cả các mặt nhất là tài chính, mặt khác lập kế hoạch
tự cân đối các nguồn, ưu tiên tất cả cho việc mua sắm sách, thiết bị dạy học; hỗ trợ
cho công tác tự làm ĐDDH. Chính việc chỉ đạo kiên quyết, đúng hướng này đã
mang lại cho trường một kết quả khích lệ, đó là một thư viện đạt chuẩn theo QĐ
01/BGD-ĐT và 1 phòng ĐDDH tương đối đảm bảo công tác dạy học.
Cùng với việc làm trên, nhà trường còn tổ chức cho tất cả GV học tập áp
dụng SKKN “làm bảng phụ bằng bao ni lông trong, có lót nền bằng giấy roky
trắng hoặc mặt sau tờ lịch tập cũ” của cô giáo (Nguyễn Thị Thu Hương- GV toán)
ở trường. Việc áp dụng SKKN này thì chỉ tốn khoảng 200à300đ và rất ít tốn thời
gian (chỉ cần 4 đến 5 mảnh giấy Roky trắng quy cách lớn - nhỏ hợp lý và 3kg bao
ni lông trong - đủ loại kích cở thì đủ áp dụng cho việc làm bảng phụ 1 năm
học/1GV). Việc làm này rõ ràng giảm được rất nhiều sự tốn kém về tiền bạc của
nhà trường, cá nhân GV.
7- Cải tiến và đẩy mạnh công tác kiểm tra nội bộ: ngoài việc đảm bảo đúng
các văn bản chỉ đạo của Bộ về công tác thanh kiểm tra nội bộ trường học, nhà
trường còn tăng cường công tác kiểm tra HS để đánh giá việc giảng dạy của GV.
Đặc biệt việc tự học tập nâng cao trình độ; việc tự làm và sử dụng ĐDDH thông
qua hồ sơ sổ sách của thư viện, thiết bị. Coi trọng khâu tổng kết, rút kinh nghiệm
sau kiểm tra. Chính việc làm này đã góp phần tích cực trong việc xây dựng đội
ngũ và tạo nên một nền nếp, một ý thức tự giác coi trọng việc đảm bảo quy chế
chuyên môn nâng cao nghiệp vụ tay nghề.
C- Kết thúc vấn đề:
I- Kết quả đạt được:
1. Trên 70% các tiết lên lớp, ở tất cả các môn học việc tổ chức hoạt động
nhóm được chủ động diễn ra theo KH của người dạy. Đặc biệt, cách dạy học này
(tổ chức hoạt động nhóm) của GV đều đảm bảo quy trình chỉ đạo của Hiệu trưởng.
Khi trình bày ở bài soạn về vấn đề này có những lúc GV chẻ nhỏ thêm, nhưng
nhìn chung qua thực tế dự giờ và hồ sơ kiểm tra của BGH, tổ chuyên môn ở năm
học 2005-2006 đều có chung đánh giá- kết luận về tổ chức hoạt động nhóm của
GV như sau:
+ Khi tiến hành đảm bảo đúng 3 bước: làm việc chung cả lớp, làm việc theo
nhóm và thảo luận tổng kết trước tập thể lớp.
+ Các thao tác của thầy, trò thành thạo, đặc biệt đa số ham thích thể hiện ở
việc thảo luận sôi nổi, mạnh dạn trình bày ý kiến của mình; biết tranh luận - chủ
động chiếm lĩnh kiến thức mới, dưới sự tổ chức của GV. Hiện tượng lười biếng,
không tham gia cùng nhóm để hoàn thành nhiệm vụ học tạp, hay quậy phá đã
được giảm thiểu nhiều. Cả thầy lẫn trò đều có sự chuẩn bị tốt cho tiết học, nhất là
phần hoạt động nhóm.
2. Từ cơ chế chỉ đạo ấy, buộc mọi GV phải chấp hành và dần dần đã tập
cho họ có một thói quen hay và đến nay việc tổ chức hoạt động nhóm trở thành
một nhu cầu không thể thiếu đối với họ; không còn vấn đề mang tính bắt buộc hay
đối phó. Như vây, đến thời điểm này (cuối năm học 2005-2006) có thể khẳng định
hầu hết GV ở trường đã “hít” PPDH hoạt động nhóm.
3. Đa số tiết học, ít- nhiều GV đều có tổ chức hoạt động nhóm và đạt hiệu
quả cao, góp phần nâng cao chất lượng GD toàn diện. Để minh chứng cho điều
này tôi xin nêu lên kết quả dự giờ- khảo sát chất lượng vào ngày 4/3/2005 và ngày
24/12/2005 của phòng Giáo dục Tam Kỳ qua thanh tra toàn diện:
+ Tổng số tiết dự giờ của Đoàn:
Thời gian
TS
tiết dự
Xếp loạ
i
Tốt
Xếp loạ
i
Khá
Xếp loạ
i
TB, Yếu
4/3/2005 28 21 07 0
24/12/2005
27 22 05 0
Qua thanh tra, phòng giáo dục Thị xã không những đánh giá cao chất lượng
GD của nhà trường, mà còn khẳng định đa số GV đã sử dụng PPDH mới (tổ chức
hoạt động nhóm) theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS.
4. Xây dựng và tổ chức báo cáo chuyên đề (tổ chức có hiệu quả hoạt động
nhóm), dạy minh hoạ (5 tiết: Toán, Ngữ văn, Hoá, Tiếng Anh, Địa) cho tất cả các
trường trong Thị xã về dự. Kết thúc Hội thảo được Phòng giáo dục Tam Kỳ và tập
thể CBGV các trường đánh giá cao.
* Các báo cáo chuyên đề (tổ chức có hiệu quả hoạt động nhóm) của 5 tổ
chuyên môn đều có gửi chong Phòng GC và tất cả các trường THCS trong Thị xã
tham khảo.
II- Bài học kinh nghiệm:
- Nhận thức là một vấn đề mang tính quyết định đối với sự thành công của
mỗi công việc. Bởi vì không có nhận thức đúng, thì không thể có quyết tâm cao,
không có hành động đúng thì tất nhiên sẽ không mang lại kết quả, chứ đừng nói gì
đến hiệu quả. Do vậy, bất cứ một việc gì nếu người thực hiện chưa nắm bắt được
một cách đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, tác dụng… và cơ sở khoa học của nó thì
trách nhiệm của người lãnh đạo (CBQL) phải tìm mọi cách làm cho họ có một
nhận thức đúng đắn, đầy đủ. Nói một cách khác người HT phải trang bị cho họ về
mặt lý luận, nhận thức… Trên cở sở đó, họ mới thấy được đâu là việc phải làm và
đâu là việc nên tránh; làm cho họ có được niềm tin. Đồng thời trên tinh thần phát
huy dân chủ của CBGV, người thủ trưởng phải xây dựng cho được một “cơ chế”
để buộc mọi thành viên phải tuân theo. Và chính việc làm nầy dần dần tạo cho hộ
một nền nếp, thói quen tốt.
- Phải thường xuyên kiểm tra, nhất là kiểm tra đột xuất và có sự đối chiếu
giữa hồ sơ với thực tế để đánh giá, xếp loại. Qua kiểm tra phải có sơ-tổng kết và
nhất thiết phải có kiến nghị bằng văn bản; mặt khác không được xem nhẹ việc
phúc tra.
- Đối với bất kỳ một công việc gì muốn thành công, người đứng đầu đơn vị
phải nghiên cứu, khảo sát, tìm ra nguyên nhân cơ bản và tác động bằng nhiều biện
pháp tích cực, khả thi đồng thời phải có quyết tâm cao. Kinh nghiệm thực tế cho
thấy ở chúng ta phải tác động cùng một lúc bằng nhiều biện pháp. Tuy nhiêm,
không phải dàn trãi mà phải xác định cho được đâu là biện pháp đột phá, để có sự
đầu tư tập trung- hợp lý. (Muốn nâng cao chất lượng GD toàn diện, nhất thiết GV
phải đổi mới PPDH).
I- Kiến nghị:
- Cần giảm bớt định mức lao động GV THCS từ 20 tiết/người/tuần xuống
còn 18 tiết/người/tuần, vì áp dụng PPDH tích cực đòi hỏi người GV phải có thêm
thời gian hơn để nghiên cứu, soạn bài, làm ĐDDH…
- Đáp ứng đủ, kịp thời các trang thiết bị phục vụ dạy học mà cơ sở không
có khả năng tự làm hoặc mua sắm.
Trên đây là một số việc ở cơ sở trong thời gian qua và thực tế đã mang lại
một số hiệu quả nhất định. Qua bài viết này rất mong quý lãnh đạo và đồng nghiệp
góp ý để bả nthân có thêm những kinh nghiệm quý báu về công tác quản lý chỉ
đạo của Hiệu trưởng ở trường THCS vùng ven đô, nhằm góp phần thắng lợi trong
việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo QN 40 của Quốc
hội khoá 10./.