Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

DẠY TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145 KB, 6 trang )

DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC
I/ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
Xã Sơn Thành Tây nằm ở phía tây huyện Tây Hòa, Đông giáp xã Sơn
Thành Đông, Tây giáp huyện Sông Hinh, Nam giáp núi Hòn Nhọn, Bắc giáp
sông Ba, cách trung tâm huyện Tây Hòa gần 20 km. Xã Sơn Thành Tây vừa
được tách ra từ xã Sơn Thành vào năm 2005, xã gồm 7 thôn trong đó có 01
trường cấp 2-3 Sơn Thành, 01 trường Tiểu học, 01 trường Mẫu giáo nằm rải
rác ở các thôn trong xã.
Trường Tiểu học Sơn Thành Tây nằm xa Phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện Tây Hòa, là điểm trường cuối cùng của huyện. Trường gồm có 4 điểm
học cách xa nhau, trong đó điểm học Lạc Đạo thuộc vùng kinh tế mới nên
đời sống nhân dân luôn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó học sinh tại điểm
trường này đa số là người dân tộc thiểu số và phần lớn các em chưa được
qua lớp mẫu giáo nên phần nào đã ảnh hưởng nhiều đến công tác giảng dạy
của giáo viên và việc học tập của các em.
Phần lớn các em đầu năm học chưa ra lớp, cho đến tuần học thứ tư
mới chịu ra học mặc dầu nhà trường luôn vận động để đưa các em đến
trường .
Qua quá trình công tác có những thuận lợi và khó khăn như sau:
1/ Thuận lợi :
- Về cơ sở vật chất: Phòng học, bàn ghế đầy đủ cho mỗi lớp học một buổi
trên ngày, môi trường trong lành sạch sẽ.
- Các thế hệ học sinh đều ngoan, kính trọng thầy cô giáo.
- Được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các ban
ngành đoàn thể trong xã. Được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục-
Đào tạo huyện Tây Hòa đã góp ý xây dựng phương pháp giảng dạy đối với
học sinh dân tộc thiểu số .
2/ Khó khăn :
- Đây là điểm trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số khác nhau: Kinh,
Tày, Nùng, Ba Na, Ê Đê, Hờ Roi nên từ tiếng nói, tập quán, sinh hoạt, nhận
thức hiểu biết về pháp luật của từng dân tộc cũng khác nhau.


- Nhà trường chỉ có 01 giáo viên là người dân tộc, còn lại tất cả là người
kinh nên luôn có những mặt hạn chế nhất định không thể biết hết tất cả các
tiếng nói của các dân tộc khác nhau do đó khó có thể giảng dạy các em, vì
không thể dịch cho học sinh hiểu được khi cần thiết.
- Đội ngũ giáo viên được đào tạo không đồng đều, đủ trình độ có giáo
viên còn chưa đạt chuẩn.
- Đa số các em học sinh dân tộc đến trường cơ bản chỉ nắm được tiếng
mẹ đẻ và phát triển nhận thức bằng tiếng mẹ đẻ chứ không phải bằng tiếng
Việt, vốn tiếng Việt của các em rất ít hoặc không có gì, nếu có một chút
tiếng Việt lại chưa chuẩn nhất là trong cách phát âm.
- Hầu như học sinh dân tộc ít có các cuộc giao tiếp bằng tiếng Việt như
học sinh người kinh do đó rất khó khăn cho học sinh dân tộc khi học tập, đó
cũng chính là các nguyên nhân khiến học sinh dân tộc e sợ, nhút nhát trong
học tập.
- Đồ dùng, dụng cụ học tập của các em không đầy đủ.
- Đa số phụ huynh học sinh ít biết chữ viết tiếng Việt, không thông thạo
tiếng phổ thông nên việc học tập của các em đều khoán trắng cho nhà trường
và giáo viên giảng dạy.
- Là địa bàn thuộc dân di cư tự do trước đây nên nhiều hộ dân thường có
mối quan hệ gia đình thân thích trong họ tộc và theo từng dân tộc riêng của
họ.
Với thực tế khó khăn và thuận lợi như trên, nhà trường luôn xác định cho
đội ngũ giáo viên trong đơn vị phải vượt qua bằng chính sự cố gắng của
mình. Với tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, bản thân luôn khắc phục mọi khó
khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của từng năm học và đạt kết quả cao.
II/ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC;
1/ Sự phát triển về qui mô học sinh:
- Huy động số trẻ ra lớp đúng độ tuổi 100%
- Năm học 2008 – 2009 số học sinh DT là 47 em. Nữ 26 em .
- Năm học 2009 – 2010 số học sinh DT là 43 em. Nữ 26 em .

- Năm học 2010 – 2011 số học sinh DT là 46 em. Nữ 27 em .
- Không có học sinh bỏ học so với năm học trước
2/ Thực trạng của học sinh dân tộc thiểu số:
Khi đến trường học sinh người kinh đã có vốn tiếng Việt đủ để tìm hiểu
thế giới xung quanh, ngoài ra các em có nhiều thời gian và cơ hội sử dụng
tiếng Việt liên tục với nhiều người và nhiều mục đích khác nhau trong cuộc
sống ngoài nhà trường. Còn học sinh dân tộc thì lại khác trước khi đi học các
em mới chỉ nắm vững tiếng mẹ đẻ và phát triển nhận thức bằng tiếng mẹ đẻ
chứ không phải bằng tiếng Việt. Vốn tiếng Việt của các em rất ít hoặc không
có gì, khi được đến trường các em mới bắt đầu học tiếng Việt và các em phải
học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm của tiếng mẹ đẻ.
Ở điểm trường Lạc Đạo năm nào cũng vậy khó khăn thì nhiều, thuận lợi
thì ít. Vì số học sinh dân tộc khác nhau ngày càng nhiều do đó giáo viên
càng khó khăn hơn trong công tác giảng dạy, khó khăn nhất là đối với học
sinh dân tộc Ba Na và Ê – Đê vì gia đình ít quan tâm đến việc học tập của
con em, mặc dầu đã có lớp học mẫu giáo nhưng phụ huynh không cho con
họ ra học, đến khi nhập học lớp một lại ra lớp chậm so với các bạn, tuy đã
được nhà trường thông báo và giáo viên đến tận xóm, tận nhà huy động học
sinh ra học nhưng phụ huynh cho rằng không cần thiết: “Khi nào mua được
quần áo, sách vở rồi sẽ ra học”.Đến khi ra lớp chỉ có 1 quyển vở và 1 mẫu
bút chì, cho nên các em chỉ ra ngồi nghe mà không biết viết, không biết cầm
bút, cầm phấn, không biết đưa tay từ đâu đến đâu …
Đa số học sinh dân tộc nhất là dân tộc Ba Na và Ê – Đê do hoàn cảnh
kinh tế gia đình khó khăn và môi trường tiếp xúc của các em còn hạn chế
nên hầu như các em chưa biết và hiểu được tiếng phổ thông, các em còn
nhút nhát ít dám phát biểu cho nên nhiều khi giáo viên hỏi các em không
chịu thưa, giáo viên chỉ bảo các em không biết làm theo.
3/ Những biện pháp thực hiện:
Thực hiện sự chỉ đạo của Phòng GD-ĐT huyện Tây Hoà, sự chỉ đạo phân
công của nhà trường trong năm học phân công giáo viên giảng dạy tại điểm

trường Lạc Đạo, nhất là lớp 1, ngay từ đầu năm học đã chỉ đạo giáo viên
tăng cường giảng dạy tiếng Việt cho các em học sinh nhất là những em dân
tộc vào các tiết dạy, đồng thời tiến hành phụ đạo thêm cho các em nhằm
bước đầu tạo cho các em làm quen với Tiếng việt .Trong quá trình giảng dạy
đã tiến hành một số biện pháp sau nhằm nâng cao chất lượng học tập của
học sinh dân tộc .
HỘI THẢO TĂNG THỜI LƯỢNG DẠY HỌC
MÔN TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC
TP Huế, ngày 02 đến 04/12/2010
Tạo môi trường học tập cho học sinh dân tộc:
- Tạo môi trường trong nhà trường:
+ Tạo cảnh quan trong và ngoài lớp học: Những ấn tượng trực giác hết
sức quan trọng đối với trẻ nhất là học sinh lớp một, một lớp học sạch sẽ,
được trang trí đẹp mắt sẽ thu hút được sự chú ý, yêu thích của học sinh.
+ Tăng cường hoạt động giao tiếp:
Học sinh dân tộc ít có điều kiện giao tiếp tiếng phổ thông ở gia đình và
ngoài xã hội, tâm lí nhút nhát, thiếu tự tin, ngại giao tiếp với người lạ, do đó
giáo viên khi giảng dạy cần dạy cách giao tiếp và tăng cường các hoạt động
tập thể như trò chơi, văn nghệ …
- Tạo môi trường học tập ở gia đình:
+ Tạo góc học tập cho các em, đóng bàn ghế học tập, chọn vị trí đặt bàn
học ở nơi thích hợp.
+ Hướng dẫn phụ huynh kiểm tra việc học của các em học sinh, nhất là
tạo điều kiện về thời gian và nhắc nhở con em học bài và làm bài đầy đủ,
thỉnh thoảng quan sát việc học của con em mình, như sách vở có ngăn nắp
không, gọn gàng không, có chăm chú vào việc học không, vở viết như thế
nào
+ Phối hợp với hội cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương vận động
những người biết nói tiếng Việt có ý thức giao tiếp bằng tiếng Việt với học
sinh trong sinh hoạt cộng đồng.

Học sinh dân tộc học ở nhà trường cũng được dạy - học theo những
phương pháp đặc trưng của môn học, các giáo viên dạy tiếng Việt ở nhà
trường có trách nhiệm dạy theo các phương pháp bộ môn đã được qui định.
Bên cạnh ấy để giúp học sinh dân tộc tiếp thu tiếng Việt một cách có hiệu
quả chúng tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
- Giáo viên dạy học sinh dân tộc học bằng tiếng Việt nghĩa là giáo
viên dùng tiếng Việt để dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc mà không cần
liên hệ tiếng mẹ đẻ. Việc giải thích trong phương pháp giảng dạy được minh
hoạ bằng các vật thật, hình vẽ, tranh ảnh …Người giáo viên cần phải sử
dụng triệt để các dụng cụ trực quan, vật mẫu, tranh ảnh, cử chỉ, điệu bộ…
khi cung cấp kiến thức cho các em, nếu cần thiết có thể cho các em ra ngoài
trời, tiếp xúc với thiên nhiên, bầu trời ngoài lớp học
- Giáo viên tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập đảm bảo cho
học sinh được nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt thường xuyên, nhất là trong
giai đoạn đầu lớp Một cần chú trọng luyện các kĩ năng nghe, nói.
- Giáo viên sử dụng tiếng dân tộc của học sinh dân tộc trong quá trình
giảng dạy toán cũng như các bộ môn khác là nhằm để giúp các em dân tộc
tiếp nhận một ngôn ngữ mới (tiếng Việt) trên cơ sở tận dụng được vốn ngôn
ngữ sẵn có của mình (tiếng dân tộc), tránh được sự căng thẳng trong nhận
thức của học sinh, nhất là đối với học sinh lớp Một.
- Về việc dạy dỗ phải nói rất khó khăn, giáo viên phải tìm hiểu hoàn
cảnh từng em, từng gia đình và dùng lời nói cho phải đối với phụ huynh học
sinh để tạo được sự đồng tình và giúp đỡ của họ. Bên cạnh ấy có nhiều phụ
huynh không lo lắng cho con em mình mà lại nói rằng “Ối dào nó học biết
được thì để nó học nếu không biết thì cho nó nghỉ chứ biết làm thế nào
được”.
- Giáo viên phải tự lo lắng dạy dỗ, nhất là học sinh lớp một các em
đến lớp chưa nói được tiếng nói phổ thông, lại không được đi học mẫu giáo,
bên cạnh đó ra lớp 1 lại chậm so với các bạn, nhiều học sinh không biết cầm
bút, cầm phấn và đưa nét bút từ đâu.

- Mỗi tiết dạy cần thiết nhất là đồ dùng dạy học, dụng cụ trực quan,
tạo điều kiện cho các em mắt thấy tai nghe thì nhận thức mới dễ dàng đối
với các em học sinh dân tộc thiểu số.
- Ở tiểu học nhất là lớp 1, với học sinh dân tộc trò chơi giữ một vai trò
rất quan trọng, nó là một phương tiện giáo dục hấp dẫn, thoải mái giúp các
em phát triển được toàn diện về thể chất lẫn tinh thần. Sử dụng trò chơi
trong toán học giúp cho các em được kích thích hứng thú, nâng cao tính tích
cực của tư duy, góp phần làm cho tiết học trở nên sinh động, nó kích thích trí
tưởng tượng, trí nhớ, huy động được nhiều tri thức trong khoảng thời gian
ngắn.
Nói chung người giáo viên phải gần gũi, trò chuyện để tìm hiểu xem
em đó còn yếu kém về những điểm gì, gia đình ra sao, rồi tìm cách giúp đỡ.
Giảng dạy các bộ môn khác nhằm khai thác giảng dạy tiếng Việt cho
học sinh dân tộc là một công việc phức tạp, do đó lựa chọn phương pháp nào
là phụ thuộc vào đối tượng học sinh, mục đích bài dạy, điều kiện dạy học cụ
thể… đảm bảo học sinh tiếp thu được bài học một cách tích cực, nắm kiến
thức một cách chắc chắn.
4/ Bài học kinh nghiệm:
Từ những biện pháp trên được áp dụng bản thân tôi rút ra bài học kinh
nghiệm nhằm tạo điều kiện giúp đỡ các em học sinh dân tộc nhất là những
em ra lớp chậm chưa biết nói tiếng phổ thông, còn nhút nhát trong học tập.
- Thường xuyên đến thăm gia đình học sinh để trao đổi và động viên cha
mẹ học sinh nhắc nhở các em học tập cho có tiến bộ, nhất là tạo được việc
xây dựng môi trường Tiếng việt ở gia đình, tạo điều kiện cho các em thường
xuyên làm quen với ngôn ngữ Tiếng việt.
- Cần sử dụng phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp với trình độ
học sinh, chú ý khi sử dụng dụng cụ trực quan, mô hình để giảng dạy cần
phải sử dụng đúng lúc, đúng thời điểm, tránh lạm dụng vì như vậy sẽ hạn
chế khả năng phát triển tư duy của học sinh.
- Sử dụng tiếng dân tộc để hướng dẫn các em thực hiện một số hoạt động

học tập, vui chơi sau đó dần dần chuyển sang sử dụng tiếng Việt, giáo viên
có thể tuỳ tình hình thực tế mức độ nhận biết tiếng Việt của lớp mình mà lựa
chọn mức độ sử dụng tiếng dân tộc cho phù hợp, tránh sử dụng tràn lan, chỉ
sử dụng trong các trường hợp cần thiết để giảng dạy mà thôi .
III/ KIẾN NGHỊ :
Để phục vụ cho việc giảng dạy đối với các em học sinh dân tộc thiểu
số được tốt hơn, tôi có một số kiến nghị lên các cấp như sau:
- Đối với địa phương:
Hằng năm chuẩn bị vào đầu năm học cần thông báo cho toàn dân quan
tâm đến việc học tập của con em mình hơn như: Đưa con em đến trường
nhập học đúng qui định, vận động phụ huynh học sinh cho các em đi học
mẫu giáo đúng độ tuổi, phải mua đầy đủ đồ dùng dụng cụ học tập cho các
em có điều kiện đến trường học tập. Bên cạnh đó địa phương cần tạo điều
kiện hổ trợ thêm sách vở, dụng cụ học tập nhằm tạo động lực thúc đẩy các
em đến trường.
- Đối với ngành:
+ Cần có chính sách hổ trợ về tinh thần lẫn vật chất cho các giáo viên
đang công tác giảng dạy tại điểm trường có học sinh dân tộc thiểu số.
+ Tạo điều kiện và tuyển biên chế giáo viên là người dân tộc giảng dạy,
đồng thời tuyển người dân tộc thiểu số vào hổ trợ cùng giáo viên để cùng
nhau giảng dạy cho tốt hơn.
Trên đây là một số ý kiến về việc dạy học sinh dân tộc thiểu số mong
các cấp đóng góp ý kiến thêm để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
một cách toàn diện ./.
TH Sơn Thành Tây

×