Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

TRÍ THỨC VÀ MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA TRÍ THỨC pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.51 KB, 4 trang )


TRÍ THỨC VÀ MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA TRÍ THỨC
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết


1. Thế nào là trí thức ?

1.1. Nói đến trí thức, người ta thường nghĩ ngay tới những người có bằng cấp cao.
Dĩ nhiên, bằng cấp cao là một dấu hiệu có lẽ dễ sử dụng và có thể được sử dụng
trong nhiều trường hợp. Nhưng đó không phải là dấu hiệu bản chất của người trí
thức.
Trên thực tế, có những người bằng cấp không cao nhưng do tư chất thông minh,
lại chịu học hỏi nên có vốn tri thức khá sâu sắc và có nhiều sáng tạo được ghi nhận
trong những lĩnh vực chuyên môn nhất định. Lịch sử từng ghi công nhiều tên tuổi
lớn chưa học hết bậc đại học đã có những đóng góp xuất sắc cho khoa học - công
nghệ, văn hóa - nghệ thuật hay cho lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội, như các nhà
sáng chế và quản lý doanh nghiệp nổi tiếng thế giới Thomas Edison, Bill Gates ở
Hoa Kỳ, nhà viết kịch vĩ đại Shakespeare ở Anh Quốc. Ở Việt Nam, nhà văn
Nguyên Hồng khi hoàn thành những sáng tạo nghệ thuật để đời như Những ngày
thơ ấu, Bỉ vỏ, chỉ mới học xong tiểu học; và trên các lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp hiện nay, đang xuất hiện ngày càng nhiều kỹ sư chân đất - những nông dân
chân lấm tay bùn chịu học và dám nghĩ, dám làm, chế tạo từ máy cày, máy cấy,
máy thu hoạch mía cho đến máy bay v.v , đáp ứng nhu cầu của công cuộc lao
động sản xuất và ước muốn chinh phục đỉnh cao của khoa học - công nghệ. Họ là
những trí thức thật sự.
Ngược lại, trong cuộc sống cũng có không ít người sở hữu bằng cấp cao nhưng vì
nhiều lý do khác nhau, đã chuyển sang lao động chân tay hoặc buôn bán nhỏ, thậm
chí, không làm gì hoặc làm những nghề không lương thiện. Số người có bằng cấp
cao mà không hoạt động trong lĩnh vực lao động trí óc này khó có thể xếp vào tầng
lớp trí thức.
Thêm một lý do để vận dụng có mức độ dấu hiệu bằng cấp cao là đặc tính cao phụ


thuộc khá nhiều vào quan niệm của cộng đồng dân cư cụ thể. Thời thuộc Pháp,
bằng cao đẳng đã là rất cao, bởi vậy mới có tiêu chuẩn kén chồng của các tiểu thư
con nhà giàu: Phi cao đẳng bất thành phu phụ (nghĩa là: không có bằng cao đẳng,
không thành vợ thành chồng, không có bằng cao đẳng thì không lấy). Thời nay,
đối với dân cư thành thị, cao đẳng chưa chắc đã là cao. Nhưng đối với vùng sâu
vùng xa, người có bằng cao đẳng chắc chắn được cộng đồng trọng vọng.
Như vậy, có thể hiểu trí thức không nhất thiết là người có bằng cấp cao và ngược
lại, người có bằng cấp cao cũng chưa hẳn đã là trí thức. Điều quan trọng đối với
người trí thức là có hiểu biết sâu rộng và có khả năng sáng tạo trong một hoặc một
số lĩnh vực chuyên môn nhất định.
1.2. Thay cho dấu hiệu bằng cấp, nhiều người quan niệm: Trí thức là những người
lao động trí óc. Nhưng định nghĩa này chưa làm rõ thế nào là lao động trí óc. Nếu
chỉ nhìn vào hiện tượng thì một nghệ sĩ dương cầm, một nhà điêu khắc hay một
bác sĩ phẫu thuật sử dụng cơ bắp không kém gì người lao động chân tay; sáng tạo
của một họa sĩ thoạt nhìn cũng không khác hoạt động của người chép tranh hay
người vẽ truyền thần; công việc của một nhà giáo ở trung học hay đại học cũng
thuộc phạm trù giáo dục như công việc của cô bảo mẫu. Điểm phân biệt giữa
những người này là ở tầm mức của công việc và trình độ chuyên môn trong thực
hiện công việc ấy. Ví dụ, khác với y tá hay hộ lý, bác sĩ phẫu thuật thực hiện một
công việc phức tạp và hệ trọng, quan hệ đến sức khỏe và tính mạng con người; và
để có thể thực hiện công việc đó, người bác sĩ phải được đào tạo chu đáo về lý
luận và thực tiễn; ca phẫu thuật càng phức tạp, trình độ càng phải cao. Tương tự,
người thợ đục đá đục theo khuôn mẫu đã có sẵn, cho ra lò hàng loạt sản phẩm
giống hệt nhau; còn đối với nhà điêu khắc thì mỗi tác phẩm là một sáng tạo duy
nhất, thể hiện tư tưởng và phong cách nghệ thuật nhất định. Tóm lại, người trí thức
thực hiện những công việc có tầm quan trọng, đòi hỏi trình độ chuyên môn cao
hơn, sự huy động nỗ lực trí óc nhiều hơn.
1.3. Một trong những cách hiểu khác về trí thức là dựa vào hoạt động chính đem
lại thu nhập cho họ. Theo cách hiểu này, trí thức là những người lấy lao động trí óc
làm một nghề, hay nói cách khác là sống bằng lao động trí óc. Cách hiểu này

không sai nhưng cũng không bao quát được hết thực tế. Bởi vì trong lịch sử không
hiếm những trường hợp như cụ Tú Xương, tài năng văn chương nức tiếng, được
hậu thế tôn vinh là một trong những thi nhân lỗi lạc của nước nhà, nhưng sinh thời,
cụ chỉ lấy văn chương làm nơi bộc bạch nỗi niềm, còn kiếm sống phải nhờ cả vào
một tay cụ bà Quanh năm buôn bán ở mom sông / Nuôi đủ năm con với một
chồng.
Không riêng gì văn chương mà trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác, chúng ta
cũng có thể dẫn ra những ví dụ tương tự. Họa sĩ Van Gogh miệt mài sáng tạo nghệ
thuật suốt cuộc đời nhưng khi còn sống, ông lâm vào cảnh cùng quẫn vì không
mấy ai chịu mua những bức tranh của họa sĩ thiên tài. Nhà sáng chế K.
Tsiolkovxkij thời Sa Hoàng bị coi là gàn dở và cũng sống trong cảnh bần hàn;
sáng chế bị xếp xó. Chỉ sau khi có chính quyền xô viết, ông mới được trọng dụng.
Nhưng phải đến 22 năm sau khi ông mất, tên lửa đẩy thiết kế theo mô hình của
ông mới đưa được vệ tinh lên vũ trụ và ông mới được tôn vinh là ông tổ của ngành
hàng không vũ trụ.
Như vậy, không phải trí thức bao giờ cũng có thể sống bằng trí tuệ của mình. Điều
quan trọng là họ thường xuyên lao động trí óc, thường xuyên sáng tạo những sản
phẩm trí tuệ, như là sứ mạng, là lẽ sống của mình.
1.4. Nói tóm lại, trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng về
một hoặc một số lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, quản lý kinh
tế - xã hội, thường xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết
những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình vì
lợi ích chung của cộng đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân.
Theo cách hiểu trên thì tầng lớp trí thức là một tập hợp mở và đa dạng, không
giống bất kỳ một tập hợp nào khác trong xã hội như nông dân, công nhân, thợ thủ
công, quân nhân, thương nhân hay người buôn bán nhỏ. Trí thức có thể là bất kỳ ai
trong các tập hợp trên, miễn là có hiểu biết sâu rộng và tham gia lao động trí óc.
Tuy nhiên, bộ phận hạt nhân của tầng lớp trí thức là các nhà nghiên cứu; các giảng
viên đại học; các bác sĩ, dược sĩ cao cấp; các nhà văn, nhà thơ, nhà điêu khắc, nhạc
sĩ, họa sĩ, nhà báo; các nhà quản lý và công chức, viên chức trong bộ máy tham

mưu cho nhà quản lý.
2. Một số đặc điểm của trí thức
Trí thức là một tập hợp mở và đa dạng nên đặc điểm của tầng lớp này cũng rất
phong phú. Tuy nhiên, giữa các nhà trí thức, nhất là bộ phận hạt nhân của tầng lớp
này, cũng có những đặc điểm phẩm chất chung; phẩm chất nào cũng có mặt mạnh
và mặt yếu của nó. Phải chăng có thể nói đến những đặc điểm phẩm chất sau ?
2.1. Trí thức nói chung rất ham học, ham đọc. Nhờ ham học, ham đọc mà người trí
thức luôn luôn tiếp cận được cái mới, do đó trình độ lý luận không ngừng được
nâng cao. Tuy nhiên, sự ham học, ham đọc, ham lý luận quá mức có thể dẫn đến
tình trạng sách vở, kinh viện, xa rời thực tiễn. Đó là nhược điểm mà người trí thức
cần đề phòng.
2.2. Trí thức là người luôn sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm; ít khi chịu rập
khuôn theo công thức sẵn có. Chính nhờ đặc điểm này mà trí thức đóng vai trò
nhân tố quan trọng thúc đẩy khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, kinh tế -
xã hội phát triển. Tuy nhiên, xã hội cũng dễ nhìn nhận những sáng tạo quá đà, nhất
là trong phong cách sống, là lập dị.
2.3. Trí thức là người luôn có thói quen lật lại vấn đề. Vì vậy, trí thức thường hay
có ý kiến phản biện. Trong xã hội cũng như trong mỗi đơn vị, những ý kiến phản
biện mang tính xây dựng đều có giá trị, ít nhất cũng giúp người được phản biện
cân nhắc hoặc bổ sung, hoàn thiện chủ kiến của mình. Nhưng ý kiến phản biện,
nhất là những ý kiến quá thẳng thắn, dễ gây phản ứng tiêu cực. Vì vậy, người phản
biện cũng cần chọn cách nói, thời điểm nói thích hợp để tính thuyết phục của ý
kiến mình được cao hơn.
Thói quen lật lại vấn đề khiến người trí thức nhiều khi lật đi lật lại cả ý kiến của
mình. Tự phản biện mình là một thói quen tốt, thể hiện thái độ thực sự cầu thị. Tuy
nhiên, nếu trước bất cứ việc gì cũng cân đi nhắc lại mà không dám hành động thì
sẽ thành do dự, nhu nhược, thiếu quyết đoán.
2.4. Mặc dù hay lật lại vấn đề nhưng khi đã tin điều gì một cách có căn cứ thì trí
thức thường rất trung thành với niềm tin của mình. Nhà thiên văn học Ba Lan
Nicolas Copernik sẵn sàng đối mặt với tòa án giáo hội chứ không phản bội niềm

tin của mình là trái đất quay xung quanh mặt trời. Gần một trăm năm sau, lại đến
lượt nhà thiên văn Italia Galileo Galilée dũng cảm bảo vệ thuyết quả đất quay
trước tòa án giáo hội, bất chấp án lưu đày và rút phép thông công. Nhưng lịch sử
cũng ghi lại thảm kịch của biết bao trí thức xưa chết vì đặt sai niềm tin, sự trung
thành của mình vào những bạo chúa, độc tài hay những lý tưởng bị phản bội.
Người phương Đông gọi đó là thái độ ngu trung, một biểu hiện cực đoan của trung
thành.
2.5. Trí thức thường có hoài bão vươn lên những đỉnh cao, những vị trí nổi bật
trong xã hội. Cách chúng ta 150 năm, Nguyễn Công Trứ từng viết:
Làm trai sống ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Người trí thức nói chung trọng danh hơn trọng lợi. Thậm chí không ít người trọng
danh hơn cả mạng sống của mình. Nhưng quá trọng danh có thể dẫn đến hiếu
danh. Chuyện chạy đua bằng cấp, danh hiệu, giải thưởng v.v mà xã hội phê phán
hiện nay cũng là những biểu hiện của thói hiếu danh.
2.6. Trí thức thường khảng khái, tự trọng. Người xưa đã khái quát phẩm hạnh này
thành nguyên tắc sống: phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất(nghĩa là: giàu sang không làm đắm đuối, nghèo hèn không khiến đổi tiết
tháo, quyền uy không khuất phục nổi). Trong lịch sử đã có biết bao tấm gương
liêm khiết, chính trực, khảng khái của người trí thức. Xã hội trọng vọng trí thức
không chỉ vì trí tuệ của họ mà còn vì phẩm chất cao quý này. Tuy vậy, trong cuộc
sống, cũng cần phân biệt lòng tự trọng với thói sĩ diện. Tự tô vẽ hư danh cho mình,
tạo cho mình vỏ bọc bằng những thứ không phải của mình và khư khư bảo vệ nó,
đó là sĩ diện, một biểu hiện xa lạ với lòng tự trọng .
2.7. Trí thức thường cư xử lịch thiệp. Bộc trực khi tỏ bày chính kiến về những vấn
đề lớn, nhưng trong đời sống hằng ngày, người trí thức thường khiêm tốn, nhún
nhường, tránh những va chạm nhỏ, tránh làm mếch lòng người khác. Đây là một
phẩm chất đáng quý trong ứng xử, nhưng nếu quá nhún nhường, quá tế nhị cũng
dễ bị người xung quanh cho là không thực bụng.
N.M.T

Nguồn:
/>thuc.html
Chủ nhật ngày 18/7/2010

×