Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

từ thực tế dùng từ của học sinh rút ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất việc dạy và học tiếng việt lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.97 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TỈNH THÁI NGUYÊN
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU - PHÒNG GIÁO DỤC TP. THÁI
NGUYÊN

s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
n¡M HäC 2007 - 2008
T ªn ®Ò tµ i :
TỪ THỰC TẾ DÙNG TỪ CỦA HỌC SINH
RÚT RA NHỮNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
VÀ ĐỀ XUẤT VIỆC DẠY VÀ HỌC TIẾNG
VIỆT LỚP 9 - TRUNG HỌC CƠ SỞ


LOẠI ĐỀ TÀI THUỘC LĨNH VỰC CHUYÊN MÔN: NGỮ VĂN
Họ và tên : NÔNG THỊ THU HÀ
Chức vụ : GIÁO VIÊN
Sinh hoạt tổ chuyên môn : KHOA HỌC XÃ HỘI
LỜI NÓI ĐẦU
“Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý” xin
được trích dẫn câu nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng để chúng ta có thể
thấy được tầm quan trọng và giá trị của nghề dạy học. Bởi nó chuyển tiếp
từ thế hệ này đến thế hệ kia rất lâu dài và không nhất thời. Nghề dạy học
không thể thiếu được trong bất kỳ xã hội nào, đặc biệt xã hội càng tiến bộ
văn minh bao nhiêu thì ngành giáo dục càng đòi hỏi phát triển bấy nhiêu.
Để giáo dục thế hệ trẻ ngày nay trở thành những người công dân
tốt, có đức, có tài phục vụ cho xã hội, cho đất nước, đòi hỏi sự nghiệp
giáo dục của nước nhà cũng từng ngày, từng giờ phải đổi mới: Về
phương pháp, hình thức truyền thụ kiến thức. Ngày càng nâng cao về chất
lượng giảng dạy tất cả các môn học trong nhà trường phổ thông, đáp ứng
nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Trong các môn khoa học ở
nhà trường phổ thông, Tiếng Việt là một bộ môn rèn luyện và phát triển


năng lực nói tốt, viết tốt và biết sử dụng ngôn ngữ giao tiếp một cách
chính xác. Nền móng của mục tiêu này là kiến thức từ ngữ Tiếng Việt.
Thực tế, Tiếng Việt đã trở thành một ngành học độc lập, và đã khẳng định
được vị trí học thuật cao và giá trị xã hội to lớn trong đời sống khoa học
và văn hoá Việt Nam. Nó đã được dạy như một môn học độc lập trong
trường THCS từ lớp 6 đến lớp 9, vừa được coi là môn học đối tượng, vừa
2
được ý thức như là môn học công cụ, học sinh phải nằm thành thạo để
học tốt các môn học khác.
Qua sự tìm tòi, học hỏi các đồng chí, đồng nghiệp đi trước và thực
tiễn giảng dạy, tôi xin được đóng góp, đề xuất một vài biện pháp góp
phần dạy môn học Tiếng Việt đạt hiệu quả.
Thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi tiến hành qua việc dự giờ, thăm
lớp. Qua trực tiếp giảng dạy và quan sát các em trong sinh hoạt giao tiếp
hàng ngày. Tiến hành điều tra nhận xét, đánh giá về cách dùng từ của học
sinh, tìm ra những nét đúng, sai. Từ đó rút ra nhận xét cho việc nghiên cứu
của mình.
Với tuổi nghề và năng lực còn hạn chế, chắc chắn đề tài không tránh
được những thiếu xót. Rất mong được sự góp ý của các đồng chí làm công
tác giảng dạy trong và ngoài nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Ngày tháng năm
Người thực hiện
NÔNG THỊ THU HÀ
3
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Không ngừng học tập, đó là nhận thức của con người vốn có từ lâu
đời và được tồn tại trong mọi xã hội. Con người luôn khám phá và không

ngừng nhận thức đó là nhân tố quan trọng để xã hội ngày càng phát triển.
Vậy sự nhận thức học hỏi đó là gì ? Đó là nhận thức qua học tập, qua sách
báo, qua văn học và giao tiếp hàng ngày.
Muốn trở thành một con người hoàn thiện, thì một trong những yếu
tố không thể thiếu đó là việc dùng chuẩn và đúng từ ngữ. Trong xã hội
luôn cần có nhu cầu giao tiếp, bởi không có giao tiếp thì không có cộng
đồng, không có xã hội. Ngôn ngữ là công cụ phương tiện quan trọng của
con người trong cuộc sống. Trong đó từ ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng
trong hệ thống ngôn ngữ, là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, nó không
thuộc kiến thức thượng tầng mà tồn tại trong bất kỳ giai cấp và xã hội nào,
có phạm vi sử dụng rộng rãi trong quá trình nhận thức và tư duy.
Môn học Tiếng Việt giúp học sinh nắm vững và sử dụng tốt từ ngữ
trong giao tiếp học tập. Muốn hiểu và nắm vững nội dung văn bản đều phải
bắt nguồn từ việc hiểu đúng từ ngữ. Bởi vậy, dạy từ ngữ có vai trò quan
trọng nhằm giúp cho các em sử dụng từ có văn hoá, có đủ vốn từ dùng làm
phương tiện giao tiếp và học tập.
Mục tiêu của nhà giáo dục là giúp học sinh nắm chắc, hiểu và sử
dụng từ ngữ chính xác, dó chính là yêu cầu phải đạt chất lượng cao, đòi hỏi
người giáo viên phải nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng các biện pháp thích
hợp để nâng cao chất lượng giảng dạy, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy
4
học của mình. Theo tôi đó là một việc làm rất thiết thực, bởi lẽ đó,
tôi đã chọn đề tài này làm nội dung nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ năm 1997 thực hiện việc xây dựng lại chương trình, biên soạn
lại sách giáo khoa các môn học và những đổi mới đồng bộ về giáo dục
THCS đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết về đổi mới phương pháp dạy
học. Ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn được tích hợp chặt
chẽ trong chương trình và tên môn học được gọi là Ngữ văn. Trong đó
phân môn Tiếng Việt đóng vai trò quan trọng, nhằm giúp học sinh lĩnh

hội kiến thức kỹ năng sử dụng ngôn ngữ qua việc dùng từ ngữ chính
xác, từ đó đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục hình thành một
xã hội phát triển cao hơn. Để nắm được nguồn gốc và tìm hiểu sâu về
phân môn này, phải nghiên cứu qua tài liệu ngôn ngữ học, qua thực tế
giảng dạy và qua cách học tập, sinh hoạt của học sinh.
Phân môn Tiếng Việt bao quát rộng lớn cho việc nghiên cứu trên
nhiều lĩnh vực, nó thúc đẩy con người từ nhận thức xã hội, xây dựng xã
hội bằng ngôn ngữ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ
thuật công nghệ, ngôn ngữ càng phải phát triển để đáp ứng nhu cầu của
thời đại.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phân môn Tiếng Việt nằm trong chương trình tích hợp cùng với
văn học và Tập làm văn, hướng tới mục đích chung, nhằm “Hình thành
nên con người có trình dộ trung học cơ sở” “Đó là những con người có
bản lĩnh, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành và có năng lực sử
dngj Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp”. Thông qua
phân môn Tiếng Việt học sinh có thêm các kiến thức để thẩm nhận,
phân tích và khai thác cái hay, cái đẹp trong văn bản văn học. Đồng thời
5
có thêm các kiến thức kỹ năng phục vụ cho việc viết các văn bản Tập
làm văn tốt. Nhằm giúp học sinh hình thành, sử dụng và tích luỹ vốn từ
một cách hoàn thiện, đầy đủ, chính xác. Tôi đã tiến hành nghiên cứu về
thực trạng dùng từ của học sinh qua các giờ học Ngữ Văn, qua hoạt
động tập thể, sinh hoạt vui chơi Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải
pháp cho thực trạng đó.
PHẦN II
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mỗi từ, mỗi ngữ cố định không chỉ là sự kiện ngôn ngữ mà còn là
những bản tổng kết cô đọng, xúc tích phong phú. Do đó dạy từ ngữ còn

phải đảm nhiệm việc cung cấp những hiểu biết, những kinh nghiệm về
thực tế thiên nhiên, xã hội, con người và đời sống tâm hồn trí tuệ của học
sinh. Những hiểu biết này không thể quy về một bộ môn khoa học nào,
song lại rất cần thiết cho xã hội. Chính vì vậy, môn Tiếng Việt là quá trình
hai chiều rèn luyện, một mặt tiếp thu kiến thức, mặt khác rèn luyện ngôn
ngữ. Cần làm cho học sinh nắm được mọi cách sử dụng biến hoá từ ngữ đề
trong thực tế giao tiếp học sinh sử dụng vốn từ sinh hoạt và sáng tạo. Phạm
vi nghiên cứu đề tài này là xoay quanh vấn đề dùng từ của học sinh, đưa ra
nhận xét về đặc điểm của phân môn này, nhằm khai thác để sử dụng cho
việc nghiên cứu đề tài về thực trạng dùng từ của học sinh.
1. Phương pháp quan sát
Quan sát thực tại trước đối tượng, cần nghiiên cứu. Phương pháp này
giúp ta hiểu được đối tượng có đặc điểm, thực chất gì ? Yếu tố nào giúp
tạo neê đối tượng đó với bản chất như vậy. Đối tượng đó phát triển theo
chiều hướng từ đâu. Dùng các giác quan, những lý luận để quan sát kỹ lưỡng.
6
Qua thực tế này nắm bắt được thực trạng của đối tượng. Từ đó vận
dụng lý luận để trao đổi vấn đề cần quan sát nghiên cứu. Cụ thể, tôi đã
quan sát về thực trạng dùng từ của học sinh trực tiếp qua giờ học Tiếng
Việt, qua sinh hoạt học tập của học sinh, cùng trao đổi, phỏng vấn, hỏi đáp
giữa cô và trò.
2. Phương pháp đàm thoại.
Tổ chức gặp gỡ, trao đổi giữa giáo viên và học sinh về một chủ đề đã
lựa chọn kỹ, dựa trên hệ thống câu hỏi đã được chuẩn bị trước nhằm
hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo nội dung đã định. Câu hỉ đàm thoại phải
tập trung khai thác những khía cạnh xung quanh nội dung đó nhằm nổi bật
vấn đề cần đàm thoại. Qua phương hướng này nắm được kết quả của việc
đàm thoại là phát huy tư duy, năng lực dùng từ của học sinh đồng thời phát
hiện ra những lỗi dùng từ các em thường mắc phải khi giao tiếp.
3. Phương pháp tổng hợp so sánh.

Phương pháp này tổng hợp lại những số liệu qua hai phương pháp
đàm thoại và quan sát của người điều tra. Phương pháp tổng hợp đem lại
kết quả khả quan, đánh giá được vấn để ở nhiều khía cạnh. Mức độ của
phương pháp này rộng vì đã tổng hợp đúc kết những vấn đề sâu sắc để
phân tích từ hai phương pháp trên.
II. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
1. Thực trạng dùng từ của học sinh.
Để việc nghiên cứu đề tài được chính xác, tôi xin đưa ra số liệu về
thực tế dùng từ của học sinh qua thực tế:
A. Dùng từ trong học tập.
7
* Bảng thống kê giờ Tiếng việt
số học sinh Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu từ Dùng từ sai
122 40% 25% 30% 5%
* Bảng thống kê giờ học giảng văn
số học sinh Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu từ Dùng từ sai
122 80% 10% 5% 5%
* Bảng thống kê giờ học tập làm văn (luyện nói tại lớp)
số học sinh Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác

Thiếu từ Dùng từ sai
122 75% 15% 7% 3%
B. Dùng từ trong sinh hoạt
- Quan sát trong giờ ra chơi. Qua nhóm học sinh nam lớp 9A, B để
tìm hiểu thực tế dùng từ của các em (nhóm 1).
Số
lần
Số HS Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu
từ
Dùng từ
sai
Lần 1 15 80% 10% 2% 8%
Lần 2 10 60% 30% 5% 5%
Lần 3 20 70% 15% 10% 5%
Nhóm 2: Gồm các em nam và nữ lớp 9C, D
Số Số HS Dùng từ Dùng từ chưa Thiếu Dùng từ
8
lần chính xác chính xác từ sai
Lần 1 25 70% 10% 10% 10%
Lần 2 20 80% 10% 10% 0
Lần 3 20 85% 10% 5% 0
Nhóm 3: Các em nữ lớp 9A, B, C
Số
lần
Số HS Dùng từ
chính xác

Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu
từ
Dùng từ
sai
Lần 1 25 85% 10% 2% 3%
Lần 2 20 90% 5% 3% 2%
Lần 3 15 90% 7% 2% 01%
Lần 4 20 87% 10% 1% 02%
Từ số liệu điều tra và thống kê trên, tôi thấy cần phải nêu lên một số
nguyên nhân va thực trạng dùng từ của học sinh
* Nguyên nhân của việc dùng từ chưa chính xác, bí từ:
Do khối lượng từ ngữ quá đồ sộ, không thể chuyển tải hết và triệt để
vào chương trình giảng dạy, nên hó chỉ được học từ ngữ qua các chủ đề cơ
bản. Do trong giờ một số học sinh chưa chú ý nghe giảng, chưa chịu khó
tham gia xây dựng bài. Do giáo viên chưa bao quát hết việc phát vấn học
sinh cùng tham gia xây dựng bài. Trong bài giảng với lượng kiến thức
nhiều giáo viên không có thời gian gợi ý được hết để tìm hiểu, bởi một đặc
thù, tiếng việt vấn nhiều và nhiều tầng nghĩa, trong khi đó khả năng tiếp
thu, cảm nhận của học sinh còn rất hạn chế. Do ở giá đình nhiều bậc phụ
huynh chưa thực sự quan tâm đến việc các em sử dụng từ ngữ. Khi các em
dùng từ chưa chính xác hoặc bí từ không hướng dẫn hoặc kịp thời uốn nắn
sai xót cho các em.
* Nguyên nhân của việc đùng từ sai, thiếu từ.
Do các em có thói quen nói theo những lời nói sai lệch nghĩa, phóng
tác nghĩa, chuyển nghĩa theo hướng không lành mạnh từ bạn bè, từ những
9
tầng lớp xã hội xung quanh mà các em có dịp tiếp xúc. Các em chưa phân
biệt và phân tích được lời nói văn hoá và lời nói thiếu văn hoá, đầu là đúng

đâu là sai.
- Do các em còn mải chơi và hiếu động, hiếu thắng nên các em hay
sử dụng lối nói tuỳ tiện, ngẫu hứng không văn hoá để giao tiếp.
- Một phần nhỏ nguyên nhân mà ta không thể nói đến đó là môi
trường xã hội mà các em sống không lành mạnh, nên vẫn còn xảy ra hiện
tượng dùng từ không văn hoá của học sinh.
Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến thực trạng dùng từ chưa
chính xác, dùng sai từ, thiếu từ của học sinh.
III. ĐÁNH GIÁ NGUYÊN NHÂN.
Cở sở mang lại ưu điểm của việc dùng từ chính xác là môi trường
trường học, đây là môi trường giáo dục tốt nhất cho các em học sinh, nơi
ươm mầm cho những măng non tương lai của đất nước. Ngay từ buổi đầu
tiên đến trường các em được các thầy giáo, cô giáo tận tình chỉ bảo, uốn
nắn về cách giao tiếp, đặc biệt là trong các giờ học đạo đức giáo viên đax
liên hệ từ bài học đến thực tiễn nhằm giúp các em tự ý thức được mình
trong lời ăn, tiếng nói, trong nếp sinh hoạt, sử dụng ngôn ngữ. Các phong
trào thi đua trong nhà trường cũng là một động lực để thúc đẩy phát huy
cách dùng từ chuẩn, mẫu mực cho các em như phong trào: “Nói lời hay,
làm việc tốt”.
Gia đình cũng là yếu tố quan trọng trong việc giáo dục học sinh ở gia
đình các em được cha mẹ quan tâm chỉ bảo trong cách nói, cách giao tiếp.
Ví dụ: Bối cảnh hai anh em chơi đùa cùng nhau nhưng vì một lý do
nào đó hai anh em cãi nhau với những lời lẽ thiếu văn hoá, cha mẹ thấy
tình thế như vậy khuyên và phân tích ngay lời nói thiếu văn hoá của chúng
là không đúng, không nên. Qua lời khuyên răn đó, các em đã nhận ra sai
xót của mình, những lời nói những ngôn ngữ không nên dùng, các em tự ý
thức được hành vi và lời nói của mình.
10
Học sinh THCS là lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng cho nên bất cứ
một sự kiện nào tác động đến các em có thể tìm hiểu và so sánh ngay. Mặt

khác, các em dễ bắt chước, dễ hoà nhập hay tin người lớn, làm theo người
lớn. Do vậy đến trường, lớp đựoc thày cô dạy bảo, uốn nắn và học theo
gương bạn tốt, các em sẽ có ý thức lời nói của mình.
Trong việc dùng từ chưa chính xác và còn bí từ của học sinh có
những nguyên nhân đem lại ưu điểm và nguyên nhân đem lại nhược điểm.
* Nguyên nhân đem lại ưu điểm.
- Hiện nay, công tác giáo dục là yếu tố quan trọng nhất trong việc
đào tạo con người. Bởi vậy, trong các tiết học các em đều được sử dụng từ
ngữ ở những phân môn khác nhau, và đặc biệt là phân môn Tiếng việt. Các
em được học về từ, về cấu trúc câu và được học tập theo phương pháp đổi
mới, với thiết bị dạy học minh hoạ hiện đại giúp các em khắc sâu từ ngữ,
hình ảnh. Giáo viên hướng dẫn về cấu trúc từ ngữ kỹ lưỡng nên các em dễ
nhớ.
Mặt khác, giáo viên tận tình chỉ bảo khuyến khích các em dùng từ
chuẩn. Với tấm lòng tận tuỵ, nhiệt tình giảng dạy, say mê với nghề, cập
nhật tốt phương pháp dạy học đổi mới, nên đã nâng cao chất lượng giảng
dạy. Kết quả phần lớn học sinh đã dùng từ chính xác.
- Phía gia đình: Do có điều kiện, có trình độ, các em thường xuyên
được cha mẹ dạy dỗ, uốn nắn trong học tập và trong giao tiếp hàng ngày.
- Phía học sinh: Do các em ham hiểu biết, nhận khó học hỏi, đọc các
tác phẩm hay, nổi tiếng. Trong giờ học, các em chú ý tiếp thu kiến thức tốt.
Qua quá trình học tập các em nắm bắt, tích luỹ được vốn từ phong phú, từ
đó giúp các em có khả năng tốt trong giao tiếp xã hội.
* Nguyên nhân dẫn đến nhược điểm:
- Số lượng kiến thức trong một tiết dạy nhiều do vậy giáo viên khó
sát sao trực tiếp bao quát hết lượt học sinh trong một giờ giảng. Trong lúc
phát vấn học sinh dùng từ chưa chính xác, giáo viên chưa kịp thừi uốn nắn
11
ngay. Phương pháp truyền đạt của một số ít giáo viên chưa khoa học, chất
lượng tiết dạy chưa cao.

- Học sinh: Với khối lượng kiến thức lớn, sự tiếp thu chú ý của các
em chưa cao, học sinh chưa kịp hiểu từ của bài học trước đã phải làm quen
với từ ngữ ở bài học sau. Do các em còn mải chơi, chưa tập trung trong giờ
học, về nhà không chịu khó học bài, không chịu rèn luyện ngôn ngữ trong
giao tiếp.
C. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC TẬP CỦA
HỌC SINH.
1. Thực trạng giảng dạy của giáo viên.
Với cơ cấu đặc trưng của phân môn Tiếng việt đó là dạy từ, dạy ngữ,
cấu trúc câu, sử dụng câu theo mục đích nói cho đúng, hay và ý nghĩa.
Giáo viên cần phải vận dụng khéo léo linh hoạt, dạy từ ngữ phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh. Ở trường THCS Nguyễn Du, bản thân tôi
cũng như các đồng nghiệp đều được trang bị đầy đủ và có bài bản về
phương pháp dạy học văn nói chung và dạy Tiếng việt nói riêng. Chúng tôi
luôn trau dồi kiến thức, cập nhật thông tin để tăng thêm độ phóng phú,
sáng tạo và sức hấp dẫn của mỗi giờ giảng. Đặc biệt, chúng tôi chú ý nhiều
tới việc dạy từ, phân tích từ, lớp từ, ngữ, giảng ý nghĩa vận dụng liên hệ
nhằm trang bị cho học sinh các đơn vị ngôn ngữ của Tiếng việt (từ, câu,
các biện pháp tu từ vựng, cú pháp, các kiểu văn bản ) nắm được khái
niệm giao tiếp chủ yếu là ngữ cảnh, nhân vật giao tiếp, mục đích giao
tiếp trang bị cho học sinh đầy đủ cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trên
cơ sở vận dụng tri thức lí thuyết một cách chủ động vào các lĩnh vực giao
tiếp khác nhau trong đời sống và trong học tập.
Đó cũng là một trong những nhân tố quan trọng trong việc phát triển
nhân cách và tri thức cho học sinh. Tuy vậy, trong phương pháp giảng dạy
của giáo viên đôi lúc còn bộc lộ những mặt hạn chế của mình, đó là chưa
12
thực sự quan tâm đến chất lượng học của học sinh, chưa phát huy được hết
năng lực của các em trong học tập.
2. Thực trạng học tập của học sinh

Do tính hiếu động và khả năng tiếp thu kiến thức chưa cao, các em
chưa nhận thức được học tập là mục tiêu chính mà chỉ là sự bắt buộc.
Nhưng được sự giáo dục, giúp đỡ của giáo viên các em dần dần hình thành
được khả năng tiếp thu học tập, học theo gương bạn bè học giỏi, chịu khó
tìm hiểu những vấn đề về con người, xã hội thiên nhiên qua các giờ học.
Nhìn chung các em học sinh 3 lớp 9A, 9B, 9C có ý thức học tập tốt, yêu
thích học môn Văn, đặc biệt là môn Tiếng Việt. Cụ thể các em đã biết vận
từ ngữ trong viết văn, thơ, sáng tác
IV. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ĐỂ KHẮC PHỤC TÌNH
TRẠNG DÙNG TỪ CHƯA CHUẨN CỦA HỌC SINH VÀ DẠY TỐT
MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 9 TRUNG HỌC CƠ SỞ.
Với thực trạng sử dụng từ ngữ của học sinh hiện nay, nhất là trong
giai đoạn bùng nổ thông tin. Vấn đề học và sử dụng ngôn ngữ trở nên hết
sức quan trọng.
Ở nhà trường giáo viên rất quan tâm nhiệt tình say sưa dạy dỗ các
em nhưng vẫn còn thiếu sót, bởi chưa bao quát hết học sinh, nên vẫn còn
tồn tại thực trạng học sinh dùng từ chưa chuẩn, bí từ là một giáo viên dạy
Văn, tuổi đời và tuổi nghề còn non trẻ, kinh nghiệm tích luỹ còn hạn chế.
Song tôi mạnh dạn đưa ra một số đề xuất về việc dạy môn Tiếng Việt lớp 9
đạt hiệu quả cao.
* Giáo viên là người truyền đạt kiến thức tới học sinh. Nhiệm vụ
hàng đầu là phải trang bị cho mình vốn tri thức , kỹ năng vững vàng.
- Truyền đạt kiến thức thông qua ngôn ngữ giảng dạy phải trong
sáng, mạch lạc, phải làm một tấm gương về cách sử dụng từ ngữ mẫu mực
để học sinh noi theo. Một yếu tố quan trọng không thể thiếu đó là tâm
huyết với nghề nghiệp, luôn quan tâm theo dõi tới học sinh, chú ý sát sao
13
các em trong thời gian lên lớp. Phải chuẩn bị chu đáo, công phu cho một
giờ dạy. Phải có một hệ thống câu hỏi thật chu đáo, khoa học, chặt chẽ,
logíc và phải đảm bảo tính vừa sức với học sinh, phù hợp với sự nhận thức

của các em.
- Khi giảng dạy giáo viên phải kết hợp hài hoà giữa hỏi và giảng giải.
Trong một tiết học Tiếng Việt, sau khi giải nghĩa và tìm hiểu cấu tạo từ ,
giáo viên có thể đưa ra một số câu mẫu chuẩn, hoặc liên hệ từ các tác
phẩm nghệ thuật, có sử dụng từ loại đó để học sinh quan sát, gợi ý cho học
sinh đặt câu, sử dụng câu dựng đoạn văn Giải nghĩa, tìm nghĩa của câu,
tìm từ ngữ đối lập, tương đương hoặc đồng nghĩa, khác nghĩa làm rõ
những sắc thái khác nhau của từ trong các ngữ cảnh khác nhau. Giúp học
sinh phát hiện ra rõ ràng. Từ đó học sinh biết vận dụng để giao tiếp trong
sinh hoạt học tập.
Trong một tiết dạy Tiếng Việt giáo viên phải khai thác kỹ, liên hệ tốt,
giúp cho học sinh hiểu bài và liên hệ với cuộc sống hàng ngày giúp cho
các em phát huy được khả năng giao tiếp.
1. Truyền đạt kiến thức trong giờ dạy Tiếng Việt
- Phân môn Tiếng Việt nằm trong chương trình tích hợp cùng với
văn học và Tập làm văn có tên gọi là Ngữ Văn, hướng tới mục đích chung
nhằm: “HÌnh thành những con người có bản lĩnh, có tư duy sáng tạo, có
năng lực thực hành và có năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để
tư duy giao tiếp”.
- Để đảm bảo tính tích hợp, phân môn Tiếng Việt bao gồm các yếu tố
lý thuyết nằm trong hệ thống văn bản chung và được trình bày hướng tới
phần văn học và Tập làm văn. Cụ thể thông qua phân môn Tiếng Việt giáo
viên giúp học sinh có thêm kiến thức thẩm nhận phân tích và khai thác cái
hay, cái đẹp, đồng thời có thêm các kiến thức kỹ năng phục vụ cho việc
viết các văn bản theo yêu cầu của Tập làm văn.
14
a) Về tri thức:
Nắm được các đơn vị ngôn ngữ của Tiếng việt (từ, câu, các biện
pháp tu từ, từ vựng, cú pháp, các kiểu văn bản, các phương châm hội thoại,
sự phát triển của từ vựng, trau dồi vốn từ, phép phân tích và tổng hợp, các

thành phần biệt lập, nghĩa tường minh, hàm ý )
b) Về kỹ năng.
Thực hành đầy đủ cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trên cơ sở vận
dụng các tri thức lý thuyết một cách chủ động vào các lĩnh giao tiếp khác
nhau trong đời sống, trong học tập.
c) Về tích hợp.
Phương châm của việc tích hợp là nhằm hướng cho học sinh, bên
cạnh hệ thống tri thức riêng của từng phân môn, phải nắm được những tri
thức có quan hệ với nhau theo chiều ngang. Quan trọng hơn là học sinh
giúp học sinh biết vận dụng những tri thức của Tiếng việt vào việc thẩm
nhận cái hay, cái đẹp, của văn chương bộ môn nghệ thuật ngôn từ. Đồng
thời vận dụng các kỹ năng, tri thức về Tiếng việt vào việc tạo lập các loại
hình văn bản, phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong đời sống hằng ngày và
trong học tập.
Định hướng như vậy buộc người dạy và người học phải luôn quan
tâm đến ngữ cảnh không được tách các ngữ liệu ngôn ngữ khỏi văn cảnh
khỏi văn bản. Cần triệt để khai thác các yếu tố trong văn bản văn học để
học Tiếng việt. Và ngược lại, từ các kiến thức về Tiếng việt vận dụng để
bình giá, phát hiện vẻ đẹp của văn học. Cũng như vậy, đối với quan hệ
giữa phân môn Tiếng việt và Tập làm văn.
Trong quá trình dạy học Tiếng việt có thể áp dụng nhiều phương
pháp khác nhau. Song theo tôi một số phương pháp sau là tối ưu hơn cả:
Phân tích ngôn ngữ, dùng mẫu, giao tiếp là phương pháp đặc thù cho việc
dạy học Tiếng việt.
* Phương pháp phân tích ngôn ngữ:
15
Là phương pháp học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên vạch ra
những hiện tượng ngôn ngữ nhất định từ các tài liệu ngôn ngữ cho trước,
quy tắc hiện tượng đó vào một phạm trù nhất định và chỉ rõ đặc trưng của
chúng. Giáo viên lựa chọn các cứ liệu ngôn ngữ có sẵn theo định hướng

bài học, yêu cầu học sinh quan sát, phân tích chúng để tìm ra những đặc
điểm đặc trưng cho hiện tượng ngôn ngữ. Nó có tác dụng kích thích sự
sáng tạo, chủ động của học sinh trong quá trình tìm hiểu ngôn ngữ, giúp
học sinh hiểu sâu sắc và nhớ kỹ bài học hơn. Và đồng thời có tác dụng rèn
luyện tư duy cho học sinh nhằm thực hiện nhiệm vụ rèn luyện ngôn ngữ
gắn với rèn luyện tư duy. Sử dụng phương pháp này đáp ứng được yêu cầu
chủ động, sáng tạo đối với học sinh. Phương pháp phân tích ngôn ngữ có
thể được áp dụng hầu hết trong tất cả những bài cung cấp kiến thức mới.
Các thao tác cơ bản trong phân tích ngôn ngữ:
- Phân tích phát hiện: Trên cơ sở tài liệu mẫu, giáo viên nêu các câu
hỏi để học sinh quan sát, tìm ra đặc điểm của hiện tượng từ đó rút ra nhận
xét kết luận về hiện tượng ngôn ngữ được học.
Ví dụ: Dạy bài sự phát triển của từ vựng, giáo viên chuẩn bị một
lượng cứ liệu vừa đủ phù hợp với nội dung học tập. Sự phát triển của từ
vựng cũng như ngôn ngữ nói chung được thể hiện trên cả 3 mặt: Ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp.
Bài học này đề cập đến sự phát triển của Tiếng việt về mặt từ
vựng. Sự phát triển của từ vựng diễn ra theo hai cách: Sự phát triển
nghĩa của từ ngữ và phát triển số lượng của các từ ngữ.
Bước 1

:

Yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã học ở lớp 8 để giải
thích nghĩa của từ Kinh tế trong bài “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm
tác” và trả lời câu hỏi.
H: Từ Kinh tế trong bài “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác có
nghĩa là gì”
16
H: Ngày nay chúng ta có thể hiểu nghĩa từ này theo nghĩa như cụ

Phan Bội Châu đã dùng hay không ?
H: Qua đó em nhận xét gì về nghĩa của từ.
Nghĩa của từ không phải bất biến. Nó thay đổi theo thời gian. Có
những nghĩa cũ bị mất đi và có những nghĩa mới được hình thành.
Hoặc yêu cầu học sinh xác định trong trường hợp có nghĩa chuyển
thì nghĩa chuyển đó được hình thành theo phương thức chuyển nghĩa
nào (từ xuân chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ; từ tay chuyển nghĩa
theo phương thức hoán dụ ).
- Phân tích chứng minh: Thao tác phân tích chứng minh được sử
dụng để củng cố kiến thức, sau khi học sinh đã khám phá các hiện tượng
ngôn ngữ và sơ bộ có khái niệm về chúng.
Nội dung của thao tác này như sau: Giáo viên đưa ra các tài liệu có
chứa hiện tượng ngôn ngữ vừa học yêu cầu học sinh vận dụng những tri
thức mới học để phát hiện và chứng minh. Thao tác này cần được lặp đi
lặp lại một số lần vừa đủ để học sinh có thể nắm và áp dụng được kiến
thức mới học vào hoạt động ngôn ngữ.
- Phân tích - phán đoán: Khi học sinh đã nắm vững kiến thức cần
học giáo viên có thể áp dụng thao tác phân tích - phán đoán, cũng giống
như thao tác phân tích - chứng minh thường được dùng để củng cố và
khắc sâu kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên nó khác thao tác phân tích -
chứng minh ở chỗ không yêu cầu học sinh phải tái hiện lại định nghĩa
mà chỉ yêu cầu các em phát hiện nhanh và đúng hiện tượng ngôn ngữ.
Nói cách khác, thao tác phân tích - phán đoán chỉ yêu cầu các em chỉ ra
hiện tượng mà không cần nói tại sao. Nhờ điểm khác biệt đó, nên thao
tác phân tích - phán đoán có lợi thế là tạo được những điều kiện để học
sinh luyện tập nhiều hơn và nhanh chóng hình thành kỹ năng phát hiện
các hiện tượng ngôn ngữ. Song cũng cần ghi nhớ rằng trước khi áp dụng
17
thao tác phân tích - phán đoán cần thực hiện thao tác phân tích - chứng
minh. Và chỉ khi thật tin tưởng vào khả năng chứng minh hiện tượng

ngôn ngữ của học sinh mới chuyển sang phân tích - phán đoán.
- Phân tích - Tổng hợp: Thao tác phân tích - Tổng hợp yêu cầu học
sinh biết vận dụng những kết quả có được từ những bước trên vào hoạt
động thẩm nhận cái đẹp văn học hoặc sử dụng chúng phù hợp trong
giao tiếp hàng ngày nói cùng như viết. Các bài luyện tập tìm nghĩa của
từ trong câu, văn bản hay phân tích giá trị sử dụng của các biện pháp tu
từ, phân tích lỗi là nhằm vào mục đích hướng kiến thức lý thuyết đến
thực tiễn sử dụng ngôn ngữ.
* Phương pháp rèn luyện theo mẫu.
- Học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên tiến hành phân tích để
nắm vững và sản sinh lời nói theo những mẫu ngôn ngữ cần phải rèn
luyện. Khác với phương pháp phân tích là phân tích lặp lại quá trình
nghiên cứu, phương pháp rèn luyện theo mẫu lặp lại quá trình học nói
của con người, việc rèn luyện theo mẫu là quá trình tạo ra lời nói một
cách có ý thức trên cơ sở hiểu và nắm vững các mẫu lời nói.
* Phương pháp giao tiếp
Là phương pháp học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên vận
dụng các kiến thức đã học để tiến hành thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp
khác nhau để thực hiện tốt các phương pháp giao tiếp cần phải gắn các
nội dung dạy học với các nhân tố giao tiếp.
- Nhân vật giao tiếp là người tham gia trong cuộc giao tiếp được
chia làm 2 phía: Phát và Nhận. Quan hệ giữa người phát và người nhận
có ảnh hưởng nhiều đến nội dung và hình thức ngôn ngữ được sử dụng.
18
Có thể thay đổi vai của người nhận để học sinh diễn đạt các nội dung
giao tiếp theo các cách khác nhau phù hợp với vai trò giao tiếp.
- Nội dung giao tiếp: Là hiện thực khách quan được phản ánh
trong lời của các nhân vật giao tiếp. Thay đổi nội dung giao tiếp sẽ làm
thay đổi hình thức diễn đạt. Ví dụ: Cùng nói về cái chết, nhưng nếu đó
là cái chết cao quý của các chiến sĩ cách mạng thì phải dùng từ hy sinh,

còn nếu đó là cái chết vô nghĩa thì dùng từ bỏ mạng Vì thế cũng có thể
dùng cách thay đổi nội dung được phản ánh để học sinh diễn đạt sao cho
phù hợp.
- Hoàn cảnh giao tiếp: Là hoàn cảnh diễn ra hoạt động giao tiếp.
Người ta thường phân biệt hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao
tiếp hẹp. Hoàn cảnh giao tiếp rộng về thực chất không tham gia trực tiếp
vào cuộc giao tiếp mà tham gia dưới dạng những hiểu biết, những kinh
nghiệm về chúng có trước hoạt động giao tiếp trong tư duy của người
Phát, người Nhận. Hoàn cảnh giao tiếp hẹp ảnh hưởng nhiều đến nội
dung và hình thức ngôn ngữ. Cùng về một nội dung nhưng nếu hai học
sinh nói chuyện với nhau ngoài sân trường sẽ có hình thức diễn đạt khác
với cách diễn đạt trong giờ sinh hoạt lớp. Do vậy, cũng có thể thay đổi
hoàn cảnh giao tiếp để yêu cầu học sinh rèn luyện những cách diễn đạt
khác nhau phù hợp.
- Cách thức giao tiếp: Là hình thức diễn ra hoạt động giao tiếp trực
tiếp hay gián tiếp, ở dạng nói hay dạng viết cách giao tiếp cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến nội dung và hình thức diễn đạt bằng ngôn ngữ. Vì
thế cũng có thể thay đổi cách thức để yêu cầu học sinh có những cách
diễn đạt phù hợp.
- Mục đích giao tiếp: Là nhân tố giữ vai trò quan trọng trong hoạt
động giao tiếp, nó chi phối tất cả những nhân tố giao tiếp còn lại: Nhân
vật, nội dung, hoàn cảnh và cách thức giao tiếp. Khi áp dụng phương
19
pháp giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt lớp 9 phải chú ý thích đáng đến
nhân tố này.
2. Sử dụng các phương tiện dạy học:
Giá trị lớn nhất của phương tiện dạy học nằm ở sự tác động của
chúng tới các giác quan, đặc biệt là thính giác, thị giác. Các nhà nghiên
cứu đã tổng kết mức độ ảnh hưởng của các giác quan tới quá trình tiếp
thu tri thức như: 20% qua những gì nghe được; 30% qua những gì nhìn

được ; 50% qua nhìn và nghe ; 80% qua nói ; 90% qua nói và làm.
Điều này khẳng định cần thiết có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe
nhìn trong các giờ học Tiếng Việt. Sự hỗ trợ của các phương tiện nghe
nhìn mang lại hiệu quả cao cho các giờ học như: Nêu vấn đề, tìm kiếm
thông tin, mở rộng kiến thức, làm bài tập, củng cố, ôn tập và hệ thống
hoá kiến thức. Kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết, kích thích hứng
thú học tập.
+ Bảng viết: Là phương tiện truyền thống, trình bày bảng là nghệ
thuật sao cho học sinh có thể quan sát được, ghi chép một cách hệ thống,
đầy đủ theo tiến trình nội dung bài học. Cần có bảng phụ để giáo viên
viết, vẽ sơ đồ câu hoặc để học sinh làm bài tập.
+ Máy chiếu: Là dụng cụ tương đối phổ biến, các nội dung ghi nhớ
đưa lên máy chiếu cần chuẩn bị chu đáo, viết rõ ràng để học sinh quan
sát, nhằm tiết kiệm thời gian cho những phần tổng kết và lưu ý, nhấn
mạnh
+ Phim và các dương bản, vi deo, tranh ảnh: Được lựa chọn công
phu phù hợp với nội dung bài học và mục đích từng hoạt động, giáo viên
phải đầu tư thời gian, chiều sâu kiến thức vì giáo án điện tử sẽ có tác
động tích cực đến thị giác, thính giác tốt hơn cho việc nắm bắt kiến
thức. Có tác dụng tích cực của kênh chữ, kênh hình, kênh tiếng đến quá
20
trình tiếp nhận và vận dụng các kiến thức kỹ năng học Tiếng Việt của
học sinh.
21
PHẦN III
KẾT LUẬN
Trên đây là một số ý kiến tôi đã rút từ thực tiễn giảng dạy môn ngữ
Tiếng Việt lớp 9. Từ bài học áp dụng vào thực tiễn tôi đã thu được những
kết quả nhất định, đồng thời rút ra được những bài học bổ ích cho việc dạy
và học.

1. Không ngừng học hỏi nghiên cứu, rèn luyện nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ
2. Luôn cập nhật thông tin, nghiên cứu tư liệu làm phong phú bài
giảng.
3. Sử dụng tối đa và triệt để thiết bị dạy học hiện đại, tăng khả năng
tiếp nhận kiến thức của học sinh
4. Kịp thời động viên khuyến khích học sinh, phát huy tính tích cực
sáng tạo của các em.
5. Phối hợp chặt chẽ với tổ chuyên môn, học hỏi đồng nghiệp để
nâng cao tay nghề.
6. Kết hợp với phụ huynh học sinh để phối hợp giáo dục, tạo điều
kiện đầu tư thời gian học tập, chuẩn bị đồ dùng học tập cho con em mình.

Ngày tháng năm
Người viết
NÔNG THỊ THU HÀ
22
Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU












HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC











23

×