Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Hạch toán Kế toán tiền lương & các khoản trích theo lương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.32 KB, 28 trang )

PHẦN I
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, chuyên nghành kế
toán được nhiều nhà kinh tế quản lý kinh doanh và các chủ doanh nghiệp quan niệm
như một “Ngôn ngữ kinh doanh” và coi đó là một “nghệ thuật” để ghi chép-phân loại,
tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế tài chính trong quá hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định
phù hợp của các đối tượng sử dụng thông tin. Song dù quan niệm như thế nào
chăng nữa thì kê toán luôn là công cụ quản lý và có vai trò đặc biệt quan trọng trong
công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô của doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường như hiện nay thì mối quan tâm lớn nhất của chủ doanh
nghiệp là không chỉ làm thế nào giảm chi phí quá trình sản xuất đến mức thấp nhất
mà còn biết sử dụng lao động sao cho đúng, đủ nhất để tăng năng suất lao động,
đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp mình. Để giải quyết tốt vấn đề này thì
việc tổ chức thực hiện công tác kê toán tiền lương hoặc hoạch toán chi phí nhân
công không chỉ là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm, là căn cứ để xác định các
khoản nộp ngân sách mà còn cần đảm bảo cho người lao động ổn định mức sống và
quyền lợi của họ.
Là một sinh viên chuyên nghành kế toán, qua thời gian được học trên lớp và qua
quá trình tìm hiểu về tài liệu kế toán ở các doanh nghiệp em nhận thấy vấn đề hạch
toán tiền lương và các khoản trích theo lương là môt vấn đề khá quan trọng. Chính
vì vậy trong đồ án môn học lần em xin chọn đề tài nghiên cứu của mình là “Hoạch
toán kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương”..
1
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khi nghiên cứu về vấn đề tiền lương trước tiên ta cần phải hiểu thực chất của
tiền lương là gì nó có chức năng như thế nào. Để nghiên cứu chuyên đề này ta cần
xem xét các vấn đề sau.
2.1 Tiền lương và cá nhiệm vụ của kế toán lao động và thù lao lao động.
Trong mọi chế độ xã hội, việc sáng tạo ra của cải vật chất đều không tách rời lao


động. Lao động là hoạt động có mục đích của con người, diễn ra giữa con người với
giới tự nhiên, con người tác động vào các vật tự nhiên biến chúng thành những vật
phẩm đáp ứng nhu cầu sinh tồn của chính họ. Vì thế, lao động là điều kiện không thể
thiếu được của đời sống và là một phạm trù vĩnh viễn.
Lao động là một trong ba yếu tố cần thiết và giữ vai trò quyết định đối với quá
trình sản xuất. Thù lao lao động là một biểu hiện bằng tiền của phần hao phí lao
động mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc
mà họ đóng góp. Trong nền kinh tế thị trường, thù lao lao động được thể hiện bằng
thước đo giá tiền lương (hay tiền công).
Tại các doanh nghiệp, kế toán lao động và thù lao lao động là một bộ phận công
việc phức tạp trong việc kế toán chi phí kinh doanh, bởi vì cách trả thù lao lao động
thường không thống nhất do tiền lương được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế để
khuyến khích lợi ích vật chất, tăng năng suất lao động. Thù lao lao động là một bộ
phận chi phí cấu thành nên giá trị sản phẩm, dịch vụ nên các doanh nghiệp phai sử
dụng lao động một cách có hiệu quả nhằm tiết kiệm chi phí, góp phần hạ giá thành
sản phẩm. Tổ chức tốt kế toán lao động và tiền lương là một biện pháp cần thiết giúp
cho công tác quản lý lao động và tiền lương của doanh nghiệp đi vào nề nếp, thúc
đẩy người lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động, tăng năng suất lao động và hiệu
suất công tác. Đồng thời nó còn tạo cơ sở cho việc tính trả lương theo đúng nguyên
tắc phân phối lao động và là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm và giá bán sản
2
phẩm. Mặt khác việc tính chính xác thù lao lao động cong là căn cứ để xác định các
khoản nghĩa vụ phải nộp cho ngân sách, cho các cơ quan phúc lợi xã hội.
Tiền lương là khoản tiền công trả cho người lao động, nó là một phạm trù kinh tế
bởi nó phản ánh đúng giá trị sức lao động. Tiền lương phụ thuộc vào kết quả của lao
động và những mối quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ về tư liệu sản xuất.
Tiền lương là khoản tiền công mà người sử dụng lao động trả cho người lao động,
đồng thời là những yếu tố chi phí sản xuất quan trọng cấu thành lên giá thành sản
phẩm. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của sức
lao động, nhưng thực chất thì nhà tư bản trả công cho người lao động thấp hơn giá

trị sức lao động anh ta bỏ ra. Trong xã hội chủ nghĩa tiền lương không phải là giá cả
của sức lao động mà là một phần giá trị vật chất trong tổng sản phẩm xã hội dùng để
phân phối cho người lao động theo nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao
động” tiền lương mang một ý nghĩa tích cực tạo ra sự cân bằng trong phân phối thu
nhập và ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất.
Ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, một phần thu nhập quốc dân được tách ra làm
quỹ lương và phân phối theo kế hoạch tiền lương. Tiền lương cụ thể bao gồm: Phần
trả bằng tiền theo hệ thống thanh toán lương, bảng lương và phần trả bằng hiện vật
qua hệ thống tem phiếu. Theo cơ chế này, tiền lương không gắn chặt với số lượng,
chất lượng lao động, không đảm bảo một cuộc sống ổn định cho người lao động,
nên không tạo ra một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một trong những nội
dung đổi mới của cơ chế quản lý Nhà nước là không bao cấp tiền lương cho các xí
nghiệp quốc doanh, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành phần
và khu vực kinh tế. Với thành phần kinh tế nhà nước và khu vực hành chính sự
nghiệp, tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp quốc doanh, các cơ quan tổ chức
của Nhà nước trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách thể hiện ở hệ thống
thanh toán lương, bảng lương do Nhà nước quy định. Còn với thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động, chi phối rất lớn của thị trường sức
lao động, dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những chính sách của
3
chính phủ nhưng tiền lương thông qua giao dịch trực tiếp giữa chủ và thợ bằng
những “mặc cả” cụ thể giữa một bên làm thuê và một bên đi thuê. Những hợp đồng
lao động này có tác động trực tiếp đến hình thức trả công.
Đứng trên phạm vi xã hội, tiền lương được xem xét và đặt trong quan hệ phân
phối thu nhập, quan hệ sản xuất tiêu dùng, quan hệ trao đổi, do vậy các chính sách
về tiền lương và thu nhập luôn là chính sách trọng tâm của mỗi quốc gia.
2.1.1 Chức năng của tiền lương.

Chức năng là thước đo giá trị.

Tiền lương là khoản tiền công trả cho người lao động tương ứng với số lượng và
chất lượng lao động. Là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà
doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc đã cống
hiến cho doanh nghiệp. Khi trả lương cho người lao động ngang bằng với giá trị sức
lao động mà họ đã bỏ ra trong quá trình thực hiện công việc thì xã hội có thể xác
định chính xác hao phí sức lao động của toàn thể cộng đồng thông qua quỹ lương
cho toàn bộ người lao động. Điều này có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước hoạch
định được về chính sách, chiến lược lao động tiền lương.

Chức năng tái sản xuất sức lao động.
Theo Mác “Sức lao động là toàn bộ khả năng về thể lực và trí lực tập trung cho
con người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Bản chất của tái sản
xuất sức lao động là duy trì và phát triển sức lao động đảm bảo cho người lao động
có một khối lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để duy trì nó, cũng như là nâng cao
chất lượng lao động. Quá trình tái sản xuất sức lao động sẽ được bắt đầu bằng quá
trình trả lương cho người lao động, đó chính là tiền lương.

Chức năng kích thích sức lao động, tăng năng suất sức lao động.
Trên thực tế cho thấy con người sản sinh ra sức lao động là để phục vụ cho quá
trình lao động, khi tiền lương được trả xứng đáng sẽ tạo niềm say mê hứng thú tích
cực làm việc, phát huy sự sáng tạo, nâng cao trình độ và có trách nhiệm hơn đối với
công việc.

Chức năng giám sát lao động.
4
Thông qua việc trả lương mà người sử dụng lao động có thể tiến hành kiểm tra
theo dõi quan sát người lao động làm việc theo kế hoạch. Đảm bảo tiền lương người
lao động sẽ nhận được nhưng đồng thời công việc của mình cũng đem lại hiệu quả
mong muốn.


Chức năng tích lũy.
Như mọi thu thập khác, tiền lương là thu nhập của người lao động sau một thời
gian làm việc. Vì vậy người lao động tạo ra thu nhập không chỉ để duy trì sự sống
trong thời gian làm việc mà còn để tích lũy lâu dài trong những lúc rủi ro, mất khả
năng lao động. Tiền lương càng cao thì khả năng tích lũy càng lớn.
2.1.2. Phân loại tiền lương.
Do tiền lương có nhiều loại với tính chất khác nhau, chi trả cho các đối tượng
khác nhau nên cần phân loại tiền lương theo tiêu thức phù hợp. Trên thực tế có
nhiều cách phân loại tiền lương như phân theo cách trả lương (lương sản phẩm,
lương thời gian, lương khoán), phân theo đối tượng trả lương (Lương gián tiếp,
lương trực tiếp), phân theo chức năng tiền lương (Sản xuất, bán hàng, quản lý…).
Mỗi cách phân loại đều có những tác dụng nhất định trong quản lý. Tuy nhiên thuận
lợi cho công hạch toán nói chung và quản lý nói chung, xét về mặt hiệu quả, tiền
lương được chia thành tiền lương chính và tiền lương phụ.
Tiền lương chính: Là bộ phận trả cho người lao động trong thời gian thực tế có
làm việc, gồm cả tiền lương cấp bậc, tiền thưởng và các khoản phụ cấp có tính chất
tiền lương.
Tiền lương phụ: là bộ phận tiền lương trả cho người lao động trong thời gian
thực tế không làm việc nhưng đựoc chế độ quy định như nghỉ phép, hội họp, học
tập, lễ, tết, ngừng sản xuất…Cách phân loại này không những giúp cho việc tính
toán, phân bổ chi phí tiền lương được chính xác mà cong cung cấp thong tin cho
việc phân tích chi phí tiền lương.
2.2 NỘI DUNG QUỸ LƯƠNG VÀ CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG
2.2.1 Nội dung quỹ lương.
5
Quỹ lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương của doanh nghiệp dùng để
trả cho tất cả người lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng. Theo nghị
định số 235 của hội động bộ trưởng ra ngày 19/09/1995 của hội đồng bộ trưởng.
Quỹ tiền lương bao gồm các khoản sau:


Tiền lương tháng, ngày theo hệ thống các bảng lương của nhà nước.

Tiền lương trả theo sản phẩm.

Tiền lương công nhật cho người lao động ngoài biên chế.

Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng việc, thiết bị máy
móc ngừng làm việc vì nguyên nhân khách quan, trong thời gian điều
động công tác, đi học nhưng vẫn trong biên chế.

Các loại tiền thưởng thường xuyên, các loại phụ cấp theo chế độ quy định
và phụ cấp khác được hưởng trong quỹ lương.
Nếu dựa theo kết cấu thì quỹ lương được chia làm 2 bộ phận:
Bộ phận cơ bản bao gồm: Tiền lương cấp bậc là mức lương do các thanh bảng
lương của từng ngành, từng xí nghiệp quy định được Nhà nước ban hành.
Bộ phận biến đổi: Bao gồm các loại phụ cấp, các loại tiền thưởng bên cạnh tiền
lương cơ bản.
Quan hệ của hai bộ phận này tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp, quỹ tiền lương là một yếu tố của chi phí sản xuất. Còn
đối với người cung ứng sức lao động thì quỹ tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu
trong điều kiện hiện nay. Để quỹ tiền lương phát huy được tác dụng của nó thì trước
hết mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo quỹ tiền lương của doanh nghiệp mình thực
hiện tốt chức năng thấp nhất và cũng là chức năng quan trọng nhất là đảm bảo đủ
chi phí tái sản xuất sức lao động.
2.2.2 Chế độ tiền lương.

Chế độ tiền lương theo cấp bậc
6
Chế độ tiền lương theo cấp bậc là toàn bộ những quy định của nhà nước, xí

nghiệp vận dụng để trả lương cho người lao động. Căn cứ vào chất lượng và điều
kiện lao động khi họ hoàn thành một công việc nhất định.
Chế độ này áp dụng cho công nhân, những người lao động trực tiếp và trả
lương theo kết quả lao động của họ, thể hiện qua số lượng và chất lượng lao động.
Số lượng lao động thể hiện qua mức hao phí lao động dùng để sản xuất ra sản
phẩm trong một thời gian theo lịch nào đó. Còn chất lượng lao động là trình độ lành
nghề của người lao động được sử dụng và quá trình lao động thể hiện ở trình độ
giáo dục đào tạo, kinh nghiệm kỹ năng.

Chế độ tiền lương theo chức vụ.
Là toàn bộ những quy định của nhà nước mà các tổ chức kinh tế nhà nước và
các doanh nghiệp áp dụng để trả lương cho lao động quản lý. Đây là chế độ trả
lương cho những người không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng lại đóng vai trò quan
trọng trong việc lập kế hoạch tổ chức, điều hành kiểm soát và điều chỉnh các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của lao động quản lý có ảnh hưởng rất lớn đến
quy mô kinh doanh.
Tiền lương trong chế độ này được trả theo thời gian và dựa vào các bảng lương
chức vụ. Việc phân biệt tình trạng trong bảng lương chức vụ chủ yếu dựa vào các
tiêu chuẩn: Chính trị, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương ứng với
chức vụ đảm nhiệm.
7
2.2.3 Các hình thức trả lương.
Việc tính trả lương chi phí lao động có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác
nhau, tùy theo đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản
lý của doanh nghiệp. Mục đích của việc quy định các hình thức trả lương là nhằm
quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động: Trên thực tế, thường áp dụng các
hình thức trả lương như: Trả lương theo thời gian, theo sản phẩm, tiền lương khoán.

Trả lương theo thời gian.
Được áp dụng cho lao động làm công tác văn phòng như hành chính quản trị, tổ

chức lao động, thống kê, tài vụ, kế toán…Trả lưong theo thời gian là hình thức trả
lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế, Tiền lương theo
thời gian có thể chia ra.
+ Tiền lương tháng: Tiền lương tháng là tiền lương trả cố định hàng thãng trên cơ sở
hợp đồng lao động.
+ Tiền lương tuần: Là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ sở
tiền lương tháng nhân (x) với 12 tháng và chia (:) cho 52 tuần.
+ Tiền luơng ngày: Là tiền lương trả cho một ngày làm việc được xác định bằng
cách lấy tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng.
+ Tiền lương giờ: là tiền lưong trả cho một giờ làm việc và được xác định bằng cách
lấy tiền lương trả ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn theo quy định của Bộ luật Lao
động (Không quá 8h/ ngày).
Là hình thức trả lưong cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lưong sản
phẩm họ làm ra và đơn giá tiền lương tính cho 1 đơn vị sản phẩm. Việc trả lưong
theo sản phẩm có thể tiến hành theo nhiều cách khác nhau như: Trả lương theo sản
phẩm trực tiếp không hạn chế trả lương theo sản phẩm gián tiếp, trả lương theo sản
phẩm có thưởng, trả lương theo sản phẩm lũy tiến.
+ Trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế, được căn cứ vào số lượng sản
phẩm hoàn thành thưo đúng quy cách, sản phẩm nhân (x) đơn giá tiền lương quy
định cho 1 sản phẩm ngoài ra không chịu một sự hạn chế nào.
8
+ Trả lương theo sản phẩm gián tiếp được áp dụng để trả lưong cho công nhân phục
vụ sản xuất (Vận chuyển chuyển vật liệu sản phẩm, bảo dưỡng máy móc).
* Hình thức trả lương theo sản phẩm
Là hình thức trả lưong cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lưong sản
phẩm họ làm ra và đơn giá tiền lương tính cho 1 đơn vị sản phẩm. Việc trả lương
theo sản phẩm có thể tiến hành theo nhiều cách khác nhau như: Trả lương theo sản
phẩm trực tiếp không hạn chế trả lương theo sản phẩm gián tiếp, trả lương ltheo sản
phẩm có thưởng, trả lương theo sản phẩm lũy tiến.
+ Trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế, đươc căn cứ vào số lượng sản

phẩm hoàn thành thưo đúng quy cách, sản phẩm nhân (x) đơn giá tiền lương quy
định cho một sản phẩm ngoài ra không chịu một sự hạn chế nào.
+ Trả lương theo sản phẩm gián tiếp được áp dụng để trả lương cho công nhân
phục vụ sản xuất (Vận chuyển chuyển vật liệu sản phẩm, bảo dưỡng máy móc, thiết
bị…).Mặc dù lao động của những công nhân này không trực tiếp làm ra sản phẩm
nhưng gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân trực tiếp sản
xuất. Vì thế, có thể căn cứ vào năng suất lao động của công nhân trực tiếp sản xuất
để tính lương cho công nhân phục vụ. Nhờ đó, bộ phận công nhân phục vụ sẽ phục
vụ tốt hơn và quan tâm hơn đến kết quả phục vụ, kết quả sản xuất: từ đó, có giải
pháp cải tiến công tác phục vụ sản xuất.
+Trả lương theo sản phẩm có thưởng là việc kết hợp trả lưong theo sản phẩm (sản
phẩm trực tiếp hoặc sản phẩm gián tiếp) với chế độ tiền thưởng trong sản xuất
(thưởng nâng cao chất lượng, thưởng tăng năng suất lao động, thưởng tiết kiệm chi
phí…). Nhờ đó, Người lao động quan tâm hơn đến việc cải tiến kỹ thuật, nâng cao
chất lượng sản phẩm làm ra, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động …
+ Trả lưong theo sản phẩm lũy tiến là việc trả lương trên cơ sở sản phẩm trực tiếp,
đồng thời căn cứ vào mức đọ hoàn thành định mức sản xuất. Mức độ hoàn thành
định mức sản xuất càng cao thì suất lương lũy tiến càng lớn. Nhờ vậy, trả lương
theo sản phẩm lũy tiến sẽ kích thích được người lao động tăng nhanh năng suất lao
động.
9

Hình thức trả lương khoán.
Là hình thức trả lương theo được áp dụng cho những công việc cụ thể mà
doanh nghiệp giao khoán cho các cá nhân hoặc tập thể người lao động hiệu áp dụng
hình thức trả lương khoán sẽ kích thích người lao động hoàn thành công việc giao
khoán với năng suất và chất lượng cao nhất.
Căn cứ các hình thức tả lương nêu trên, doanh nghiệp lựa chọn hình thức thù
lao phù hợp với tính chất công việc và điều kiện sản xuất kinh doanh, gắn thù lao với
kết quả công việc, bảo đảm khuyến khích lao động nâng cao hiệu quả, năng suất lao

động. Việc lựa chọn hoặc thay đổi hình thức trả lương (thù lao) phải thể hiện trong
hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể.
Ngoài chế độ tiền lương, các doanh nghiệp còn tiến hành xây dựng chế độ tiền
thưởng cho các cá nhân, tập thể có thành tích trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.Tiền thưởng bao gồm thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng thưởng trong
sản xuất kinh doanh (thưởng nâng cao chất luợng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật
tư, thưởng phát minh, sáng kiến...).
Có một số hình thức trả lương khoán sau

Trả lương khoán gọn theo sản phẩm cuối cùng.
Đây là hình thức trả lương theo sản phẩm nhưng tiền lương được tính theo
đơn giá tập hợp theo sản phẩm hoàn thành đến công việc cuối cùng hình thức này
áp dụng cho doanh nghiệp mà quá trình sản xuất trải qua nhiều giai đoạn công nghệ,
nhằm khuyến khích người lao động quan tâm đến chất lượng sản phẩm.

Trả lương khoán thu nhập.
Tùy thuộc vào kết quả lao động sản xuất kinh doanh hình thành quỹ lương để
phân chia cho người lao động. Nếu tiền lương không thể hoạch toán riêng rẽ cho
từng người lao động thì phải hoạch toán cho cả tập thể người lao động sau đó mới
chia cho từng người.
Có thể chia lương theo các phương pháp:
Chia lương theo cấp bậc kỹ thuật và cấp bậc công việc trung bình cộng điểm
Chia lương theo bình quân cộng điểm.
10
2.2.4 Một số chế độ khác khi tính lương

Chế độ trả lương khi ngừng việc
Theo thông tư số 11/ LĐ – TT ngày 14/ 4/ 1962 quy định của bộ lao động chế độ trả
lương khi ngừng việc được áp dụng cho người lao động làm việc thường xuyên,
buộc phải ngừng làm việc do nguyên nhân khách quan (Bão lũ, mất điện, máy

hỏng....) do người khác gây ra hoặc khi chế thử, sản xuất thử sản phẩm mới.
Việc tính trả lương được tính thống nhất cho tất cả lao động theo % trên mức
cấp bậc kể cả phụ cấp. Cụ thể
Trả 70% lương khi không làm việc.
Trả ít nhất 85% lương nếu phải làm việc khác có mức lương thấp hơn.
Trả 100% lương khi ngừng việc do chế thử, sản xuất thử.

Chế độ phụ cấp lương
Theo điều 4 của thông tư liên bộ số 20LĐ – TT ngày 02/06/1993 của liên bộ
lao động thương binh và xã hội – Tài chính quy định có 7 loại phụ cấp:

Phụ cấp theo khu vực: Áp dụng với những nơi hẻo lánh, vùng xa có nhiều khó
khăn, và điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Loại phụ cấp này có 7 mức phụ cấp
với các hệ số : 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5; 0,6; 0,7, một số với mức lương tối thiểu.

Phụ cấp độc hại hoặc nguy hiểm chưa xác định, trong mức lương có 4 mức
phụ cấp với các hệ số : 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; so với mức lương tối thiểu

Phụ cấp trách nhiệm cao hoặc phải kiêm nhiệm công tác quản lý không thuộc
chức vụ lãnh đạo. Có 3 mức phụ cấp với các hệ số 0,1; 0,2; 0,3 so với mức
lương tối thiểu tùy thuộc vào công tác quản lý của mỗi lao động .

Phụ cấp làm đêm: Áp dụng đối với những công nhân viên chức làm ca 3 (Từ
22h đến 6h sáng) ở loại này phụ cấp gồm 2 mức:

Mức 1: Phụ cấp 30% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công
việc không thường xuyên làm việc ban đêm.

Mức 2: Phụ cấp 40% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công
việc thường xuyên làm việc theo ca.

11

×