Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận chính sách thuế : Thuế và lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.92 KB, 24 trang )

Thuế và lạm phát

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ LẠM PHÁT 3
1.1. Thuế: 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. Đặc điểm cơ bản 3
1.1.3. Vai trò của thuế 4
1.1.4. Phân loại hệ thống thuế Việt Nam: 4
1.2. Lạm phát 5
1.2.1. Khái niệm lạm phát 5
1.2.2. Phân loại lạm phát 6
1.2.3. Các chỉ số đo lường lạm phát 6
1.2.4. Nguyên nhân dẫn đến Lạm phát 7
1.2.4.1. Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ 7
1.2.4.2. Lạm phát do cầu kéo (Demand – pull inflation) 8
1.2.4.3. Lạm phát do cung (lạm phát do chi phí đẩy) 9
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA THUẾ VÀ LẠM PHÁT 12
2.1. Tìm hiểu về thuế lạm phát 12
2.2. Tác động của lạm phát lên thuế 13
2.2.1. Tác động của lạm phát lên thuế gián thu 13
2.2.2. Tác động của lạm phát lên thuế trực thu 13
2.3. Thuế điều chỉnh lạm phát 17
2.3.1. Thuế trực thu tác động tới lạm phát 17
2.3.2. Thuế gián thu tác động tới lạm phát 21
KẾT LUẬN 23
LỜI MỞ ĐẦU
1
Thuế và lạm phát


Trong tình hình hiện nay, lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng
đầu, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới. Và việc
quan tâm tới lạm phát trong vai trò của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế, luôn
là chủ đề mà các nhà làm chính sách quan tâm. Trong xu hướng chịu sự tác động,
ảnh hưởng từ lạm phát, Thuế không là ngoại lệ. Với vai trò là một công cụ để kiềm
chế lạm phát, chính sách thuế được xây dựng và điều chỉnh một cách linh hoạt tùy
thuộc vào từng thời điểm biến động của nền kinh tế, đặc biệt là yếu tố lạm phát. Bởi
trong quá trình thực thi, chính sách thuế ít nhiều chịu ảnh hưởng, chi phối từ lạm
phát.
Vì vậy, việc tìm hiểu sự tác động qua lại giữa Thuế và lạm phát là cần thiết,
để giúp chúng ta có một cái nhìn rõ hơn về mối quan hệ tương hỗ giữ chúng, cũng
như hiểu rõ hơn về chính sách thuế trong vai trò kiềm chế lạm phát hiện nay.
2
Thuế và lạm phát

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ LẠM PHÁT
1.1. Thuế
1.1.1. Khái niệm
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước
theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công
cộng.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản
a. Tính bắt buột
Tính bắt buột là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với
các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách Nhà nước. Nhà kinh tế học
nổi tiếng Joseph E. Stiglitz cho rằng: “ Thuế khác với đa số những khoản chuyển
giao tiền từ người này sang người kia. Trong khi tất cả những khoản chuyển giao đó
là tự nguyện thì thuế lại là bắt buộc”
b. Tính không hoàn trả trực tiếp.
Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu thuế. Trước

khi thu thuế, Nhà nước không hứa hẹn cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng
nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn
trực tiếp nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp thuế không thể phản đối
việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với lý do họ không được hoặc ít được hưởng
những lợi ích trực tiếp từ Nhà nước.
Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản phí, lệ
phí và tín dụng Nhà nước bởi những khoản này có tính chất đối ứng rõ rệt và phần
nào đó mang tính chất tự nguyện, trao đổi ngang bằng giữa khoản phải trả và lợi ích
dịch vụ mà họ nhận được.
c. Tính pháp lý cao
Đặc điểm này thể hiện thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao.
Điều đó được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà kinh tế học
Joseph E. Stiglitz nói rằng: “ Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn trộm,
chỉ có một điểm khác chủ yếu là : trong khi cả hai cách chuyển đều là không tự
3
Thuế và lạm phát

nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn
trọng do các quá trình chính trị ban cho”.
1.1.3. Vai trò của thuế
- Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên
nguồn tài chính cho Nhà nước. Đây chính là vai trò truyền thống, căn bản của thuế.
Nhờ có vai trò này mà Nhà nước mới có thể có trong tay mình nguồn tiền tệ cần
thiết để chi tiêu cho các hoạt động của mình, đồng thời tạo ra những tiền đề để Nhà
nước tiến hành tái phân phối sản phẩm xã hội theo các mục tiêu quản lý được đặt ra.
Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ yếu và quan
trọng nhất. Tỷ trọng các khoản thu từ thuế thường chiếm trên 80% tổng thu của
ngân sách. Ở nước ta, nếu không tính các khoản thu từ dầu thô, nguồn thu từ thuế
cũng thường chiếm trên 90% tổng các khoản thu của Ngân sách Nhà nước trong

vòng một thập kỷ trở lại đây.
- Điều tiết kinh tế vĩ mô
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc qui định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối
tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng
của người nộp thuế, sử dụng linh hoạt các ưu đãi và miễn, giảm thuế. Trên cơ sở đó,
Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích
của xã hội. Trong điều kiện cơ chế thị trường, khi sự can thiệp trực tiếp của Nhà
nước vào nền kinh tế ngày càng hạn chế thì việc sử dụng công cụ thuế như một biện
pháp điều chỉnh vĩ mô mang lại hiệu quả cao. Vai trò này xuất phát từ khả năng tái
phân phối của cải làm thay đổi tương quan lực lượng vật chất của các đối tượng
điều chỉnh trong nền kinh tế. /.
1.1.4. Phân loại hệ thống thuế Việt Nam
- Thuế môn bài
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
-Thuế tiêu thụ đặc biệt.
4
Thuế và lạm phát

-Thuế giá trị gia tăng
- Thuế Thu nhập doanh nghiệp
- Thuế Thu nhập cá nhân
- Thuế tài nguyên
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thuế nhà đất (thuế sử dụng đất phi nông nghiệp)
1.2. Lạm phát
1.2.1. Khái niệm lạm phát
Trong quá trình hình thành và phát triển của khoa học kinh tế, không ít các nhà
kinh tế đã đi tìm và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát. Có những quan
điểm tiếp cận theo hướng tập trung những nguyên nhân gây ra lạm phát, hoặc cũng có

trường phái đi sâu vào ảnh hưởng của nó tác động đến nền kinh tế, an sinh xã hội
Song cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất hoàn toàn về
lạm phát. Tuy nhiên, có thể kể ra một số các quan điểm khác nhau về lạm phát như sau:
 Lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Điều này có
thể được tóm tắt trong phương trình của Fisher:
M.V = P.Y
Nếu tổng khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa
dịch vụ được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu
thêm vào đó là tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì (P) lại tăng rất nhanh. Quan điểm
trên giúp ta hiểu rõ về hiện tượng lạm phát, nhưng không chỉ ra nguyên nhân nào dẫn
đến lạm phát.
 Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức
đảm bảo, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao.
 Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư
liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Khi mức giá chung của giá
cả và chi phí tăng, thì lạm phát xảy ra.
5
Thuế và lạm phát

Như vậy, dù khác nhau về cách nhìn nhận, nhưng các quan điểm này đều đề cập
đến một khía cạnh, đó là sự gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn
đến đồng tiền bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt trong
nền kinh tế.
1.2.2. Phân loại lạm phát
Biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa. Xuất phát
từ quan điểm này, các nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân
lạm phát ra làm 3 mức độ:
Lạm phát v^a phải (còn gọi là lạm phát nước kiệu hay lạm phát một con số),
lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng chậm ở giới hạn dưới 10% một
năm. Với mức độ lạm phát vừa phải thì giá cả tăng dao động xung quanh mức tăng của

tiền lương, trong điều kiện như thế thì giá trị tiền tệ không biến động nhiều, tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.
Lạm phát cao (còn gọi là lạm phát phi mã)
Khi giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng từ 10% đến 100%/năm. Lạm phát phi mã
xảy ra sẽ làm cho đồng tiền mất giá nhanh chóng, thị trường tài chính bất ổn, gây biến
động lớn về kinh tế, xã hội.
Siêu lạm phát (còn gọi là lạm phát siêu tốc)
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hằng năm
trở lên. Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết người, có
những tác hại vô cùng nguy hiểm đến kinh tế-xã hội.
1.2.3. Các chỉ số đo lường lạm phát
Mức độ lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát (kí hiệu If): là tỷ lệ phần
trăm gia tăng trong mức giá chung của kỳ này so với kỳ trước.
Mức giá chung (hay chỉ số giá) được hiểu là mức giá trung bình của tất cả hàng
hóa và dịch vụ trong nền kinh tế cuả kì này so với kì gốc.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ
số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng
6
Thuế và lạm phát

như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ
biến của chỉ số lạm phát:
 Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)
 Chỉ số giá hàng sản xuất (PPI)
 Chỉ số giảm phát theo GDP (Id)
1.2.4. Nguyên nhân dẫn đến Lạm phát
Tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, các nhà kinh tế học đã chỉ ra những
nguyên nhân gây ra lạm phát. Có 3 nguyên nhân chính là:
1.2.4.1. Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ
Những nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung

tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra và được giải thích bằng phương trình số
lượng sau:
M.V = P.Y
Trong đó: M: Lượng cung tiền danh nghĩa
V: Tốc độ lưu thông tiền tệ
P: Chỉ số giá (mức giá trung bình)
Y: Sản lượng thực
Học thuyết này cho rằng khi tăng lượng tiền cung ứng thì mức giá cả cũng
tăng theo tương ứng (vì V và Y gần như không đổi trong ngắn hạn). Nội dung học
thuyết tập trung luận giải những yếu tố hình thành giá cả có liên quan trực tiếp đến:
 Quá trình hình thành và phát triển thị trường tiêu dùng (cầu hàng hóa, dịch
vụ);
 Cung hàng hoá và dịch vụ;
 Mối tương quan giữa cung và cầu hàng hoá;
 Giá cả sản xuất.
Tất cả các yếu tố hình thành giá cả được xem xét như là nguyên nhân tăng giá.
Về cảm giác thì ai cũng có thể nhận thấy rằng giá cả năng lượng, nguyên liệu, … có tác
động đến lạm phát nhưng sự tác động này phải nằm trong mối liên hệ của 4 yếu tố nêu
trên (cung, cầu, mối tương quan giữa cung cầu, giá cả sản xuất).
7
Thuế và lạm phát

1.2.4.2. Lạm phát do cầu kéo (Demand – pull inflation)
Là lạm phát xảy ra do tổng cầu tăng vượt quá mức tổng cung hàng hóa của xã
hội, dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Trong lạm phát do cầu kéo, tiền tệ đồng thời đóng
2 vai trò: vừa là nền tảng, vừa là nguyên nhân. Có thể chỉ ra một số nguyên nhân cơ
bản làm cho tổng cầu tăng lên như sau:
 Chi tiêu của Chính phủ tăng lên dẫn đến khối lượng tiền tệ lưu thông gia
tăng, làm cho mức cầu về hàng hoá tăng.
 Thâm hụt ngân sách kéo dài và được đài thọ bằng cách vay mượn ở trong

nước, ngoài nước hoặc của Ngân hàng Trung ương (tức là Ngân hàng Trung ương đã
phát hành tiền qua cửa ngõ Chính phủ) đã làm cho khối lượng tiền tệ lưu thông tăng,
dẫn đến tổng chi tiêu bằng tiền tăng.
 Chi tiêu dùng của các hộ gia đình tăng lên do mức thu nhập tăng hoặc lãi
suất giảm.
 Tâm lý thích tiêu dùng hay tiết kiệm của dân chúng đưa đến sự gia tăng tốc
độ lưu thông tiền tệ, nếu dân chúng có khuynh hướng thích tiêu dùng thì tốc độ lưu
thông tiền tệ gia tăng.
 Đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên do dự đoán về triển vọng phát triển
kinh tế trong nước và cả ngoài nước hoặc do lãi suất giảm.
 Do chính sách tiền tệ mở rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, người dân
dễ tiếp cận nguồn vốn, có thể vay dễ dàng hơn, vay nhiều hơn dẫn đến nhu cầu chi tiêu
nhiều hơn.
 Các yếu tố liên quan đến nhu cầu nước ngoài như: Tỉ giá hối đoái, mức thu
nhập của cư dân nước ngoài, … làm gia tăng nhu cầu hàng hóa xuất khẩu kéo theo tổng
cầu gia tăng.
Trong các phân tích trên, tổng cầu tăng gây áp lực tăng giá làm xảy ra tình trạng
lạm phát trong ngắn hạn. Song nếu nền kinh tế chưa đạt được mức sản lượng tiềm năng
thì việc tăng tổng cầu trong trường hợp này trở thành một chính sách lạm phát có hiệu
quả để thúc đẩy sản xuất xã hội làm cho kinh tế tăng trưởng, khi đó tổng cung sẽ tăng,
8
Thuế và lạm phát

sản lượng của nền kinh tế tăng lên. Ngược lại với lạm phát do nguyên nhân từ phía cầu
là lạm phát do nguyên nhân từ phía cung, gọi là lạm phát do chi phí đẩy.
1.2.4.3. Lạm phát do cung (lạm phát do chi phí đẩy)
Trong lạm phát chi phí đẩy tiền tệ cũng là cơ sở của lạm phát nhưng đóng vai trò
thụ động, nghĩa là tiền tệ sẽ bị cuốn vào vòng xoáy của chi phí sản xuất. Trong hoàn
cảnh sản xuất không tăng hoặc tăng ít mà chi phí sản xuất tăng vượt quá mức tăng của
năng suất lao động thì sẽ sinh ra lạm phát do chi phí đẩy. Chi phí sản xuất tăng lên tạo

áp lực “đẩy” giá bán sản phẩm tăng lên hoặc có thể làm giảm mức cung ứng hàng hoá
của xã hội, như vậy trong trường hợp này là do các yếu tố sản suất và tiêu thụ hàng hoá
gây ra. Chi phí sản xuất tăng lên có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau:
 Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động: các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường thường phải chịu rất nhiều áp lực về vấn đề tiền
lương.
Trong ngắn hạn chi phí nhân công ổn định do bị hạn chế bởi hợp đồng lao động
nhưng trong dài hạn do áp lực của công đoàn, do thuế thu nhập và các yếu tố khác làm
cho nhân viên tạo sức ép nâng tiền lương lên, khi lương tăng, giá cả hàng hoá sẽ tăng.
Quy trình này tác động bởi yếu tố hành chính, có nghĩa khi giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp phải tăng giá bán để đảm bảo lợi nhuận. Khi giá cả hàng hoá nói chung và tiêu
dùng nói riêng tăng lên thì người lao động tìm mọi cách để tăng lương. Khi lương tăng
và giá cả lại tăng thì buộc các doanh nghiệp phải tăng giá bán sản phẩm để đảm bảo lợi
nhuận.
 Do giá nhập khẩu tăng lên tác động trực tiếp tới giá cả trong nước (nếu là
hàng tiêu dùng trực tiếp) hoặc tác động gián tiếp thông qua việc làm tăng chi phí sản
xuất (nếu là đầu vào của quá trình sản xuất). Giá hàng nhập khẩu tăng lên có thể do lạm
phát của nước ngoài cao làm cho giá nguyên liệu ở nước xuất khẩu tăng, hay do đồng
nội tệ bị mất giá so với đồng tiền của những nước có quan hệ thương mại, mậu dịch.
 Do thuế suất tăng lên làm ảnh hưởng tới mức sinh lời của các nhà đầu tư do
vậy đẩy giá cả tăng lên. Để duy trì mức sinh lời mong muốn, các doanh nghiệp sẽ tăng
9
Thuế và lạm phát

tỉ lệ lợi nhuận bằng biện pháp tăng giá bán hàng hoá làm cho giá cả tăng, việc này
thường xảy ra trong điều kiện độc quyền.
Như vậy, một lần nữa khi phân tích về lạm phát do cầu kéo và lạm phát do chi
phí đẩy đều cho thấy lạm phát xảy ra sẽ làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Trong khi
phân tích về các loại lạm phát và nguyên nhân gây ra lạm phát, các nhà kinh tế thừa
nhận rằng không phải lạm phát lúc nào cũng gây ra hậu quả xấu đối với nền kinh tế xã

hội. Lạm phát có tác động tích cực hay tiêu cực đến nền kinh tế phụ thuộc vào mức độ
nghiêm trọng của nó, song nhìn chung khi lạm phát cao xảy ra nó thường để lại không
nhiều thì ít những hậu quả cho nền kinh tế.
Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác:
 Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà
nước như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất… làm cho nền kinh tế quốc dân
bị mất cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một
khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát
hành tiền.
Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ
trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế.
 Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị
trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới…
Lạm phát luôn là một bài toán kinh tế nan giải của bất kì một quốc gia nào trên thế
giới. Và…câu chuyện lạm phát tại Việt Nam không phải là ngoại lệ. Kinh tế nước ta
từ những năm 1986 đến nay đã chuyển mình qua biết bao sự biến đổi sâu sắc: từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; từ thời kì tăng trưởng thấp những năm 80 sang giai đoạn tăng trưởng cao
những năm 90, khủng hoảng rối loạn rồi chuyển sang ổn định và phát triển… Có
thể nói những biến đổi thăng trầm của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng rất lớn
đến lạm phát Việt Nam. Đã từng có thời kì, lạm phát của nước ta tăng lên đến 3 con
số (hệ quả từ sự kiện đổi tiền ngày 14 tháng 9 năm 1985, cùng với một loạt các cuộc
cải cách về giá cả, tiền lương…là nguyên nhân bùng nổ siêu lạm phát vào năm
10
Thuế và lạm phát

1986: lạm phát 775% trong khi tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,23%). Từ sau năm
1986, chính sách đổi mới được thực hiện, tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam đã dần dần
giảm xuống từ mức 3 con số xuống 2 con số (95,8% vào năm 1989), và đến năm
1993, một kết quả mỹ mãn đã đạt được khi lạm phát được giữ ở mức con số (8,4%).

Cùng với đó là sự nỗ lực của Chính phủ trong việc tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an
sinh xã hội, đưa kinh tế Việt Nam ngày một hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn
cầu.
11
Thuế và lạm phát

CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA THUẾ VÀ LẠM PHÁT
2.1. Tìm hiểu về thuế lạm phát
Theo TS Trần Du Lịch “ Lạm phát là thuế vô hình đánh vào toàn dân. Mà người thu
nhập càng cố định thì thiệt hại càng lớn”.
Bằng việc in tiền để mua hàng hóa trong nền kinh tế của mình, Nhà nước đã
làm giảm giá trị (sức mua) của lượng tiền đang có. Một cách gián tiếp Nhà nước đã
đánh thuế lên những người nắm giữ tiền mặt. Đây được gọi là thuế lạm phát.
Thuế lạm phát là thứ thuế mà hầu như nước nào cũng có, nhưng nó có tính
lũy thoái mà hiểu một cách đơn giản người có thu nhập thấp hơn phải chịu mức
thuế suất cao hơn.
Ví dụ một người có thu nhập 1 triệu đồng phải đóng thuế 200.000đ chắc
chắn thấp hơn số thuế 1 triệu đồng của người có thu nhập 10 triệu đồng. Tuy nhiên,
trong trường hợp này, người có thu nhập thấp hơn phải chịu thuế suất gấp đôi (20%
so với 10%) người có thu nhập cao. Điều này ngược với nguyên tắc công bằng dọc
trong thuế khóa, người có khả năng thấp hơn phải chịu mức thuế thấp hơn.
Nguyên nhân gây ra tính lũy thoái của thuế lạm phát là do việc tăng giá trong
nền kinh tế theo khuynh hướng các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm -
rổ hàng hóa tiêu dùng chủ yếu của người nghèo - thường cao hơn rất nhiều so với
những mặt hàng khác, nhất là những hàng hóa cao cấp - loại hàng hóa chiếm một tỷ
phần chi tiêu lớn của những người khá giả hơn.
Ví dụ, nếu thu nhập của một người chủ yếu dành cho lương thực thực phẩm
thì năm 2010 họ phải "đóng thuế" khoảng 17%, trong khi nếu chi cho đồ uống hay
thiết bị và đồ dùng gia đình thì mức thuế chưa bằng một nửa con số nêu trên.
Tóm lại, thuế lạm phát là thứ thuế tồn tại trong hầu hết các nền kinh tế,

nhưng nó có tính lũy thoái đánh vào người nghèo gây ra bất công trong xã hội nên
cần phải hết sức hạn chế bằng việc kéo mức tăng giá xuống càng thấp càng tốt
(thông thường là một vài phần trăm ở các nước phát triển và dưới 5% ở các nước
đang phát triển).
12
Thuế và lạm phát

2.2. Tác động của lạm phát lên thuế.
2.2.1. Tác động của lạm phát lên thuế gián thu
a. Tác động của lạm phát lên thuế gián thu- thuế tỷ lệ
Khi thuế gián thu được đánh trên cơ sở tỷ lệ phần trăm thì lạm phát không
làm giảm nghĩa vụ thuế.
Giả sử R
0
và R
1
là số thu thuế trong năm 0 và năm 1 và t là thuế suất theo tỷ
lệ %, P
0
là mức giá trong năm 0 và Q
0
là lượng giao dịch trong cả năm 0 và
năm 1.
Năm 0 1
Số thu thuế R
0
= P
0
Q
0

t R
1
=P
0
(1+
π
e
)Q
0
t
Số thu thuế thực P
0
Q
0
t P
0
(1+
π
e
)Q
0
t/(1+
π
e
) =
= P
0
Q
0
t


b. Tác động của lạm phát lên thuế gián thu- thuế đơn vị
Với thuế đơn vị (T), số thu thuế (theo giá trị thực) bị giảm theo tỷ lệ lạm
phát.
Năm 0 1
Số thu thuế R
0
= Q
0
T R
1
=Q
0
T
Số thu thuế thực Q
0
T Q
0
T/(1+
π
e
)
Mức giảm giá trị thực 0 Q
0
T - Q
0
T/(1+
π
e
)

của số thu thuế = Q
0
T
π
e
/(1+
π
e
)
2.2.2. Tác động của lạm phát lên thuế trực thu
Xem xét trường hợp thuế TNCN
a. Thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công
- Các nhà kinh tế thường phân biệt 2 loại lạm phát: có thể tiên đoán trước và
không thể tiên toán trước. Loại sau nói chung được xem là có hiệu quả thấp vì nó
không cho phép điều chỉnh hành vi con người một cách tối ưu đối với sự thay đổi
mức giá. Tuy nhiên, với hệ thống thuế thu nhập không được chỉ số hoá thì ngay cả
khi được tiên đoán một cách hoàn hảo lạm phát vẫn gây ra những lệch lạc.
- Chỉ số hoá được hiểu là hệ thống điều chỉnh tự động xoá bỏ ảnh hưởng của
lạm phát ra khỏi số thuế thực trả.
- Tình trạng lệch lạc được biết đến một cách phổ biến nhất là hiện tượng bị
trườn nhóm thuế. Giả sử rằng cả thu nhập cá nhân và mức giá đều tăng cùng tỷ lệ
trong cùng khoảng thời gian. Thế thì thu nhập thực của một người ( sức mua thực
sự của họ) không đổi. Tuy nhiên, với hệ thống thuế không được chỉ số hoá thì thuế
được tính dựa trên thu nhập danh nghĩa của mỗi cá nhân- số tiền thực nhận. Khi thu
nhập danh nghĩa tăng, cá nhân bị đẩy vào khung thuế với mức thuế suất biên cao
13
Thuế và lạm phát

hơn. Do đó, cá nhân phải nộp thuế thu nhập cao hơn trong khi thu nhập thực không
đổi. Lạm phát đã làm gia tăng gánh năng thuế mà không cần phải chỉnh sửa luật.

Ví dụ về tác động chuyển nhóm thu nhập
-Nhóm thu nhập 0 - 5.000.000đ chịu thuế suất 5%; nhóm thu nhập trên 5.000.000đ
chịu thuế suất 10%.
- Tỷ lệ lạm phát trong GĐ 2009-2011 là 50%
- Thu nhập danh nghĩa của một cá nhân năm 2009 là 5.000.000đ sẽ tăng lên
7.500.000đ vào năm 2011.
ĐVT: ngàn đồng
Năm 2009 2011
Thu nhập danh nghĩa 5.000 7.500
Thuế danh nghĩa 250 500
Thuế suất b/q 5% 6.67%
Thuế theo giá thực 250 333.5
Cá nhân này rơi vào nhóm thu nhập cao hơn và phải chịu thuế suất 10%.
Thuế suất trung bình tăng từ 5% năm 2009 lên 6,67% năm 2011 do chuyển
nhóm thu nhập chịu thuế, mặc dù xét về giá trị thực thì sức mua của người
này là không thay đổi. Hơn nữa, nghĩa vụ thuế theo giá trị thực đã tăng
83.500đ
Hiệu chỉnh tác động chuyển nhóm thu nhập do lạm phát gây ra thông qua
chỉ số hoá.
Chỉ số hóa các nhóm thu nhập chịu thuế theo lạm phát là cần thiết để tránh
tác động "chuyển nhóm thu nhập".
Nếu các nhóm thu nhập được điều chỉnh, thì nhóm đầu tiên sẽ tăng lên tới
7.500.000đ với thuế suất 5%.
Bây giờ cả thuế suất trung bình và thuế theo giá trị thực năm 2009 và 2011
đều bằng nhau.
14
Thuế và lạm phát

Năm 2009 2011
Thuế suất

5% <5.000 <7,500
10% >5.000 >7.500
Thuế phải trả
Thu nhập d.nghĩa 5.000 7.500
Thuế danh nghĩa 250 375
Thuế suất b/q 5% 5%
Thuế theo giá thực 250 250
b. Thuế thu nhập trên vốn
- Giả sử mua một tài sản trị giá 1tỷ đồng. Ba năm sau bán được 2 tỷ đồng. Giả
sử thêm rằng, trong 3 năm đó mức giá chung tăng gấp đôi. Trên phương diện giá
thực, việc bán tài sản mang lại một khoản lãi thực bằng 0. Tuy nhiên, nghĩa vụ thuế
tính trên thu nhập từ vốn dựa trên sự khác biệt giữa giá mua và giá bán danh nghĩa.
Do đó, phải chịu một khoản thuế tính trên 1 tỷ đồng lãi giả tạo. Tóm lại, vì phần
tăng lênh của tiền lãi trên vốn (do lạm phát ) phải chịu thuế nên gánh nặng thuế thực
phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát.
c. Thuế thu nhập từ tiền lãi
- Người có thu nhập chịu thuế từ tiền lãi cũng bị ảnh hưởng tương tự. Giả sử
lãi suất danh nghĩa là 16%. Giả sử thêm rằng mức lạm phát dự đoán là 12%. Do đó
đối với những ai cho vay ở mức lãi suất danh nghĩa là 16% thì lãi suất thực chỉ là
4%, vì đó là tỷ lệ sức mua tăng lên thực sự của người cho vay. Tuy nhiên, thuế lại
được tính trên khoản tiền lãi danh nghĩa chứ không phải lãi thực. Tức là, thuế phải
được tính theo số tiền nhận được mà nó không đại diện cho một khoản thu nhập
thực sự nào.
- Chúng ta hãy xem xét ý tưởng này theo hướng đại số. Gọi lãi suất là i, thì lãi
suấtcho vay danh nghĩa sau thuế của người có thuế suất biên t là (1-t)i. Để xác định
15
Thuế và lạm phát

lãi suất thu được sau thuế chúng ta phải trừ đi tỷ lệ lạm phát dự kiến π. Do đó lãi
suất thu được sau thuế r là:

r= (1-t)i- π
Giả sử t=0.25, i=16%, và π=10%. Mặc dù lãi suất danh nghĩa là 16% nhưng
lãi suất thực sau thuế chỉ là (1-0.25)16%-10% = 2% .
Bây giờ giả sử là tỷ lệ lạm phát dự đoán tăng bao nhiêu thì lãi suất danh
nghĩa cũng tăng bấy nhiêu. Nếu lạm phát tăng thêm 4% thì lãi suất danh nghĩa cũng
tăng thêm 4%. Nghĩa là 2 biến có sự bù trừ nhau lúc này r giảm xuống 1%. Đây là
kết quả trực tiếp của việc đánh thuế vào khoản tiền lãi danh nghĩa thay vì tiền lãi
thực
Nếu chúng ta xem xét quan điểm của người đi vay. Nếu không có thuế, mức
lãi thực mà người vay phải trả bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát dự
đoán. Tuy nhiên, nếu người đóng thuế thoả mãn một số điều kiện nhất định thì họ
được phép khấu trừ các khoản trả lãi danh nghĩa ra khỏi thu nhập chịu thuế. Như
thế, người vay có thể khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế các khoản chi phí mà chúng
không hề làm giảm sút thu nhập thực sự của họ. Gánh nặng thuế đối với người đi
vay giảm xuống do lạm phát.
2.3. Thuế điều chỉnh lạm phát
- Theo các lý thuyết kinh tế, lạm phát và tăng giá có thể xuất phát từ nguyên
nhân cầu kéo hoặc chi phí đẩy. Trường hợp lạm phát do nguyên nhân cầu kéo làm
giá cả tăng cao. Nhà nước có thể dùng biện pháp điều chỉnh tăng thuế tiêu dùng làm
giảm bớt áp lực tăng cầu giả tạo, trên cơ sở điều chỉnh lại quan hệ cung cầu.
- Nếu lạm phát nảy sinh từ chi phí đẩy, thì việc giảm thuế đối với các yếu tố
đầu vào là cần thiết nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo điều kiện hạ giá bán
sản phẩm, trên cơ sở đó lập lại quan hệ cung cầu, ổn định giá cả thị trường.
Do vậy, đối với từng loại nguyên nhân lạm phát thì từng loại thuế có những
tác động điều chỉnh khác nhau như sau:
2.3.1. Thuế trực thu tác động tới lạm phát
Tỷ lệ lạm phát bắt đầu gia tăng vào cuối thập kỷ 60, người ta trở nên quan
tâm sâu sắc tới việc lạm phát làm cho gánh nặng thuế thu nhập thực sự tăng lên mà
không do thay đổi luật. Phản ứng trước tiên làm giảm nhẹ những tác động này là
một loạt cắt giảm đặc biệt thuế suất theo luật định. Hàng loạt những cắt giảm như

16
Thuế và lạm phát

vậy đã được thông qua vào khoảng 1969-1981, và chính những khoản cắt giảm này
là một phần thành công trong việc xoá bỏ tác động của lạm phát.
Ở Việt Nam từ đầu năm 2011, với mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, Chính phủ đã thực hiện quyết liệt các biện pháp thắt chặt về tiền tệ và tài
khóa. Đến thời điểm này, hiệu quả về chống lạm phát đã có kết quả bước đầu nhưng
đổi lại nền kinh tế cũng chấp nhận một sự trả giá khi gặp nhiều khó khăn từ các
chính sách thắt chặt. Với chính sách tiền tệ thắt chặt, đẩy lãi suất tăng cao, cắt giảm
đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước… đều có những hạn chế nhất định như lãi suất
tăng cao để hạn chế tăng trưởng tín dụng khiến cho doanh nghiệp thiếu vốn trầm
trọng, sản xuất kinh doanh trì trệ. Trong khi đó, với chính sách cắt giảm đầu tư từ
nguồn ngân sách nhà nước cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế, do nhà nước
là chủ đầu tư lớn nhất nên khi cắt giảm đầu tư đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh
doanh của nhiều doanh nghiệp, công ăn việc làm của người dân… Chính vì thế,
trong khi doanh nghiệp vẫn tiếp tục đương đầu với khó khăn, chính sách tiền tệ và
tài khóa chưa thể nới lỏng thì cần có những biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho nhà đầu
tư và doanh nghiệp để kích thích sản xuất và phát triển. Một trong những biện pháp
đó chính là việc miễn, giảm, hoãn các khoản thuế trực thu phải đóng; cải cách các
thủ tục để doanh nghiệp dễ dàng gia nhập thị trường, nới lỏng một số quy định để
doanh nghiệp phát triển và mở rộng kinh doanh Trong đó, trực tiếp và hiệu quả
nhất chính là các chính sách miễn giảm thuế.
PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền - Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế của Bộ
Tài chính khẳng định, trong số các giải pháp về tài chính thì việc sử dụng linh hoạt
công cụ thuế quan đã được minh chứng là có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế lạm
phát và bình ổn giá cả. "Độ trễ" của chính sách này được chứng minh là rất ngắn.
Giải pháp này thường phát huy tác dụng ngay sau khi chính sách được ban hành.
Thêm một điều nữa, liên hệ giữa thuế thu nhập và lạm phát, thì lạm phát
cũng như là một đòn bẩy vào chính mức thuế thu nhập của người có thu nhập. Cụ

thể môi trường lạm phát cao thì làm cho các khoản mất đi từ thuế có tác động lớn
hơn rất nhiều so với môi trường lạm phát thấp (thuế trên thuế). Chính vì vậy, giảm
17
Thuế và lạm phát

thuế trong môi trường lạm phát cao có tác dụng tích cực về hỗ trợ mức sống, hỗ trợ
vốn cho việc tiếp tục duy trì hoạt động đầu tư, kinh doanh. Ở Việt nam để giải quyết
vấn đề lạm phát và sự bất ổn của nền kinh tế trong thời gian qua đã có những điều
chỉnh miễn giảm thuế trực thu như:
 Từ khi có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 cho đến nay Luật thuế thu nhập các
nhân đã qua 02 lần điều chỉnh miễn giảm: lần 1 miễn toàn bộ thuế thu nhập cá
nhân 6 tháng đầu năm 2009, lần 2 miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 1-8-2011
đến hết ngày 31-12-2011 đối với cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương,
tiền công và từ kinh doanh đến mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1
(phần thu nhập tính thuế đến 5 triệu đồng/tháng, thuế suất 5%) của biểu thuế luỹ
tiến từng phần quy định tại Luật thuế thu nhập cá nhân.
 Theo hướng dẫn tại Thông tư số 113/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính, kể từ
ngày 19-9-2011, các khoản thu nhập vãng lai trên 1 triệu đồng mới bị khấu trừ
thuế (thay vì 500.000 đồng như trước đây). Cụ thể, các khoản chi trả tiền hoa
hồng, đại lý bán hàng, tiền lương, tiền công thu nhập từ 1 triệu đồng/lần trở
lên áp dụng mức khấu trừ tỷ lệ 10% trên tổng thu nhập với cá nhân đã có mã số
thuế. Đối với cá nhân chưa làm mã số thuế áp mức khấu trừ 20%.
 Mở rộng diện gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong 1 năm đối với
số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2011 tính trên phần thu nhập cho
các doanh nghiệp được quy định cụ thể. Giảm 30% số thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp năm 2011 đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa, trừ số thuế tính
trên thu nhập từ hoạt động kinh doanh xổ số, bất động sản, chứng khoán, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và thu nhập từ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và trừ các doanh nghiệp được xếp hạng
I, hạng đặc biệt thuộc các Tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp là các công ty tổ chức

theo mô hình công ty mẹ - công ty con mà công ty mẹ không phải là doanh
nghiệp nhỏ và vừa nắm giữ trên 50% vốn chủ sở hữu của công ty con; Doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông
18
Thuế và lạm phát

sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng các công
trình hạ tầng kinh tế - xã hội.
Đối với lạm phát do chi phí đẩy, việc miễn giảm các loại thuế như trên là rất
cần thiết. Đó cũng là một cách để cứu doanh nghiệp và chống suy giảm kinh tế,
chống lạm phát.
Thực tế, năm 2009, sau khi đối mặt với nhiều khó khăn từ khủng hoảng kinh
tế thế giới và lạm phát trong nước. Việt Nam đã đưa ra môt gói hỗ trợ kinh tế trong
đó có việc miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp. Đánh giá về việc miễn giảm thuế
năm 2009 cho thấy đã có hàng chục ngàn tỷ đồng doanh nghiệp được thụ hưởng do
miễn giảm. Hàng ngàn tỷ chậm nộp thuế được doanh nghiệp luân chuyển và sử
dụng một cách hiệu quả Chính sách này, cộng với các biện pháp hỗ trợ khác như
giảm lãi suất đã tác động mạnh mẽ đến doanh nghiệp không chỉ về ý nghĩa kinh tế
mà có tác động khích lệ tinh thần kinh doanh, tạo niềm tin cho doanh nghiệp.
Theo tính toán của Bộ Tài chính, tổng số thuế giãn năm 2011 khoảng
10,000 - 13,000 tỷ đồng; tổng số thuế miễn, giảm năm 2011 khoảng 5,250 - 6,500
tỷ đồng (trong đó số thuế thu nhập doanh nghiệp khoảng 2,500 -3,700 tỷ đồng; thuế
thu nhập cá nhân khoảng 1,750 - 1,800 tỷ đồng và thuế khoán khoảng 1,000 tỷ
đồng. Như vậy sẽ có khoảng 20 ngàn tỷ đồng được ở lại với doanh nghiệp trong
gian đoạn khó khăn này. Điều này được cho là tác động lớn và mang lại nhiều hy
vọng cho doanh nghiệp trong giai đoạn lạm phát như hiện nay.
Tuy nhiên, một nhà làm luật và học giả không thích cách làm này. Mỗi lần
cắt giảm chỉ bù đắp lạm phát trong thời gian ngắn. Sau đó lại phải thay đổi nhiều
hơn. Lênin đã từng nói: “con đường để xoá bỏ chủ nghĩa tư bản là xay chúng trong
cối xay thuế và lạm phát”. Mặc dù tác động qua lại giữa thuế và lạm phát ở Mỹ

chưa tạo ra những tác động tệ hại như vậy, nhưng đã có sự đồng ý phổ biến là nó đã
tạo ra những lệch lạc nghiêm trọng.
Nếu lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân cầu kéo thì khi giảm thuế trực thu
có nghĩa là làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, của dân chúng. Thu nhập khả dụng
của người dân tăng lên chắc chắn làm tăng tiêu dùng, không những hiện tại hôm
19
Thuế và lạm phát

nay mà cả trong tương lai. Chính từ việc tăng tiêu dùng lên như vậy, nếu nguồn
cung ứng hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế không tăng theo kịp thì chắc chắn
dẫn đến lạm phát tăng.
Do vậy, công cụ thuế phát huy tác động hiệu quả trong việc kiềm chế lạm
phát khi đã xác định rõ nguyên nhân gây ra lạm phát, nếu không sẽ có tác dụng
ngược như trên.
2.3.2. Thuế gián thu tác động tới lạm phát
PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền - Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế của Bộ
Tài chính cho rằng, với bản chất là một sắc thuế gián thu, gánh nặng thuế chủ yếu
do người tiêu dùng chịu, việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu sẽ tác động tức
thời đến giá bán của các mặt hàng này trên thị trường. Khi giá của một số hàng hoá
tăng, giải pháp của Chính phủ nhiều nước sử dụng đầu tiên là giảm thuế suất thuế
nhập khẩu một cách phù hợp. Ngược lại, đối với hàng hoá Nhà nước cần quản lý giá
điều tiết về quan hệ cung cầu như xăng dầu, khi giá giảm thì việc tăng thuế nhập
khẩu cũng được xem là giải pháp hữu ích. Việc này góp phần thực hiện được nhiều
mục tiêu khác bên cạnh việc bình ổn giá như tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước, thực hiện chính sách phân phối và điều tiết tiêu dùng một cách phù hợp.
Vì thế, câu trả lời cho bài toán lạm phát (đặc biệt đối với lạm phát nguyên
nhân do cầu kéo) là tăng các loại thuế gián thu để cắt giảm chi tiêu. Việc này sẽ làm
giảm nhu cầu và cuối cùng là giảm các áp lực giá cả. Do đó, sẽ giúp tạm thời giảm
lạm phát và đồng thời cũng là công cụ hữu dụng để giảm tốc độ tăng trưởng của
thương mại. Tuy nhiên, các chính phủ châu Á lại đang đi theo hướng ngược lại và

đều có mức thâm hụt khá lớn. Các quan chức khắp khu vực đang chống đỡ bằng
cách kiểm soát giá cả và trợ cấp để giảm tác động của "cú đấm" lạm phát. Các biện
pháp này rất tốn kém và không giải quyết được các vấn đề cốt lõi. Nông dân sẽ
không trồng thêm rau quả nếu giá cả nông phẩm của họ bị kiểm soát; những người
có xe hơi sẽ không tiếp tục dùng xe nếu chi phí xăng dầu tăng mãi.
20
Thuế và lạm phát

Cuối cùng, để thực hiện mục tiêu của Chính phủ về tập trung kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì ngành thuế đóng vai trò quan trọng trong việc phải
tập trung phấn đấu thực hiện thu ngân sách nhà nước hiệu quả bằng cách tăng
cường thực hiện các giải pháp quan trọng về quản lý thuế; rà soát, đánh giá lại các
nguồn thu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu trên địa bàn, làm rõ
những khoản thu, sắc thuế còn thất thu, các nguồn thu còn tiềm năng; áp dụng các
biện pháp thu liên quan đến đất đai, kinh doanh bất động sản, tài nguyên khoáng
sản… Đẩy mạnh hơn nữa công tác chống thất thu ngân sách, thực hiện quyết liệt
thu nợ và cưỡng chế nợ thuế, hạn chế nợ mới phát sinh; giao chỉ tiêu thu nợ thuế cụ
thể cho từng đơn vị.
Đối với ngành thuế, Bộ trưởng nhấn mạnh: phải triệt để thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí đối với tất cả các khoản chi tại cơ quan thuế các cấp, năm 2011
ngành thuế không khởi công xây dựng công trình, dự án mới, tạm dừng trang bị mới
xe ô tô, máy điều hóa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối thiểu chi phí điện, nước,
điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu; giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng
kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước.
Nếu ngành thuế thực hiện được các mục tiêu trên thì sẽ góp phần không nhỏ
vào việc giảm lạm phát hiện nay.
21
Thuế và lạm phát

KẾT LUẬN

Quá trình tìm hiểu về mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại Thuế và lạm phát, đã
giúp chúng ta có một cái nhìn thấu đáo hơn về ảnh hưởng của lạm phát đến quá
trình thực thi chính sách thuế. Qua đó, có thể thấy rằng những nhà làm chính sách
cần phải có cái nhìn rộng hơn, dự báo được tình hình lạm phát, để phần nào đó có
thể đưa ra những chính sách thuế hợp lý hơn, hạn chế bớt sự ảnh hưởng và tác động
từ lạm phát, cũng như có những điều chỉnh kịp thời, linh hoạt đối với chính sách
thuế trong những thời điểm mà nền kinh tế có lạm phát diễn biến phức tạp.
22
Thuế và lạm phát

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Sử Đình Thành và TS. Bùi Thị Mai Hoài, Tài chính công và phân
tích chính sách thuế, NXB LĐXH TP.HCM, 2009.
2. PGS.TS Nguyễn Thị Liên và PGS.TS Nguyễn Văn Hiệu, giáo trình Thuế,
NXB Tài chính, 2008
3. TS. Nguyễn Như Ý và ThS. Trần Thị Bích Dung, Kinh tế Vĩ mô, NXB
Thống kê, 2009
23
Thuế và lạm phát

24

×