Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tài liệu về kinh tế vi mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.09 KB, 14 trang )

Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
I-ĐẶT VẤN ĐỀ.
Cây mía và nghề làm mật, đường ở Việt Nam đã có từ xa xưa, nhưng công
nghiệp mía đường mới được bắt đầu từ thế kỷ thứ XX. Đến năm 1994, cả nước
mới có 9 nhà máy đường mía, với tổng công suất gần 11.000 tấn mía ngày và 2
nhà máy đường tinh luyện công suất nhỏ, thiết bị và công nghệ lạc hậu. Hàng
năm phải nhập khẩu từ 300.000 đến 500.000 tấn đường.
Đặc biệt là trong 3 năm thực hiện quyết định 28/2004/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, nhà máy đường đã được chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà
nước sang công ty cổ phần, mối quan hệ hợp tác giữa nhà máy và người trồng
mía và các địa phương trồng mía, trong việc xây dựng vùng nguyên liệu có
nhiều triển vọng mới.
Hơn một thập kỷ qua (1995-2006) tuy thời gian chưa nhiều, được sự hỗ trợ và
bằng sự tác động có hiệu quả bởi các chính sách của Chính phủ, ngành mía
đường non trẻ của Việt Nam đã đóng góp một phần vào sự tăng trưởng nền kinh
tế quốc dân, và phần quan trọng hơn là góp phần lớn về mặt xã hội, giải quyết
việc làm ổn định hàng triệu nông dân trồng mía và hơn 2 vạn công nhân ổn định
làm việc trong các nhà máy, có đời sống vật chất tinh thần ổn định ngày một cải
Lương Thu Hà B14KTH
1
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
thiện, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo nên các vùng sản xuất hàng hoá
lớn.Nhưng trong giai đoạn gần đây ngành mía đường của Việt Nam đã phải
đương đầu với nghiều tháh thức.
II- THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM.
Ngành mía đường Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn là:
1. Các nhà máy đường Việt Nam phần lớn vừa mới được xây dựng với quy mô
vừa và nhỏ.Hiện tại còn 37 nhà máy đường đang hoạt động, gồm 6 nhà máy có
vốn ầu tư nước ngoài với tổng công suất 27.000TMN, bình quân một nhà máy
4500TMN, 31 nhà máy là vốn đầu tư rong nước (trong đó có 25 nhà máy cổ
phần hoá) tổng công suất 48.800TMN, bình quân 1.575TMN/nhà máy; phần lớn


các nhà máy có quy mô nhỏ từ 700 – 1.000 TMN, thiết bị và công nghệ lạc hậu,
năng suất thiết bị và lao động, hiệu quả và chất lượng sản phẩm thấp, giá thành
cao.
2. Vùng nguyên liệu quy mô nhỏ bé, phân tán, chưa được đầu tư tương xứng với
yêu cầu sản xuất công nghiệp. Đặc biệt là diện tích trồng mía bình quân cho mỗi
hộ nông dân quá thấp (0.3 – 0.5 ha/hộ). Một nhà máy đường phải quan hệ hợp
đồng với 20 – 30 ngàn hộ nông dân bán mía, bình quân mỗi hộ chỉ bán được từ
30-40 tấn mía/vụ; năng suất và chất lượng mía thấp; bình quân năng suất chỉ đạt
Lương Thu Hà B14KTH
2
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
khoảng 50 tấn/ha và dưới 10ccs (độ đường). Xét cả về năng suất nông nghiệp và
nâng suất công nghiệp chế biến, ngành mía đường Việt Nam còn thấp, thua quá
nhiều so với các ngành míađường lớn của khu vực và thế giới. Bình quân ở Việt
Nam chỉ mới đạt 4-5 tấn đường/ha, trong khi đó ở Thái Lan là 7-8 tấn/ha, ở Úc
và Brazil là 9-12 tấn/ha.
3. Rất đáng lưu ý là ngành mía đường Việt Nam chịu tác động rủi ro rất lớn bởi
thời tiết hạn hán và bão lũ, các vùng nguyên liệu phần lớn nằm ở các vùng trung
du và miền núi, nông dân và nông thôn vốn là những vùng khó khăn, chưa được
đầu tư các công trình thuỷ lợi, giao thông…
4. Ngành mía đường Việt Nam cũng đang chịu tác động lớn bởi quan hệ cung
cầu và giá đường của thị trường thế giới. Phần lớn trong số 60 quốc gia sản xuất
đường lớn trên thế giới đều có chính sách trợ giá đường nội tiêu thông qua thuế
nhập khẩu cao và chính sách hạn ngạch thuế quan. Với Việt Nam, những bảo hộ
này không có nhiều, chỉ riêng có hạn ngạch và thuế nhập khẩu thì theo lộ trình
hội nhập AFTA thuế suất nhập khẩu đường sẽ giảm dần từ 30% năm 2007
Lương Thu Hà B14KTH
3
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
xuống còn 5% năm 2010. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa

nhập khẩu trong hạn ngạch là 25% vớI đường thô, ngoài hạn ngạch là 65%, khối
lượng nhập khẩu trong hạn ngạch còn tăng 5% mỗi năm.
5. Giá đường thị trường thế giới, cho đến nay, không thực sự phản ánh quan hệ
cân bằng cung cầu mà chịu tác động bởi chính sách trợ cấp sản xuất trực tiếp
hay gián tiếp của nhiều nước, nhất là các nước EU trong 40 năm qua luôn duy trì
giá đường cao gấp 4 lần so với giá đường trung bình trên thế giới (tháng 8/2005
là 631,9 Euro, tương tương 764,1 USD) đã bóp mép thị trường đường của các
nước đangphát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài chịu sự tác động này.
Lương Thu Hà B14KTH
4
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
III-PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NGÀNH MÍA ĐƯỜNG
VIỆT NAM.
1.Ngành mía đường trước nguy cơ phá sản.
Ngành mía đường Việt Nam đang tồn tại 3 vấn đề lớn
cần giải quyết triệt để, nếu không, nguy cơ phá sản là
khó tránh khỏi.
Vì theo cam kết AFTA và theo lộ trình hội nhập Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn
thị trường đường trong nước. Và hiện đường Việt Nam cũng đang bị đường
nhập lậu Thái Lan "lấn sân".
Từ năm 2000, ngành mía đường đã được Đảng và Nhà nước xác định là một
trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, trong suốt 6
năm qua ngành mía đường không thể vươn lên trở thành ngành kinh tế quan
Lương Thu Hà B14KTH
5
Thu mua mía nguyên
liệu.
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
trọng như yêu cầu.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, niên vụ mía 2006/2007, cả

nước làm ra 1,4 triệu tấn đường, tăng 27% so với năm trước, đủ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng, chế biến thực phẩm và dự trữ.
Các nhà máy chế biến mía đường dự kiến đạt sản lượng 1,25 triệu tấn, tăng
31%. Hiện nay, các nhà máy đường đều hoạt động quá tải, vì vào mùa khô hạn
các ruộng mía trên đồng đang trổ bông, nông dân muốn thu hoạch nhanh, bán
nhanh.
Tỉnh Tây Ninh với 38 ngàn ha mía, 3 nhà máy có kế hoạch ép 2 triệu tấn mía
cây, đến nay đã tiêu thụ 1,1 triệu tấn, với giá bình ổn 34.000 đồng/tấn, hỗ trợ
40.000 đồng/tấn vận chuyển.
Giá đường RE xuất xưởng tại nhà máy đã xuống còn 7.050 đồng/kg, tương
đương giá đường nhập khẩu với mức thuế 30% theo lộ trình AFTA, các nhà
máy đang nỗ lực tiếp thị tiêu thụ hàng sản xuất.
Hiện ngành mía đường cũng đang đứng trước những khó khăn của quá trình
hội nhập, trong khi nội lực còn yếu kém, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh còn
thấp.
Cả nước hiện có trên 40 nhà máy đường với tổng công suất thiết kế khoảng 82
ngàn tấn mía/ngày, nhưng tổng sản lượng thì liên tục giảm. Niên vụ 2004-2005,
tổng sản lượng mía ép đạt 9,3 triệu tấn, thấp hơn 1,3 triệu tấn so với niên vụ
2003-2004.
Có đến 16 nhà máy đường chỉ sử dụng dưới 80% công suất, thậm chí có 5 nhà
máy chưa sử dụng hết 50% công suất.
Đầu tư thiếu đồng bộ giữa vùng nguyên liệu mía và xây dựng nhà máy đường,
đã dẫn đến tình trạng không đảm bảo công suất hoạt động, gây thua lỗ của 32
nhà máy.
Nông dân mất lòng tin vào cây mía, đã có hiện tượng bỏ trồng mía chuyển sang
trồng cây khác có lợi ích cao hơn ngay khi giá mía trên thị trường tăng cao.
PGS-TS. Mai Thành Phụng - Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, hiện
ngành mía đường của Việt Nam đang đứng trước ba khó khăn lớn.
Thứ nhất, đối với cây mía, cây mía muốn có năng suất cao phải tưới nước, đa
số cây mía của chúng ta được trồng ở những vùng không có nước, nhưng thuỷ

lợi giải quyết cho cây mía thì còn rất trầy trật, những vùng trồng mía nếu có
Lương Thu Hà B14KTH
6
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
nước bà con sẽ trồng cây khác mà không trồng mía, như vậy sự cạnh tranh có
nước giữa cây mía và nhóm cây khác cũng rất quyết liệt.
Thứ hai, vùng ĐBSCL thì đầy nước, những lúc thừa nước, bà con nông dân
phải chặt mía sớm nếu không thì cây mía bị ngập úng, chặt mía sớm thì chữ
đường thấp. Do đó, ĐBSCL dù có đủ nước nhưng không đủ thời gian để cho
cây mía tích luỹ đường do mùa lũ khống chế. Vì vậy, năng suất cây mía ở
ĐBSCL dù rất cao nhưng chữ đường lại thấp.
Yêu cầu trong thâm canh mía công nghiệp là năng suất đường phải cao, nông
dân trồng mía có bán mía được giá cao hay không tuỳ thuộc vào năng suất
đường chứ không phụ thuộc vào năng suất cây.
Từ đó cho thấy, ĐBSCL bị hạn chế bởi mùa lũ nên không đủ thời gian để cây
mía tích luỹ đường, nên năng suất đường ở miền tây rất thấp, trong khi cây mía
được trồng ở các tỉnh miền đông chữ đường cao nhưng không có nước tưới.
Vấn đề tồn tại thứ ba là thiết bị máy móc ở các nhà máy đường. Hiện nay, thiết
bị của chúng ta đa số là cũ kỹ, lạc hậu nên tỉ lệ thu hồi đường của chúng ta là
9/1, trong khi đó tỉ lệ thu hồi đường của các nước tiên tiến là 13/1, chỉ bấy
nhiêu chúng ta đã thua các nước tiên tiến đến 4 giá. Tỉ lệ hao hụt trong quá
trình sản xuất của ngành mía đường Việt Nam còn rất cao do thiết bị cũ kỹ,
công nghệ chế biến quá lạc hậu.
2. Những yếu kém trong chính sách mía đường
Theo báo cáo của Bộ Thương mại, mối lo thiếu hụt 15 vạn tấn đường cho
2005 đã tạm ổn khi hiện tại đã nhập được 10 vạn tấn. Tuy nhiên, từ 2006 trở đi,
cả nước sẽ ước thiếu khoảng 20 vạn tấn mỗi năm do nhu cầu tiêu dùng và đáp
ứng các ngành công nghiệp chế biến.
Hiện trạng trên cho thấy ngành hàng này đang thiếu đi một chiến lược tổng
thể bên cạnh tính cạnh tranh sản phẩm không cao.

Đường lậu vừa rẻ vừa "ngon" hơn?
Nếu như giá đường trên thế giới hiện đang giảm: đường trắng giao tháng
10/2005 từ 289,3 USD/tấn xuống 284 USD/tấn so với giá giao tháng 9/2005 thì
giá đường trong nước vẫn phố biến quanh 9.000 đồng/kg, cao hơn đường của
nước láng giềng Thái Lan từ 2.500 - 3.000 đồng/kg.
Và theo quy luật "nước chảy chỗ trũng", thị trường đường Việt Nam do thiếu
hụt nguồn cung, đã dẫn đến hiện tượng đường Trung Quốc và Thái Lan thi
Lương Thu Hà B14KTH
7
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
nhau tràn vào Việt Nam cả năm nay.
Những ngày qua, khi nước lũ tràn về ĐBSCL và biên giới Việt Nam -
Campuchia trắng xóa trong biển nước, đã trở thành cơ hội cho đường Thái
thẩm lậu theo lũ. Vào sáng 31/8, Chi cục quản lý thị trường Kiên Giang "vồ"
được 4.250 kg đường "Made in Thailand" tại cơ sở sản xuất sirô Thịnh Phát,
phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá. Mới đây, Hải quan An Giang đã tóm
được 2,2 tấn đường nhập lậu. Tính từ đầu năm tới nay, Hải quan An Giang bắt
giữ được khoảng 20 tấn đường nhập lậu.
Theo báo cáo của Bộ Thương mại, để đáp ứng nhu cầu cho dịp tết Trung thu và
Nguyên đán, cả nước ước thiếu khoảng 5 vạn tấn đường. Và mặc dù số lượng
nói trên đã nằm trong "khuôn viên" cho phép nhập khẩu của Chính phủ nhưng
nhiều doanh nghiệp vẫn trong tình trạng vừa nhập vừa run!
Lý do được đưa ra: khi nhập về với số lượng lớn, lại đúng vào vụ thu hoạch
mía đường ở nhiều vùng trọng điểm, giá đường tụt xuống, cộng thêm với nạn
đường lậu hoành hành, rất có thể sẽ bị lỗ.
Nhưng liệu có phải đường lậu chảy vào Việt Nam chỉ xuất phát từ nguyên nhân
cung thiếu? Trên thực tế, chất lượng đường chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng
nguyên liệu đầu vào. Cây mía nội địa phần chỉ đạt 9 chữ đường (CCS), cao
nhất cũng chỉ 10 chữ đường. Nhưng mía Thái Lan luôn đạt 12 - 13 chữ đường.
Sở dĩ có điều này là tập quán canh tác của mía nội vẫn quanh quẩn với giống

mía có chất lượng thấp, yếu kém trong áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng
suất.
Mặt khác, ngoài ưu thế về giá rẻ hơn (khoảng 3.000 đồng/kg), đường Thái
còn mịn, trắng và tinh khiết hơn, mùi thơm hơn. Nói không ngoa rằng, kể cả
khi mức giá ngang bằng, cũng chưa hẳn đã chấm dứt tình trạng buôn lậu, nếu
chất lượng đường Việt Nam vẫn "bảo thủ" như hiện nay.
Yếu ớt từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Nhìn lại toàn bộ thị trường đường
Việt Nam từ khâu nguyên liệu đến sản xuất trong các nhà máy, sẽ chỉ thấy đi từ
lo âu này đến lo âu khác. Một thời, với chủ trương phát triển chương trình mía
đường một cách vội vã, thiếu quy hoạch tổng thể đã kéo theo khủng hoảng
thừa, khiến cho hàng loạt nông dân và nhà máy lâm vào cảnh nợ nần và chính
phủ không còn cách nào khác là khoanh và xóa nợ.
Tiếp đến, khi thấy trồng mía không ăn nhằm, hàng loạt nông dân đã chặt phá
Lương Thu Hà B14KTH
8
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
bỏ mía, trồng các loại cây khác có hiệu quả hơn. Thứ trưởng Bộ Thương mại,
ông Phan Thế Ruệ nói: "Bắt đầu từ 1996, diện tích mía đường cả nước khoảng
200 ngàn ha, sản lượng đường hơn 600 ngàn tấn. Niên vụ 2003 - 2004, diện
tích cả nước đạt gần 300 ngàn ha, cho sản lượng xấp xỉ 1,1 triệu tấn. Nhưng
đến 2004- 2005, sản lượng chỉ còn 928.145 tấn".
Trong khi không đủ mía cho sản xuất thì một thực trạng khác cũng rất nan giải
là phần lớn các nhà máy đườngcó công nghệ rất lạc hậu.
Theo thống kê, cả nước hiện nay có 37 nhà máy đường nhưng chỉ có 6 nhà máy
từ nguồn vốn FDI, có công suất khoảng 6 ngàn tấn mía đường/ngày là đủ năng
lực cạnh tranh. Phần còn lại, chủ yếu dùng các thiết bị của Trung Quốc, chỉ có
công suất từ 1 đến 2 nghìn tấn mía/ngày, chất lượng sản phẩm thấp.
Thực trạng ngành mía đường trong vài năm gần đây cho thấy hàng loạt bất ổn,
và có 6 vấn đề cần giải quyết.
+ Thứ nhất, vùng nguyên liệu và tập quán canh tác chưa đảm bảo yếu tố

chuyên nghiệp cho một ngành công nghiệp. Trên thực tế, diện tích trồng mía bị
phân tán rải rác, không khuyến khích nông dân và không trở thành vùng
nguyên liệu vệ tinh tập trung. Những yếu tố này sẽ trở thành mối nguy cho nhà
máy khi giá thành sản xuất bị đội cao do giá xăng dầu đắt đỏ và chi phí vận
chuyển trung gian.
+ Thứ hai, không có một quy chuẩn kỹ thuật tối thiểu hay tối đa nào cho các
nhà máy sản xuất đường. Bởi thế, mới có quá nhiều nhà máy đường với thiết bị
lạc hậu, công suất thấp mọc lên khắp nơi.
+ Thứ ba, khâu lưu thông nguyên liệu và sản phẩm đường lâu nay dường như
bỏ ngỏ. Hiện nay, do các nhà máy không thiết kế được hệ thống thu mua và
vận chuyển nguyên liệu nên bị giới trung gian hè nhau đẩy giá mía lên.
+ Thứ tư, chưa chú trọng khâu tái chế phế phẩm. Trong hoàn cảnh các nhà
máy với công nghệ lạc hậu, tỷ lệ thu hồi đường thấp, đầu ra phi sản phẩm quá
lớn, trong khi khâu tái chế phế phẩm yếu kém đã gây nên lãng phí rất lớn.
+ Thứ năm, chính sách điều hành vĩ mô cân đối cung cầu đường còn bị động:
thiếu thì nhập khẩu và được bổ sung bằng nhập lậu. Thừa thì nông dân thay
mía bằng lúa, ngô hay trồng cây khác; cơ quan chức năng luôn tỏ ra yếu thế
trong chống buôn lậu.
+ Thứ sáu, khâu dự báo nhu cầu thị trường đường được xem là khâu yếu.
Lương Thu Hà B14KTH
9
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
Theo tính toán trước đây, nhu cầu chỉ cần 1 triệu tấn đường/năm nhưng thực tế
nhu cầu đã vọt lên 1,2 triệu tấn/năm và năm 2020 con số này ước tính khoảng 2
triệu tấn/năm.
Để giải quyết những vấn đề này, theo Thứ trưởng Phan Thế Ruệ: "Rất cần thiết
phải xây dựng chương trình đường giai đoạn 2006 - 2010, tầm nhìn đến 2020".
3.Đường nhập lậu “bóp chết” đường trong nước
Tình trạng đường nhập lậu với số lượng lớn đang đe dọa sự tồn vong của các
nhà máy, doanh nghiệp và hàng vạn nông dân ngành mía đường. Ông Lê Văn

Tam - Chủ tịch Hiệp hội mía đường VN cho biết.
Tính đến hết niên vụ 2005 – 2006, sản lượng mía nguyên liệu cả nước
đạt 8,57 triệu tấn, tương đương khoảng 800.000 tấn đường.
Như vậy, so với kế hoạch, sản lượng niên vụ này đã giảm 20%; so với niên vụ
2004 - 2005, giảm 25%; cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước, năm nay VN
thiếu khoảng 300.000- 380.000 tấn.
Sau khi cân đối nhu cầu, Hiệp hội đã đề nghị Bộ Thương mại, Chính phủ và
Chính phủ đã đồng ý cho nhập khẩu 300.000 tấn đường.
Tính đến 13/7, Bộ Thương mại đã cấp phép cho các đơn vị được nhập khẩu
lượng đường 250.000 tấn.Thế nhưng, thực tế mới nhập được chừng 175.000
tấn.Số còn lại, các doanh nghiệp không dám nhập tiếp, vì ảnh hưởng của đường
nhập lậu.
Trước hết là ảnh hưởng đến các nhà máy đường. 37 nhà máy đường trên cả
nước đang đứng trước nguy cơ phá sản vì không tiêu thụ được sản phẩm. Hiện,
lượng đường tồn kho khoảng 250.000 tấn (30% sản lượng).
Hầu hết các nhà máy đường đều vay ngân hàng để thu mua mía nguyên liệu; nếu
không bán được đường thì rất nguy hiểm. Lượng đường nhập lậu quá lớn còn
ảnh hưởng đến các DN kinh doanh đường.
Các DN này cũng phải thế chấp tài sản để vay tiền ngân hàng nhập khẩu đường,
hoặc mua đường của các nhà máy trong nước.Giá đường tụt thê thảm, các DN
không bán được đường, nguy cơ phá sản khó tránh khỏi.
Đường nhập lậu khiến Nhà nước mất khoản thu không nhỏ từ thuế (40% thuế
nhập khẩu và 5% thuế VAT). Đặc biệt, hàng vạn nông dân sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng.
Lương Thu Hà B14KTH
10
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
Trước đó, giá thu mua mía nguyên liệu ngày càng cao khiến nông dân ồ ạt
trồng mía. Nhiều nơi, nông dân phá nhãn, vải, ao nuôi tôm để trồng mía.
Nay, do đường của các nhà máy không tiêu thụ được nên người dân sẽ khó bán

mía nguyên liệu hoặc nếu bán được thì giá rất thấp. Người dân rất dễ trắng tay…
-Hiện nay chúng ta bó tay. Các cơ quan chức năng đã vào cuộc nhưng chưa
thực sự quyết tâm hoặc đây đó các đầu nậu nhập lậu đã mua chuộc được các cán
bộ chức năng.
Các DN đã phải tự khảo sát bằng cách quay phim, chụp ảnh, ghi chép tình hình
nhập lậu đường tại nhiều cửa khẩu (đặc biệt các cửa khẩu thuộc các tỉnh Kiên
Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An), báo cáo các bộ, ngành liên quan và
Chính phủ.
Ngành đường đang cầu cứu Chính phủ và các cơ quan chức năng khẩn trương
có biện pháp chống thẩm lậu đường, để cứu hàng vạn nông dân và DN…
Bộ Công thương cho biết, đường nhập lậu tràn về nhiều với giá rẻ đang gây sức
ép lớn cho các nhà máy sản xuất trong nước. Nhiều nhà máy sản xuất đường
đang đối mặt với tình trạng tồn kho lớn và có nguy cơ thua lỗ trong niên vụ này.
Báo cáo mới đây cho biết, hiện nay, mỗi ngày có 200 - 300 tấn đường nhập lậu
qua biên giới Tây Nam; trong khi đó, ở Lao bảo - Quảng Trị cũng có khoảng
60 - 70 tấn nhập lậu mỗi ngày. Số đường nhập lậu này có giá bán rẻ hơn đường
trong nước nên đã ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ của các nhà máy sản xuất.
Đường là mặt hàng có nhiều biến động mạnh. Năm
Lương Thu Hà B14KTH
11
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
ngoái thiếu đường năm nay lại dư thừa.
Nếu niên vụ trước thiếu đường, các nhà máy có lãi thì nay các nhà máy lại
đang rơi vào tình trạng tồn kho lớn, kéo theo đó là giá bán mía của nông dân hạ
xuống, lượng mía đến kỳ thu hoạch không được tiêu thụ hết, nông dân gặp nhiều
khó khăn. Hiện nay, do ảnh hưởng từ đường nhập lậu, các nhà máy sản xuất khó
khăn, giá bán đường đã giảm 300 - 500 đồng/kg và phổ biến mức 7.500 - 7.800
đồng/kg
Hiệp hội Mía đường Việt Nam cho biết, tính từ đầu năm đến hết tháng 4/2008,
cả nước đã 1,053 triệu tấn đường. Trong khi đó, lượng bán ra đang có xu hướng

giảm. Trong tháng 4 chỉ bán được 78 ngàn tấn, giảm 20 ngàn tấn so với mức
bình thường. Lượng hàng tồn kho tại các nhà máy là khoảng 360 ngàn tấn.
Nguyên nhân chính được xác định là do ảnh hưởng của đường nhập lậu.
Theo dự báo, kết thúc niên vụ đường 2007/2008, cả nước sẽ sản xuất khoảng
1,138 triệu tấn đường, giảm 13 ngàn tấn nhưng vẫn sẽ đáp ứng nhu cầu trong
nước. Khả năng giá đường tăng mạnh là không có vì cả trong nước và trên thế
giới đều có xu hướng dư thừa đường.
DN sản xuất đường đã báo động như vậy tại một cuộc họp của Hiệp hội Mía
đường VN tổ chức ở TPHCM tuần trước, nhất là khi ngành mía đường VN còn
lúng túng trong quản lý, điều hành sản xuất - kinh doanh mặt hàng quan trọng
này
Lương Thu Hà B14KTH
12
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
Tính đến tháng 10/2007, vụ mía 2007-2008, VN chế biến được 13,8 triệu tấn
mía và sản xuất được hơn 1,3 triệu tấn đường. Như vậy, sau 2 vụ trước (2004-
2005 và 2005-2006), sản xuất của ngành mía đường giảm sút, thì 2 niên vụ mía
gần đây, sản xuất đường đã tăng khá, với sản lượng cao nhất từ trước đến nay.
So với niên vụ 2006-2007, số lượng mía chế biến của niên vụ 2007-2008 tăng
1,4 triệu tấn và số lượng đường sản xuất tăng 162.026 tấn. Một năm qua, lượng
đường luôn đáp ứng nhu cầu thị trường và chế biến công nghiệp trong
nước,không xảy ra thiếu đường cục bộ. Tuy nhiên, ông Võ Thành Đàng - Chủ
tịch Hiệp hội Mía đường VN - cho biết: Đối thủ cạnh tranh của đường VN trong
năm 2007 sẽ là đường nhập chính ngạch theo cam kết WTO và AFTA. Tiếp theo
là đường nhập lậu. Thời gian qua, có một số NM chế biến công nghiệp, tuy được
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) cấp phép NK 55.000 tấn đường theo
cam kết WTO. Song đến nay, các DN mới nhập về khoảng 10.000 tấn, chưa đủ
tác động mạnh đến đường nội, nên thị trường vẫn không xảy ra xáo trộn gì.
Trong khi đó, số lượng đường nhập lậu qua biên giới Tây Nam và miền Trung
vẫn xảy ra, nhưng chưa cơ quan nào thống kê số lượng bao nhiêu.

Theo cam kết WTO, năm 2008, VN phải mở cửa NK, với hạn ngạch tăng thêm
5%, nâng tổng số đường NK theo cam kết này thành 55.000 tấn + 5%. Thuế NK
không thay đổi (60% với đường tinh luyện, 25% với đường thô). Theo cam kết
AFTA, thuế NK giảm từ 30% năm 2007, xuống còn 20% vào năm 2008, với
đường tinh luyện lẫn đường thô. Tất cả những yếu tố trên đã và đang đặt ra cho
ngành mía đường VN nhiều thách thức. Không ít lao đao. Muốn tồn tại, duy trì
được sản xuất và ổn định thị trường như hiện nay, các DN, NM đường phải
không ngừng nỗ lực, giảm chi phí sản xuất, giữ giá thành đủ cạnh tranh với giá
đường thế giới. Một điều may mắn, trong cam kết WTO, phía VN còn được
quyền phân bổ hạn ngạch cho đối tượng sử dụng cuối cùng. Nên năm 2008,
cũng như năm 2007, nhằm bảo hộ ngành mía đường trong nước, Chính phủ chỉ
cấp phép cho các NM chế biến công nghiệp nhập đường tinh luyện (hoặc đường
cát trắng) làm nguyên liệu sản xuất. Nhờ vậy mà không xảy ra NK đường tràn
lan, gây ảnh hưởng đến sản xuất đường trong nước. Nhưng theo một số chuyên
gia, khi giá đường thế giới và Thái Lan giảm xuống bằng hoặc thấp hơn giá
đường trong nước, ngành đường VN sẽ gặp không ít lao đao
Vì vậy, ngay từ bây giờ, các DN, NM sản xuất đường phải hết mình cải tổ sản
Lương Thu Hà B14KTH
13
Kinh tế vi mô TS. Nguyễn Ngọc Quý
xuất, thiết bị công nghệ, quy trình sản xuất mới có thể tồn tại và cạnh tranh
bình đẳng. Bằng không, trong một thời gian không xa, đường NK theo cam kết
WTO và AFTA sẽ thật sự trở thành mối đe doạ cho đường nội.
V- Kết luận.
Nhìn chung, hiện tại ngành mía đường của nước ta cần có những bứoc
đi đột phá, có tính quyết định nhằm giải quyết hêt những thách thức mà thị
trường mía đường nói chung đã và sẽ gây nhiều sức ép cho ngành mía đường
Việt Nam.Tiềm năng nội sinh của ngành mía đường Việt Nam còn rất lớn, nếu
biết khai thác chắc chắn sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh và hội nhập một cách bền
vững.Nếu chúng ta tập trung đầu tư xây dựng các vùng mía tăng năng suất hiện

tại từ 50 tấn/ha lên 100 tấn/ha, nâng cấp thiết bị công nghệ và tay nghề công
nhân cùng công tác quản lý thì với 300.000 ha mía hiện có chúng ta cũng có thể
đạt được 3-3,5 triệu tấn đường/năm, tức là đạt mức 10-12 tấn đường/ha. Lúc đó,
Việt Nam sẽ không chỉ tự túc sản xuất đường ăn mà còn có thể trở thành nước
xuất khẩu đường mỗi năm từ 1-1,5 triệu tấn, thu về cho đất nước 500-600 triệu
USD/năm.

• NGUỒN TÀI LIỆU:
1)
2) />3) />Lương Thu Hà B14KTH
14

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×