Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào việc phát huy nguồn nhân lực ở tỉnh Quảng Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.18 KB, 75 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn một trong những nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học Các
Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận là mối liên hệ của nó trong thực
tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở trong mối quan hệ với lý luận.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng.
Một quốc gia, dân tộc muốn phát triển cần có các nguồn lực như con
người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, trong đó nguồn
lực con người mang yếu tố quyết định. Việc phát huy nguồn lực con người
là nhân tố quan trọng là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đây
cũng là một khâu tạo bước đột phá trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa sản xuất xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân
lực trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đại hội XI (2011) coi
con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Hiểu được vai trò của việc phát huy nguồn nhân lực, tỉnh Quảng
Bình trong những năm qua đã x ây dựng chiến lược phát huy và sử dụng
nguồn lực con người có hiệu quả, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở địa phương. Là một địa phương có những bước chuyển mang tính đột phá
căn bản trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trước sự mở rộng và
phát triển ngày càng nhanh của nền kinh tế, đặc biệt là công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong việc đào tạo và quản
lý nguồn nhân lực cản trở tới sự phát triển bền vững của tỉnh.
Đế góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận khoa học và tổng kết
thực tiễn Quảng Bình về phát huy nguồn nhân lực, đồng thời trên cơ sở
1
thực trạng với hoàn cảnh tự nhiên, đặc điểm dân cư Quảng Bình với
những biểu hiện đặc thù trong việc phát huy nhân tố con người. Thêm vào


đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế đang còn chập chững trên những bước
chuyển đổi, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao thương kinh tế
với nước ngoài đang diễn ra mạnh mẽ nên vấn đề phát huy nguồn nhân lực
ở tỉnh Quảng Bình cũng trải qua những thay đổi sâu sắc, đòi hỏi phải nắm
bắt kịp thời để đưa ra những giải pháp khả thi. Một số khâu trong đào tạo
và phát huy nguồn nhân lực bị buông lỏng hay bị biến đổi theo hướng tiêu
cực. Một số ban ngành ở địa phương vẫn chưa có chủ trương nhất quán
trong việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của mình. Điều này đã và
đang gây ra trở ngại không nhỏ đến sự phát huy nguồn nhân lực nước ta và
ở Quảng Bình nói riêng. Chính vì thế mà nghiên cứu tìm ra quy luật của
mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát huy nguồn nhân lực
có một ý nghĩa to lớn. Nhận thấy được tầm quan trọng, cũng như mong
muốn đưa ra những giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực tạo điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như góp phần vào việc phát triển
chung của đất nước, nên tôi chọn đề tài “ vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn vào việc phát huy nguồn nhân lực ở tỉnh
Quảng Bình hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng, sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư, khai thác có hiệu quả nguồn lực con
người. Do đó, vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người là đối
tượng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, từ các tác
phẩm kinh điển đến các công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp
bộ, cấp trường, các đề tài khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, các bài viết
trên tạp chí. Đặc biệt trong giai đoạn triển khai, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóacó các công trình nghiên cứu tiêu biểu:
2
- GS - Phạm Minh Hạc (1996) 
  Nxb, Chính trị Quốc gia.

- TS - Trần Văn Tùng và Lê Aí Lâm (1998) 
 !"#$%&"'
Viện phát triển Giáo dục (2002) ()!&*+,
!-.'
- TS - Vũ Bá Thể (2005) /&
 . Nxb Lao Động - Xã Hội.
- PGS - Bùi Thanh Quất (2005) 01$234
-.125
67 '
GS -S Phạm Minh Hạc789&$ ,8:
1.!;<:$=$&"'
- Nguyễn Duy Quý 2006 >? "&+/4@$#$ :.A
#=B , Tạp chí Cộng Sản số 6.
Lê Văn Quang 2006 01!CDE8? "
&+/4@67 / , Tạp chí Triết học số 8.
- GS - TS- Trần Côn F1GDE8#$#=&
;/+& " . (Kỷ yếu tọa đàm khoa học - Trung tâm Đào tạo,
bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội). Ngoài ra
còn có nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các báo và tạp chí bàn
về những vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực Việt Nam và thế giới gần
đây.
TS - Đỗ Minh Cương, PGS -TS - Nguyễn Thị Doan (2007)  
C7  , Nxb, Chính trị quốc gia.
- Phạm Văn Quốc, Đoàn Thanh Thủy ( 2012) 7H#=
:IJ, Tạp chí Nhân lực. Các tác giả khi
nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong giai
đoạn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nội dung rộng lớn, bao chứa nhiều lĩnh
3
vực với phạm vi khái quát cao. Các đề tài đã đề cập đến vấn đề chung của
nguồn nhân lực, bước đầu đã giải quyết những vấn đề và tháo gỡ những

khó khăn trước mắt. Còn đối với đề tài“vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn vào việc phát huy nguồn nhân lực ở tỉnh
Quảng Bình hiện nay” thì đề tài đã góp phần đưa ra một cách nhìn chung
về nguồn nhân lực ở gốc độ lý luận và thực tiễn, áp dụng cho địa phương
cụ thể là tỉnh Quảng Bình. Đề tài đã kế thừa thành tựu nghiên cứu của các
công trình dựa trên các ý tưởng và giá trị khoa học quý giá nhằm góp phần
làm cho đề tài thành công hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích của đề tài: Đề tài làm rõ tính khoa học của nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác - Lênin, cơ sở lý
luận quan điểm của Đảng ta về nguồn nhân lực và đề xuất những giải pháp
nhằm phát huy nguồn nhân lực ở tỉnh Quảng Bình.
Nhiệm vụ của đề tài: Trình bày có hệ thống những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Phân tích những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và thực trạng nguồn nhân
lực ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Đề tài tổng kết thực trạng nguồn nhân lực tỉnh Quảng Bình trong giai
đoạn hiện nay, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và những kết quả đạt được,
những thiếu sót và hạn chế của việc xây dựng và phát huy nguồn nhân lực
ở tỉnh Quảng Bình. Đề ra một số phương hướng, giải pháp cụ thể giúp công
tác phát huy nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
tỉnh Quảng Bình trong những năm tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực, cũng như việc phát huy
nguồn nhân lực ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của đề tài: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam,
4
chủ trương, chính sách của tỉnh ủy, Uỷ ban nhân nhân tỉnh Quảng Bình.

Cơ sở thực tiễn của đề tài: Là thực trạng phát huy nguồn nhân lực ở
tỉnh Quảng Bình giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Phương pháp xuyên suốt và tối
ưu trong việc nghiên cứu đề tài là phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật,
quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể. Ngoài ra còn kết hợp các
phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp'
6. Đóng góp của đề tài.
Mặt lý luận: Đề tài nêu lên một cách có hệ thống khoa học quan
điểm của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam, vận dụng quan điểm đó vào việc đánh giá thực trạng việc phát
huy nguồn nhân lực ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Đề tài đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu để nhằm phát huy nguồn
nhân lực trong giai đoạn tới, đặc biệt trong những năm 2015 - 2020 với
những bước phát triển ổn định và bền vững trong kinh tế - xã hội.
Mặt thực tiễn: Đề tài hoàn thành sẽ góp phần làm phong phú thêm
nguồn tài liệu cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì nội dung của đề tài gồm 2 chương
6 tiết.
Chương1: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản trong triết học Mác - Lênin.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực ở
tỉnh Quảng Bình hiện nay.
5
CHƯƠNG 1
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LÀ MỘT NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
1.1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực

Zễn.
1.1.1. Phạm trù lý luận.
Trước hết, cần khẳng định rằng phạm trù lý luận là phạm trù mang
tính trừu tượng, vì vậy từ trước đến nay, đã có rất nhiều quan niệm, quan
điểm khác nhau về lý luận. Lý luận ra đời ngay từ thời cổ đại, khi triết học
mới ra đời, lúc đầu chỉ là những tri thức thuần túy trải qua quá trình nhận
thức lâu dài cùng với sự xuất hiện của các ngành khoa học thì tri thức lý
luận hình thành và ngày càng mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao.
Kế thừa những yếu tố hợp lý đó và phát triển một cách sáng tạo. Các
Mác - Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về lý
luận: “lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con
người, là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc
lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc của khái niệm cái lôgíc
khách quan của sự vật”[24, 242-243]. Nói cách khác, lý luận là hệ thống
những tri thức được hệ thống hóa, khái quát hóa từ những tài liệu của thực
tiễn, kinh nghiệm lịch sử phản ánh mối liên hệ bản chất những quy luật của
thế giới khách quan cũng như sự phát triển của tư duy con người. Chính vì
thế mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong quá trình lịch sử”[21, 497].
Để hình thành lý luận, con người phải trải qua quá trình nhận thức
kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiêm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại,
diễn biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là
tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm
6
thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm
thông thường được thông qua quá trình sinh hoạt và hoạt động hàng ngày
của con người. Nó giúp con người giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể,
đơn giản trong quá trình tác động trực tiếp đối tượng. Tri thức kinh nghiệm
khoa học là kết quả của quá trình thực nghiệm khoa học. Nó đòi hỏi chủ thể

phải tích luỹ một lượng tri thức nhất định trong hoạt động sản xuất cũng
như hoạt động khoa học mới có thể hình thành tri thức kinh nghiệm khoa
học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp các nhà khoa học hình thành lý
luận. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở trình độ thấp,
nhưng nó là cơ sở hình thành lý luận.
Lý luận là sản phẩm cao nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ não con người. Cho nên, bản chất của lý luận
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin lý giải những vấn đề bản chất nhất của
nhận thức không thể tách rời những vấn đề của thực tiễn. Lênin cũng đã
nhấn mạnh rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận về nhận thức”[12, 167].
Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin nhận định: “Con đường biện
chứng của quá trình nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan
chính là con đường đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn”[12, 179].
Nhận thức là cả một quá trình biện chứng đi từ chưa biết đến biết, từ
biết ít đến biết nhiều, từ cái bộ phận đến cái toàn thể, từ nông cạn đến sâu
sắc, từ hiện tượng đến bản chất … Đúng như Lênin nhận xét: “Trong lý
luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học cần
suy luận một cách biện chứng nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức chúng
ta là bất di bất dịch và có sẵn mà phải phân tích xem xét sự hiểu biết như
thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở nên đầy đủ và
chính xác hơn như thế nào”[12, 117].
7
Như vậy có thể thấy, nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra
rất phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức
khác nhau. Tuỳ theo tính chất nghiên cứu mà quá trình đó được phân chia
thành nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn

đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện ở ba hình thức cơ bản là
cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn
gốc của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt,
từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Sự
vật, hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên
cảm giác. Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật, hiện
tượng vào các giác quan con người, là sự chuyển hoá năng lượng kích thích
bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Theo Lênin: “Cảm giác là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan”[10, 138].
Cảm giác mới nhận thức từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng. Muốn hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng thì phải nắm được một
cách tương đối toàn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó. Nhận
thức chuyển sang tri giác.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn
chỉnh hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp
các cảm giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức
cảm tính, nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú
hơn. Tuy nhiên, nhận thức ở cấp độ tri giác cũng chỉ cho chúng ta biết về
hình ảnh chủ quan và tương đối toàn diện về đối tượng. Trong khi đó nhận
thức không phải lúc nào cũng đòi hỏi các sự vật xuất hiện trước các giác
quan, mà nhiều khi nó xuất hiện một lần rồi mất đi, nhưng con người vẫn
phải nhận thức nó. Như vậy, ở đây xuất hiện một mâu thuẫn mới sự vật,
hiện tượng có trong thực tế với thực tế sự vật không hiện có trước các giác
8
quan của con người. Khi giải quyết mâu thuẫn này nhận thức chuyển sang
cấp độ cao hơn là biểu tượng.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ, sự tiếp
xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại cho chúng ta những ấn tượng,
những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu

sắc đến mức có thể hiện lên trong kí ức của chúng ta ngay cả khi sự vật
không còn ở trước mắt, đó chính là những biểu tượng. Trong biểu tượng
chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác
đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác
động kích thích đến trí nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng
là sự tưởng tượng, sự tưởng tượng đã mang tính chủ động sáng tạo. Tưởng
tượng có vai trò to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ
thuật. Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể sinh động của nhận
thức cảm tính, song bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp.
Như vậy, nhận thức cảm tính là nhận thức các phương diện khác
nhau của sự vật, những mối liên hệ bên ngoài sự vật, những hiện tượng
của sự vật, những hiện tượng của sự vật được cảm thụ trực tiếp nhờ các cơ
quan cảm giác đem lại. Xét toàn bộ mà nói thì nhận thức cảm tính vẫn chỉ
là “trực quan sinh động”, là giai đoạn đầu của nhận thức, tính trực tiếp là
đặc điểm nổi bật của nó. Nhận thức cảm tính sử dụng đến hình tượng cụ
thể, sinh động để phản ánh thế giới khách quan bên ngoài, nó lấy hiện
tượng của sự vật, tức mối liên hệ bên ngoài của sự vật làm nội dung, vẫn
còn chưa đi sâu vào nhận thức bản chất của sự vật. Do vậy, nhận thức cảm
tính có sinh động nhưng vẫn chưa sâu sắc.
Nhận thức lý tính hay còn gọi là tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp
theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở
nhận thức cảm tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con
người sẽ rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà hiểu
được những cái như tốc độ ánh sáng, giá trị hàng hoá, quan hệ giai cấp,
9
hình thái kinh tế - xã hội… Muốn hiểu được cái đó phải nhờ đến sức mạnh
của tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát gián tiếp hiện thực khách
quan. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ,
ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính chất năng động sáng

tạo, nó có thể phản ánh mối liên hệ bản chất tất nhiên bên trong của sự vật,
do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Nhận thức lý tính được
thể hiện ở ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những
mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật
hiện tượng nào đó. Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa
học. Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Là những
phương tiện để con người tích luỹ thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức
với nhau.
Khái niệm có tính chất khách quan bởi nó phản ánh những mối liên
hệ, những thuộc tính khách quan của sự vật hiện tượng trong thế giới. Vì
vậy, khi vận dụng khái niệm phải chú ý tính khách quan của nó. Nếu áp
dụng khái niệm một cách chủ quan, tuỳ tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy
biện. Như Lênin nhận xét: “Những khái niệm của con người là chủ quan
trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng nhưng là
khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh
hướng, trong nguồn gốc”[19, 223-224].
Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng liên kết các
khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ
nào đó của hiện thực khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các
khái niệm. Phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong ý thức
của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của
những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái
niệm có sự quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới
10
hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc trong những văn
phạm nhất định.
Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó, xuất phát từ
một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết
luận. Nói cách khác, suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những

phán đoán tiền đề. Nếu như, phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm thì
suy lý là sự liên hệ giữa các phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư
duy trừu tượng thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã
biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp. Có thể nói, toàn
bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý và nhờ suy lý mà con
người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan.
Tuy nhiên, để phản ánh đúng hiện thực khách quan trong quá trình suy lý
phải xuất phát từ những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc lôgíc.
Do đó, nếu những tiền đề của chúng ta là đúng và nếu chúng ta vận dụng
một cách chính xác những quy luật của tư duy đối với những tiền đề ấy thì
kết quả phải phù hợp với hiện thực [13, 829-830].
Nhận thức lý tính là nhận thức dựa vào tư duy trừ tượng, trên cơ sở
khái quát những tài liệu của nhận thức cảm tính, đạt tới nhận thức tính quy
luật của bản thân sự vật và những mối liên hệ bên trong, toàn thể, bản chất
của sự vật. Giai đoạn này chính là “tư duy trừu tượng”. Nhận thức lý tính là
giai đoạn nhận thức ở trình độ cao của nhận thức, nó có đặc điểm của tính
gián tiếp, tính trừu tượng, nó lấy sự phản ánh bản chất của sự vật làm nội
dung, do đó sâu sắc hơn nhận thức cảm tính.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính tồn tại trong mối liên hệ
biện chứng, có liên quan mật thiết với nhau. Trước hết, nhận thức lý tính
phải dựa vào nhận thức cảm tính, làm cơ sở cho nhận thức cảm tính. Sau
nữa, nhận thức cảm tính muốn phát triển và trở nên sâu sắc trong phản ánh
sự vật thì phải nâng lên nhận thức lý tính. Giữa nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính có sự thống nhất biện chứng với nhau và cơ sở của sự thống
11
nhất biện chứng đó chính là “thực tiễn”. Nhận thức cảm tính được sinh ra
trong hoạt động thực tiễn và sự quá độ từ nhận thức cảm tính đến nhận thức
lý tính cũng trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế

giới khách quan, lý luận được hình thành không phải nằm ngoài thực tiễn
mà trong mối liên hệ với thực tiễn.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng
cơ bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương
pháp luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan
bằng những quy luật chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý
luận đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực
và trình độ khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm
phương pháp luận nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt
động thực tiễn.
Tóm lại, lý luận là một công cụ tư tưởng sắc bén có vai trò rất to lớn
đối với hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức.
Lý luận giúp cho con người thấy được những ưu điểm và hạn chế trong
việc biến đổi những quá trình đối tượng hoá khách thể. Lý luận luôn đóng
vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết gắn bó giữa chủ thể tự nhiên
và chủ thể nhận thức. Lý luận cũng có quá trình hình thành và phát triển
của nó, không phải lý luận có khi con người xuất hiện, mà con người phải
phát triển đến một giai đoạn nhất định nào đó lý luận mới được xuất hiện.
Lý luận không phải sinh ra vốn đã hoàn thiện mà nó được bổ sung và hoàn
thiện dần dần theo tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Hay nói cách
khác, lý luận mang tính lịch sử xã hội, có những lý luận đúng ở quá khứ
nhưng ở hiện tại và tương lai nó không còn phù hợp nữa.
1.1.2. Phạm trù thực Zễn.
Các nhà duy vật trước Các Mác đã có công lớn trong việc phát triển
12
thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu
sót, trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy đựơc vai trò của hoạt động
thực tiễn đối với nhận thức. Do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính trực
quan.

F.Bêcơn (1561-1626) nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng
cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII, khi
đề cao vai trò của tri thức ông đã nhấn mạnh nhiệm vụ của triết học là tìm
ra con đường nhận thức giới tự nhiên. Theo ông, quá trình nhận thức phải
kiên quyết chống chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa kinh viện. Nhận thức
phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân
quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Có thể nói Bêcơn là nhà triết học đầu
tiên thấy được vai trò của thực tiễn, của thực nghiệm khoa học trong quá
trình nhận thức, trong quá trình hình thành tri thức.
Đến Phoiơbắc, nhà triết học duy vật Đức thế kỉ XIX đã đề cập đến
vấn đề thực tiễn, nhưng đối với ông, chỉ có lí luận mới thực sự là hoạt động
chân chính của con người còn thực tiễn mang tính chất con buôn bẩn thỉu.
Ông không thấy được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với nhận thức và cải
tạo thế giới. Với ông chỉ có hoạt động lý luận mới là thật sự là hoạt động
quan trọng.
Hêgghen, nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX đã có một số tư tưởng hợp lý, sâu sắc về thực tiễn. Ông cho rằng chủ
thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế
giới bên ngoài, nhưng ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư
tưởng, đối với ông thực tiễn là một suy lý lôgíc.
Các nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng, quá trình hình thành ý
thức của con người mang tính thụ động. Chính vì vậy, Các Mác đã đánh
giá: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay
- kể cả chủ nghĩa duy vật của phoiơbắc - là sự vật hiện thực, cái cảm giác
13
được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là
thực tiễn”[17, 9-10].
E.Makhơ, nhà triết học duy tâm chủ quan người Áo đồng thời là một
trong những người sáng lập ra chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán cho rằng

cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mọi người phân biệt được ảo tưởng
và hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, ngoài giới hạn của nhận
thức. Trái lại, Makhơ cho rằng thực tiễn là một việc khác và người ta có thể
đặt hai cái bên cạnh nhau mà không làm cho cái trước chế ước cái sau.
Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự
nhiên nói riêng, cùng với việc kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố
hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước và
khắc phục những yếu tố sai lầm của những quan niệm cũ về thực tiễn, cùng
với những hoạt động của các ông trong phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân lao động, Các Mác - Ph.Ăngghen đã có công lớn trong việc
đưa thực tiễn vào nhận thức luận. Không những thế, cả lý luận và thực tiễn
đều được các ông nâng lên ở một trình độ mới: Thực tiễn cách mạng và lý
luận cách mạng. Nhờ đó, lý luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ
khí nhận thức và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý
luận của mình, Các Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển
biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức luận nói riêng.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân
con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động
tinh thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt
động mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật
chất nhất định nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người
sử dụng các phương tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức
14
và mức độ khác nhau tuỳ thuộc mục đích của con người. Kết quả của quá
trình hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật chất,
nhu cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động sáng tạo, là hoạt
động được đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái

vật chất. Bởi hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và
khách thể trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó
nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn là khâu trung gian nối liền ý thức
con người với thế giới bên ngoài. Như vậy, hoạt động thực tiễn là hoạt
động bản chất của con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng
nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài thì con người
nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình để
cải tạo thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ
động tích cực với thế giới và làm chủ thế giới. Để thoả mãn nhu cầu của
mình, con người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống
mình và nhờ đó con người tạo nên những sản phẩm vốn không có sẵn trong
tự nhiên. Như vậy, không có hoạt động thực tiễn thì con người và xã hội
không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói: Thực tiễn là
phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu
tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Mỗi hoạt động
của con người đều mang tính lịch sử cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai
đoạn nhất định nào đó.
Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm
người nhưng hoạt động thực tiễn của từng cá nhân, từng nhóm người lại
không thể bị tách rời quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối tượng
phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt động thực
tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng
đồng, vì cộng đồng và do cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu đã có nhận
15
thức, đã có ý thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức
về đối tượng, đặc biệt là ý thức về mục đích của quá trình hoạt động. Mục
đích của hoạt động thực tiễn là nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh
thần của cá nhân và xã hội. Mỗi hoạt động đều có mục đích khác nhau để
giải quyết nhu cầu cụ thể, không có hoạt động nào không có mục đích, mặc

dù kết quả của hoạt động thực tiễn không phải lúc nào cũng diễn ra phù
hợp với mục đích của con người.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia làm ba
hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội
và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp của con người tác
động vào giới tự nhiên, cải tạo tự nhiên bằng các công cụ vật chất nhằm tạo
ra của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phái triển của con người và
của xã hội. Vì vậy, hoạt động sản xuất vật chất được xem là động lực phát
triển của xã hội, làm biến đổi con người theo trạng thái phát triển tích cực
về mặt thể chất lẫn tinh thần. Bởi thông qua lao động con người mới phát
huy hết tiềm năng của mình. Ph.Ăngghen đã viết: “Trước hết là lao động và
đồng thời cùng với lao động là ngôn ngữ, đó là hai thứ có sức kích thích
chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần
biến chuyển thành bộ óc của con người”[1, 251].
Sự phát triển của xã hội càng cao thì cách thức con người sáng tạo
ra công cụ lao động ngày càng tinh vi, hiệu quả hơn, góp phần vào việc tạo
ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng, mẫu
mã được nâng lên. Như vậy, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Lênin
khẳng định: “Việc anh ta sống anh ta hoạt động kinh tế, anh ta sinh con đẻ
cái và anh ta chế tạo ra các sản phẩm, làm nảy sinh một chuỗi tất yếu khách
quan gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức
xã hội của anh ta và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn vẹn các
chuỗi đó”[8, 403 ].
16
Đồng thời, sản xuất vật chất là cơ sở hình thành xã hội và các thiết chế
xã hội khác nhau. Tất cả quan điểm về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật tôn giáo và các quan hệ xã hội như gia đình, chủng tộc, dân tộc, quốc
tế và các thiết chế xã hội như tòa án, nhà thờ… đều được hình thành và phát
triển trên cơ sở sản xuất vật chất. Bên cạnh đó, sản xuất vật chất còn là cơ sở

cho tiến bộ xã hội.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người nhằm cải
tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội, như đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh bảo vệ hòa bình thế
giới vì sự tiến bộ xã hội loài người, đấu tranh chống ô nhiễm môi trường
bảo vệ cân bằng sinh thái, đấu tranh chống các thảm họa do các dịch bệnh
gây ra.
Hoat động chính trị - xã hội là hoạt động giúp cho con người có điều
kiện để phát huy hết khả năng sáng tạo của mình góp phần vào sự phát
triển chung của nhân loại và nếu không có các dạng hoạt động này thì sẽ
không làm thay đổi các quan hệ xã hội và như vậy sẽ không thúc đẩy xã hội
phát triển được.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các ngành khoa
học tác động làm cải biến những đối tượng nhất định trong một điều kiện
nhất định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định, đây là dạng đặc biệt
của hoạt động thực tiễn bởi vì nó được tiến hành trong những điều kiện
nhân tạo nhằm tạo những luận cứ khoa học và để phục vụ cho hoạt động
nhận thức và hoạt động làm biến đổi giới tự nhiên, xã hội của con người.
Ngoài các hoạt động thực tiễn cơ bản nêu trên, còn có các hoạt động
phát sinh trong các lĩnh vực đạo đức, nghệ thuật, y tế, giáo dục… các loại
hoạt động này nảy sinh trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người, có tác dụng bổ sung làm phong phú thêm những dạng hoạt động
thực tiễn của con người.
Như vậy, mỗi hình thức hoạt động cơ bản có một chức năng quan
17
trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau. Song giữa chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó hoạt động sản xuất
vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt
động khác. Bởi vì nó là hoạt động nguyên thuỷ nhất, tồn tại một cách khách
quan, thường xuyên nhất trong cuộc sống của con người và nó tạo ra những

điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát
triển của con người và xã hội. Nếu không có hoạt động sản xuất vật chất thì
không thể có các hình thức hoạt động khác.
Tóm lại, hoạt động thực tiễn là một phạm trù không thể thiếu đối với
nhận thức khoa học, với quá trình hoạt động trong lĩnh vực lý luận, nghiên
cứu lý luận cần phải hiểu rõ và nắm chắc được tính đúng đắn của thực tiễn
đó là yếu tố góp phần làm nên thành công trong công việc của mỗi người.
1.1.3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ
giữa con người và thế giới khách quan. Con người luôn tác động tích cực
vào thế giới khách quan, tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan
bằng thực tiễn. Trong quá trình đó sự phát triển nhận thức của con người và
sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự
thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động sinh tồn
của cá nhân và cộng đồng.
Giữa lý luận và thực tiễn giường như hai mặt tương đối độc lập với
nhau nhưng lại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, thực tiễn luôn luôn giữ vai trò quyết định. Để khẳng định vấn đề
này Lênin đã nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận (nhận thức) vì nó
có ưu điểm không những có tính phổ biến mà còn cả tính hiện thực trực
tiếp”[11, 230].
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đựơc thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
18
luận, lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận: Xét một cách trực tiếp, những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn
của con người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công

cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan
hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành
lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh
những lý luận đã đựơc khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con
người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp
tục giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng. Chính vì vậy,
Lênin nói: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu
của nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu
thuẫn của nó, tự nó và vì nó”[12, 227].
Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động của con người không chỉ
là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm
phương pháp cho hoạt động. Thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng
kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá
trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận
ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động con người
không bị hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực tiễn đã
thúc đẩy một ngành khoa học mới ra đời - khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con
người, nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động
của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không
thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó
19
chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến
đổi trong tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người, đó thực chất là
mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn
của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Tính chân lý của lý luận

chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn
của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm
nghiệm. Chính vì thế mà Các Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu tư duy của con
người có thể đạt đến chân lý khách quan không hoàn toàn không phải là
vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý”[17, 10]. Thông qua thực tiễn những lý
luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những
kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh bổ sung hoặc nhận
thức lại giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động
thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chẩn chân lý của lý luận nhưng không phải mọi
thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của
lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực
tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển
hoá. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ
phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ
những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt
đến chân lý. Chính vì vậy mà Lênin cho rằng: “Thực tiễn của con người lặp
đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng
những hình tượng lôgíc. Những hình tượng này có tính vững chắc của một
thiên kiến, có một tính chất công lý, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi lặp lại
hàng nghìn triệu lần ấy[12, 234].
20
Tuy xét đến cùng thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý
luận, nhưng vì thực tiễn luôn vận động và phát triển, đồng thời thực tiễn
cũng rất phong phú và đa dạng, do đó ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể
có những tiêu chuẩn khác như tiêu chuẩn lôgíc, tiêu chuẩn giá trị. Song các
tiêu chuẩn đó vẫn phải trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy ,chúng ta

có thể nói khái quát thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận.
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự
hình thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận
thức mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú đa dạng, luôn
luôn vận động và biến đổi, nhưng để hình thành lý luận trước hết lý luận
phải đáp ứng thực tiễn. Con người nhận thức hiện thực khách quan để giải
quyết những vấn đề con người quan tâm. Năng lực của con người ngày
càng được nâng cao chính nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh,
khái quát thành tri thức lý luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực
khách quan, con người không hề choáng ngợp mà bằng mọi biện pháp để
nhận thức. Loài người có khả năng trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh
sự vô tận của hiện thực khách quan, nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn
của con người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động
cải tạo hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt
hiệu quả cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích đó. Quan hệ giữa
con người với con người, giữa con người với tự nhiên đòi hỏi con người
phải có lý luận sâu sắc về chúng.
Thực tiễn chỉ đạo lý luận, ngược lại lý luận phải được vận dụng vào
thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Các Mác đã từng
nói, khi so sánh một con ong giỏi nhất với một người kiến trúc sư tồi nhất
người kiến trúc sư không bao giờ tinh xảo như con ong xây tổ nhưng hơn
hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một công trình họ đã hình thành
được hình tượng của công trình ấy trong đầu họ. Tức là, hoạt động của
con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động của con người chưa
21
có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn
tại của mình. Thông qua đó, con người khái quát thành lý luận. Từ đó
những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý
luận soi đường hoạt động thực tiễn của con người mới trở thành tự giác,
có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.

Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng
định hướng mục tiêu, xác định lực lượng biện pháp thực hiện. Lý luận còn
dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn,
dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế những thất bại có
thể có trong quá trình hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con
người hoạt động hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và
tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò
giác ngộ mục tiêu, lý tưởng liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành
sức mạnh to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Chính vì vậy, Các Mác đã khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên
không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có
thể bị đánh đổ bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[10, 580].
Mặc dù, lý luận mang tính khái quát cao song nó còn có tính lịch sử,
cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích tình hình một
cách cụ thể. Nếu vận dụng máy móc giáo điều, kinh viện thì chẳng những
hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự
thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận tuy là lôgíc của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu hơn so
với thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát
diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết
của lý luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn còn được làm sáng tỏ cụ thể
hơn khi xem xét nó từ quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Thực tiễn là khâu
trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thể, thực tiễn là hình thức liên hệ
22
thực tại khách quan nhờ đó chủ thể tự đối tượng hóa bản thân, các ý định,
các mục đích của mình. Điều này cho thấy thực tiễn và lý luận không thể
tuyệt đối độc lập với nhau. Bởi vì quan hệ lý luận giữa con người và khách
thể không bao giờ tách rời, biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, lý luận bao giờ

cũng phục tùng thực tiễn, và lý luận bao giờ cũng phát triển trên cơ sở cải
tạo thực tiễn của xã hội. Vì vậy, không có sự đối lập giữa lý luận và thực
tiễn, tính độc lập của lý luận chỉ là tương đối, lý luận cách mạng không
phải hoàn toàn là thực tiễn cách mạng, tuy nhiên do lý luận được sinh ra
bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội nên lý luận cách mạng trở thành một
bộ phận của thực tiễn xã hội.
Tóm lại, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một quá trình mang tính
lịch sử xã hội cụ thể. Đây là quan hệ thống nhất biện chứng nắm bắt được
tính biện chứng của quá trình đó là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng
ta có một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực
dụng ,máy móc và lý luận suông. Có thể nói rằng, Các Mác là người đầu
tiên đưa phạm trù thực tiễn vào nhận thức luận, nhờ đó ông đã làm nên
cuộc cách mạng thực sự trong tư duy cũng như trong hoạt động của con
người. Đến Lênin, ông đã phát triển và nâng cao vai trò của thực tiễn trong
lý luận nhận thức. Lênin có công to lớn trong việc làm sáng tỏ mối quan hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, về học thuyết chân lý trên cơ sở khoa
học hiện đại.
1.2. Quan điểm của Đảng ta về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực Zễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập Đảng ta đã chỉ rõ: “Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của Chủ nghĩa
Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Chúng ta
có thể thấy rằng cội nguồn của những đột phá, những bước tiến vượt bậc
của xã hội loài người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Lý luận lại có
nguồn gốc, cơ sở động lực từ thực tiễn, chính thực tiễn đặt ra vô vàn những
vấn đề mà lý luận phải giải đáp và chỉ trên cơ sở đó lý luận mới thực sự giữ
23
vai trò dẫn đường, lý luận phải đi trước một bước. Chính vì vậy, việc tìm
hiểu mối liên hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là rất cần thiết đối với
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

Trong thực tế, việc tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận, mà
là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý (Các Mác). Vì thực tiễn là điểm xuất phát và quy định nhận
thức. Do yêu cầu của thực tiễn buộc con người phải nhận thức thế giới.
Không có thực tiễn thì không có nhận thức. Chỉ trong hoạt động thực tiễn
con người mới có nhu cầu nhận thức, có động lực để nhận thức, có mục
đích nhận thức - nhằm cải tiến hoạt động thực tiễn của con người. Thông
qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào các sự vật hiện tượng, buộc
sự vật hiện tượng phải bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan
hệ khác nhau giữa chúng, để con người nhận thức, tìm ra mối liên hệ phổ
biến giữa sự vật này với sự vật khác hay thuộc tính của sự vật hiện tượng
nào đó. Đồng thời, hoạt động thực tiễn còn tạo ra những công cụ, phương
tiện ngày càng tinh vi, hiện đại để làm tăng thêm khả năng nhận thức của
con người.
Thực tiễn không chỉ được coi là những công việc cụ thể, thực tế,
hiện thực của cách mạng, mà còn được hiểu như là “thực hành”, kinh
nghiệm rút ra từ trong công tác. Người thường nói: Lý luận gắn liền với
thực hành, lời nói phải đi đôi với việc làm…
Khi xác định vai trò của lý luận Hồ Chí Minh cũng nêu lên ba khuyết
điểm mà cán bộ ta thường mắc phải đó là kém lý luận, khinh lý luận, lý
luận suông. Kém lý luận là không nắm được lý thuyết chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hoá để áp dụng vào phong trào, là không hiểu biện chứng là cái
gì? Nghĩa là, trước hết không chịu học chủ nghĩa duy vật biện chứng…
kém lý luận nên không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý nghĩ
thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại [20, 234]. Khinh lý luận là
24
“bệnh” của những cán bộ qua công tác hàng ngày nên có bề dày kinh
nghiệm có thành tích, họ thường coi khinh lý luận, coi nhẹ việc học tập lý
thuyết, học tập sách vở. Hồ Chí Minh nhắc nhở nếu họ đã có kinh nghiệm

mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều… Những đồng chí đó,
cần nghiên cứu thêm lý luận mới thành người cán bộ toàn diện. Lý luận
suông, theo Hồ Chí Minh: Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý
luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Có nhiều cán bộ, trí
thức chỉ chăm chú sách vở, học nhiều, bằng cấp lắm nhưng lại không đem
áp dụng vào công việc thực tế, họ trở thành những người lý luận suông. Hồ
Chí Minh nhắc nhở Đảng ta phải nâng cao trình độ lý luận của Đảng, phải
tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán
của Đảng rằng học tập lý luận là một sự cấp thiết đối với Đảng ta.
Hồ Chí Minh đã đề cập đến những thiếu sót phổ biến của cán bộ ta là
kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Người nhắc nhở cán bộ phải
đem tri thức vào thực tế, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải
nhằm theo lý luận. Người đưa hình ảnh “Mũi tên” và “Cái đích” để dễ hiểu
dễ nhớ. “Lý luận cũng như cái tên hoặc viên đạn. Thực hành cũng như cái
đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có
tên.”[20, 235].
Từ mối quan hệ hữu cơ đó, Người căn dặn chúng ta phải gắng học,
đồng thời học thì phải hành. Việc học lý luận và gắn lý luận với thực hành
được coi như tiêu chuẩn xác định tư cách và đạo đức của người cán bộ:
“Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận và thực
hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”[20, 249].
Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến mối quan hệ giữa lý luận - thực
tiễn - kinh nghiệm trong công tác cách mạng. Người nhắc nhở Đảng ta phải
kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực hành. Trong học tập phải theo
nguyên tắc: Kinh nghiệm và thực tế phải đi đôi với nhau. Đặc biệt trong lý
luận, Hồ Chí Minh chú trọng việc học tập lý luận Mác - Lênin cho cán bộ
25

×