PHÒNG GIÁO DỤC&ĐÀO TẠO ĐỒNG XUÂN
TRƯỜNG TIỂU HỌC XUÂN QUANG I
**@@@**
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM :
DẠY LỒNG
GHÉP
TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH DÂN
TỘC
NĂM HỌC: 2009 - 2010
NGƯỜI THỰC HIỆN: HUỲNH TẤN HỒNG
1
PH Ầ N MỞ ĐẦU
I - LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
âng cao chất lượng giáo dục là việc làm cấp thiết trong các
nhà trường hiện nay. Đối với trườngchúng ta, đòa bàn có
hai đối tượng học sinh: học sinh kinh và học sinh dân tộc
thiểu số. Với điều kiện kinh tế khó khăn và mặt bằng dân trí thấp,
nhận thức của các bậc phụ huynh học sinh chưa caoDo vậy, để đẩy
mạnh phong trào học tập trong nhà trường và ở đòa phương thì người
thầy giáo đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt là giáo viên
chủ nhiệm lớp, họ là những người trực tiếp cung cấp tri thức, góp phần
hoàn thiện nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh, đồng thời cũng
là người giúp các em nhận thức sâu sắc về học tập, rèn luyện đạo đức,
góp phần quan trọng trong việc dạy TV cho học sinh DTTS.
N
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, nhất thiết người giáo viên chủ
nhiệm lớp phải có một đònh hướng và những phương pháp rõ ràng,.
Việc sử dụng các biện pháp đó ra sao? Và đem lại kết quả như mong
muốn hay chưa? Với vai trò là người giáo viên chủ nhiệm ở trường có
nhiều học sinh dân tộc ít người, tôi nhận thấy giúp học sinh có ý thức,
vui thích trong việc đến trường đến lớp là hết sức quan trọng và cần
thiết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng tốt các cuộc vận
động, các phong trào được ngành phát động. Tôi xin trình bày lại với
hy vọng được cùng các bạn đồng nghiệp trao đổi và rút ra những biện
pháp thích hợp trong công tác
II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nêu ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến
thức liên tục, vững chắc để tiếp tục học tiếp các lớp trên,trên cơ sở
nắm vững tiếng Việt
III – ĐỐI TƯNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Dạy lồng ghépTV cho học sinh dân tộc
thiểu số của lớp chủ nhiệm.
2. Khách thể nghiên cứu: Các hoạt động của giáo viên, học sinh,
phụ huynh học sinh và những vấn đề có liên quan đến dạy lồng ghép
TV cho học sinh dân tộc thiểu số trong nhà trường.
2
IV – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu về
lồng ghép dạy tiếng Việt cho HSDT, xây dựng cơ sở lí luận cho các
biện pháp nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: thể nghiệm các biện pháp
đã nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê toán học:
- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như
điều tra, phỏng vấn, quan sát, …
V – PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài này, tôi chỉ nghiên cứu, đề xuất một số biện
pháp lồng ghép dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số lớp chủ
nhiệm lớp 5E-phân trường Suối cối 2-Trường TH Xuân Quang I nơi
tôi đang công tác.
NỘI DUNG
A*CƠ SỞ LÍ LUẬN
A*CƠ SỞ LÍ LUẬN
.
I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ
1) Đặc điểm về nhận thức
Nhìn chung, các nét tâm lí như ý chí rèn luyện, óc quan sát, trí
nhớ, tính kiên trì, tính kỉ luật, của học sinh dân tộc chưa được chuẩn
bò chu đáo. Bên cạnh đó, nhận thức cảm tính phát triển khá tốt: cảm
giác, tri giác của các em có những nét độc đáo. Ttuy nhiên nó chưa
được hoàn thiện: cảm tính, mơ hồ không thấy được bản chất của sự vật
hiện tượng.
Khả năng phân tích, tổng hợp và khái quát phát triển chậm, khả
năng tư duy (thao tác tư duy) nói chung và khả năng tiến hành các thao
tác trí óc nói riêng hình thành khó khăn. Quá trình tư duy của các em
chỉ đạt mức trung bình. Từ những đặc điểm tâm lí nói trên, có thể
thấy: khả năng tư duy kinh nghiệm đạt mức cao so với trình độ chung
lứa tuổi; song khả năng tư duy lí luận còn thấp so với yêu cầu (thiếu
toàn diện, hệ thống). Tri thức thói quen được hình thành bằng con
đường kinh nghiệm ảnh hưởng đến quá trình tiến hành các thao tác trí
tuệ của các em: khả năng ghi nhớ có ý thức, có chủ đònh còn yếu. Đặc
3
biệt, về ngôn ngữ dùng quen tiếng mẹ đẻ, trong khi đó quá trình nhận
thức, tiếp thu tri thức ở trường lại diễn ra bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
Như vậy, xét về mặt giao tiếp các em gặp khó khăn.
Học sinh dân tộc có ưu điểm về thể chất, thể lực, có tính cách
riêng, yêu lao động, q thầy trò, tình bạn, trung thực, dũng cảm, bên
cạnh những học sinh rụt rè, nhút nhát, tự ty, tự ái, nhiều học sinh có
lòng vò tha, ham hiểu biết, đặc biệt là ý chí phấn đấu. Trong lối sống
các em không bò gò bó, có những thói quen không tốt (như tác phong
chậm chạp, thiếu ngăn nắp, thiếu vệ sinh, ) ảnh hưởng đến công tác
giáo dục khi các em theo học ở trường.
Cần trang bò cho học sinh ngôn ngữ phổ thông để mở rộng phạm
vi nhu cầu giao tiếp, hiện thực hoá những nhu cầu đặc trưng lứa tuổi và
những nét riêng trong nhu cầu của học sinh dân tộc hiện nay.
2) Tính tự ty, tự ái là những đặc điểm cơ bản của học sinh dân tộc
ít người
Tính tự ty cộng với khả năng diễn đạt tiếng phổ thông còn hạn
chế, nhu cầu hưởng thụ đời sống tinh thần quá thấp so với học sinh
kinh, tạo cho các em tâm lí khó hoà đồng.
Đồng thời học sinh dân tộc có tính tự ái cao, nếu các em gặp phải
những lời phê bình nặng nề hoặc khi kết quả học tập kém, quá thua
kém bạn bè một vấn đề nào đó trong sinh hoạt, bò dư luận, bạn bè chê
cười … các em dễ xa lánh thầy giáo và bạn bè hoặc bỏ học. Nếu giáo
viên không hiểu rõ sẽ thiếu nhiệt tình cần thiết để tìm ra phương
hướng và biện pháp giải quyết những vướng mắc của các em.
Ngoài ra, trong học sinh dân tộc ít người, thường các em ít nói, e
dè, dễ xấu hổ, thiếu những hoài bão, ước mơ cần thiết. Cho nên những
tác động ngoại cảnh dễ làm cho những em này bỏ học, lấy chồng sớm
Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm tâm sinh lí, cá tính, năng lực,
hoàn cảnh gia đình … của từng học sinh lớp chủ nhiệm. Quan tâm nhiều
hơn đến học sinh là người đồng bào.
Giáo dục và cảm hoá được học sinh tích cực tham gia vào việc
học tập và các sinh hoạt tập thể.
CƠ SỞ THỰC TẾ
CƠ SỞ THỰC TẾ
I. TÌNH HÌNH CHUNG CỦA TRƯỜNG
4
. Cơ sở vật chất, thiết bò đồ dùng dạy học ngày càng được trang bò
đầy đủ, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giáo
viên và học sinh. Trường có hai đối tượng học sinh học chung: học sinh
kinh và học sinh đồng bào dân tộc thiểu số Tỷ lệ học sinh đồng bào dân
tộc ít người chiếm khoảng 50%.riêng phân trường Suối Cối gần 100%
Đội ngũ giáo viên được đào tạo chuẩn 100%, hầu hết các thầy cô
giáo đều yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình giảng dạy. Tuy nhiên, đội ngũ
giáo viên không hiểu nhiều ngôn ngữ của dân tộc Chăm nên có khó
khăn trong việc dạy tiếng Việt cho HS DT
Qua những năm học gần đây, nhà trường đã thực hiện dạy lồng
ghép TV cho HSDT và đã đạt kết quả nhất đònh.
II. VỀ PHÍA PHỤ HUYNH VÀ HỌC SINH ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC THIỂU SỐ
1. Đối với phụ huynh
Do trình độ dân trí thấp, điều kiện kinh tế kém phát triển, đời
sống văn hoá tinh thần chỉ bó hẹp, cục bộ trong thôn làng, ít được giao
lưu tiếp xúc với văn hóa bên ngoài. Còn nặng về phong tục tập quán,
sống cuộc sống tự do.
2Đối với HS
Một số ít HS đọc chậm và sai nên việc tiếp thu bài giảng trên lớp
còn hạn chế, lại không dám hỏi thầy cô, hỏi bạn bè vì sợ bò la mắng,
chê mình dốt, dần dần tạo ra một lỗ hổng kiến thức rất lớn
Bản thân các em chưa nhận thức được ý nghóa của việc học tập
Bản thân các em chưa nhận thức được ý nghóa của việc học tập
đối
đối
với bản thân, gia đình và xã hội
với bản thân, gia đình và xã hội
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH DÂN
TỘC THIỂU SỐ
NẮM VỮNG TIẾNG VIỆT
I. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
+ Củng cố và xây dựng nề nếp lớp
5
+ từng bước tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, tìm hiểu về đặc
điểm tâm sinh lí, năng khiếu, sở thích, cá tính để có hướng động viên,
giúp đỡ các em ngay từ đầu năm học.
+Tiến hành chia tổ sao cho số học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu
được chia đều và sắp xếp chỗ ngồi hợp lí để các em có điều kiện kiểm
tra và giúp đỡ lẫn nhau.trong việc rèn nói, đọc, hiểu tiếng Việt
+ Chú trọng công tác giáo dục tinh thần đoàn kết, tinh thần
tương thân tương ái, động viên giúp đỡ nhau trong học tập và trong
cuộc sống, rút ngắn khoảng cách giữa hai đối tượng học sinh đồng bào
và học sinh kinh về nhận thức trong học tập cũng như quan hệ tình
cảm bạn bè. Không có hiện tượng phân biệt học sinh kinh và học sinh
đồng bào trong lớp.
+ Xây dựng tinh thần tự quản. Giáo viên chủ nhiệm nghiên cứu,
lựa chọn những học sinh học khá giỏi, có năng lực quản lí lớp tốt bầu
vào ban cán sự lớp trong Đại hội chi đội đầu năm, giáo viên chủ nhiệm
giành nhiều thời gian hướng dẫn cho ban cán sự lớp về kó năng cơ bản,
cần thiết trong công tác quản lí lớp.
* Xây dựng phong trào học tập và rèn luyện đạo đức bằng hình thức
chấm điểm thi đua trong tuần giữa các cá nhân trong tổ và giữa các tổ.
+: Giáo viên chủ nhiệm giáo dục cho học sinh thấy rõ ý nghóa, lợi
ích của việc học
+Gần gũi, thân thiện với với học sinh:
-Hầu hết các em đều có ý thức học tập, hiện tượng không thuộc
bài, không làm bài ở nhà giảm dần
- Hưởng ứng đợt thi đua đăng kí “Giờ học tốt”, dành nhiều “Hoa
điểm 10” do nhà trường phát động nhân các ngày lễ lớn 15/10,
20/10, 20/11,
Về học tập: Ý thức học tập ngày càng được nâng cao: việc học
bài, làm bài ở nhà được các em chú ý và thực hiện tương đối tốt, ý thức
học tập trên lớp được nâng cao. Hưởng ứng tốt các phong trào thi đua
chào mừng các ngày lễ lớn như ngày 20/10, 20/11, 22/12
Tóm lại, qua việc thực hiện các biện pháp nêu trên tình hình học
tập ,khả năng nói, viết ,giao tiếp bằng tiếng Việt của học sinh người
dân tộc thiểu số có sự chuyển biến rõ rệt góp phần vào việc giảm tỉ lệ
học sinh yếu của học sinh người dân tộc thiểu số trong nhà trường.
6
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ thực tế làm công tác chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy ở
trườngmiền núi, nơi có gần 50% học sinh đồng bào dân tộc thiểu số
cùng học Bản thân tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm hữu ích cho
bản thân và chia sẽ với đồng nghiệp trong việc lồng ghép dạy tiếng
Việt cho HSDT:
1. Đối với giáo viên phải có sự đam mê nghề nghiệp, chỉ có lòng
đam mê mới giúp chúng ta làm việc hết khả năng tinh thần trách
nhiệm, có như vậy chúng ta mới cảm thấy bức xúc, trăn trở, lo lắng
trước tình trạng học sinh hiểu chậm tiếng Việt trong học tập và giao
tiếp.
2. Muốn vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên chủ nhiệm phải có biện pháp
cụ thể, rõ ràng ,việc thuyết phục cho đối tượng thay đổi nhận thức
cũng như làm cho các tổ chức cá nhân đồng tình với quan điểm của
mình không phải là dễ.
KẾT LUẬN
Qua công tácchủ nhiệm, tôi đã xác đònh đượcđặc điểm chung của
lớp và áp dụng những biện pháp như trên:
+ Đối với bản thân: đúc rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích,
thiết thực trong công tác chủ nhiệm lớp nói chung và việc lồng ghép
dạy tiếng Việt cho học sinh đông bào dân tộc nói riêng. Các biện pháp
giáo dục linh hoạt, khoa học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi
và hoàn cảnh gia đình học sinh sẽ là động lực thúc đẩy tinh thần học
tiếng Việt của các em.
+ Đối với học sinh: các em sẽ nhận thức được ý nghóa thiết thực
của việc nắm vững tiếng Việtđối với bản thân
Đây chỉ mới là những kinh nghiệm bước đầu mà bản thân tôi đúc
rút được trong quá trình làm công tác chủ nhiệm. Bản thân tôi sẽ tiếp
tục nghiên cứu, tìm hiểu và bổ sung những phương pháp giáo dục thích
hợp nhất, nhằm đem lại hiệu quả cao trong những năm học tiếp theo.
Từng bước rút ngắn khoảng cách chất lượng giáo dục ở những vùng
7
khó khăn về kinh tế, văn hoá so với vùng đồng bằng đáp ứng yêu cầu
phát triển giáo dục của đòa phương trong giai đoạn mới.
Chắc chắn rằng, bài viết này của tôi không tránh khỏi những
thiếu sót nhất đònh. Kính mong BGH & các thầy cô góp ý xây dựng để
đề tài có sức thuyết phục hơn, sâu sắc hơn. Tôi xin chân thành cám ơn !
&&&&&&
Xuân Quang I,Ngày 01 tháng 04 Năm 2010
Người viết
HUỲNH TẤN HOÀNG
8
9