Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Chỉ đạo sự phối hợp giữa GVCN với Gia đình và hội cha mẹ HS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.5 KB, 22 trang )

I. TÊN ĐỀ TÀI
“HIỆU TRƯỞNG CHỈ ĐẠO SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN CHỦ
NHIỆM VỚI GIA ĐÌNH VÀ HỘI CHA MẸ HỌC SINH NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHO HỌC SINH”

II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Quá trình giáo dục về bản chất là một quá trình tổ chức cuộc sống (học tập,
lao động, sinh hoạt tập thể, vui chơi giải trí, ) cho học sinh. Là một quá trình
chuyển hoá tự giác, tích cực những yêu cầu chuẩn mực xã hội thành hành vi, thói
quen tương ứng ở người học dưới vai trò chủ đạo của người giáo viên.
Thực chất vai trò của nhà giáo dục là việc tổ chức hợp lý các điều kiện và
mọi ảnh hưởng tác động đến hoạt động của học sinh. Vai trò hoạt động của nhà
sư phạm và nhà trường trong hoàn cảnh môi trường xã hội, quan hệ xã hội ngày
càng đa dạng, phong phú. Đó không chỉ là việc tổ chức tốt giáo dục trong nhà
trường mà còn phải tổ chức phối hợp tất cả các tác động, các lực lượng của toàn
xã hội tạo ra rự thống nhất yêu cầu, môi trường giáo dục, phát huy mọi tiềm
năng của xã hội, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của các tác động xã hội đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và tập thể học sinh. Hiệu
quả của hoạt động giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khách
quan và chủ quan của các chủ thể tham gia và quá trình giáo dục. Nhưng trong
quá trình thực hiện công việc này thì người giáo viên chủ nhiệm (GVCN) đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong việc tổ chức giáo dục học sinh.
Như chúng ta đã biết, người GVCN ngoài chức năng cơ bản của người giáo
viên là giảng dạy và giáo dục, còn có vị trí và chức năng cụ thể khác như: GVCN
lớp là người thay mặt Hiệu trưởng để quản lý toàn diện học sinh trong một lớp.
GVCN là cầu nối giữa Hiệu trưởng và GV khác, các tổ chức khác trong nhà
trường với học sinh và tập thể lớp chủ nhiệm. GVCN là người cố vấn cho các
hoạt động tự quản của tập thể học sinh và đặc biệt GVCN là người đại diện cho
nhà trường trong công tác phối hợp với gia đình, cha mẹ với học sinh và các lực
lượng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của lớp chủ nhiệm.
1


Thực tiển cho thấy, hiệu quả của việc tổ chức, giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng liên kết phối hợp các lực lượng xã hội, phát
huy mọi khả năng về mọi mặt của các lực lượng đó vào công tác giáo dục
Trong những năm trước đây, việc nhà trường và GVCN lớp tổ chức phối hợp với
gia đình, hội cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội khác ở Trường THCS
Hướng Hiệp đã diễn ra chưa đồng loạt, chưa khoa học và còn nhiều khiếm
khuyết. Do nhiều nguyên nhân tạo ra - nhưng nguyên nhân chính là do phía nhà
trường và những người trực tiếp làm công tác giáo dục chưa nhận thức sâu sắc
về tầm quan trọng của vấn đề này, cũng như chưa có kế hoạch cụ thể, khoa học
để chủ động tổ chức phối hợp, cho nên kết quả giáo dục tuy đạt yêu cầu nhưng
chưa toàn diện.
Để nhằm nâng cao nhận thức của giáo viên về vị trí, vai trò, chức năng của
nhà trường, của đội ngũ thầy giáo, cô giáo trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
Trước hết là người GVCN lớp trong công việc xây dựng môi trường, tập hợp và
tổ chức phối hợp giữa nhà trường với gia đình và hội cha mẹ học sinh vào công
tác giáo dục học sinh. Nhằm cung cấp và củng cố cho GVCN lớp những lý luận
cơ bản về phương pháp tổ chức giáo dục, rèn luyện, hình thành những kỷ năng tổ
chức liên kết các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường vào công tác giáo
dục.
Là một người làm công tác quản lý, tôi xin nêu ra một số kinh nghiệm về
thực trạng và giải pháp cơ bản sau: “Hiệu trưởng chỉ đạo sự phối hợp giữa giáo
viên chủ nhiệm với gia đình và hội cha mẹ học sinh nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục cho học sinh ” cũng như thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục
ở địa phương. Đó chính là lý do tôi chọn vấn đề này.
Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của vấn đề này: Trên cơ sở lý luận về nội
dung của việc phối hợp giữa nhà trường mà đại diện là GVCN với gia đình và
hội cha mẹ học sinh trong quá trình giáo dục, để tìm ra những điều còn hạn chế
và đưa ra những biện pháp cơ bản nhằm thực hiện công tác nói trên ở Trường
THCS Hướng Hiệp
2

Nếu vấn đề này được trình bày thành công, có tính khả thi trong thực tiễn
thì việc áp dụng nó vào công tác giáo dục ở Trường THCS Hướng Hiệp của
GVCN lớp sẽ đạt kết quả cao trong công tác giáo dục cũng như việc thực hiện xã
hội hoá giáo dục ở xã nhà và giúp cho các Trường trung học cơ sở khác cùng
thực trạng nói trên có điều kiện tham khảo, áp dụng một số biện pháp vào đơn vị
mình. Đưa sự nghiệp giáo dục của Huyện nhà nói chung và xã Hường Hiệp nói
riêng ngày một đi lên.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Quan điểm tiếp cận tổng hợp đối với quá trình sư phạm đòi hỏi phải tổ chức
đúng đắn và kết hợp chặt chẽ quá trình giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và
quá trình giáo dục xã hội thành một quá trình thống nhất, liên tục, hướng vào
việc phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Nhưng muốn làm tốt công tác
này, người giáo viên không những có kiến thức về giáo dục nhà trường, mà cần
phải có hiểu biết về giáo dục gia đình, giáo dục xã hội, tri thức và kỷ năng trong
việc tổ chức phối hợp giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong công
tác giáo dục việc phồi hợp này có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong chế độ chúng ta mục đích và nội dung giáo dục của nhà trường, gia
đình và xã hội thống nhất với nhau, đều nhằm đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ trở
thành người có tài, có đức, có năng lực thực hành, năng động và sáng tạo thành
những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì xuất phát từ tinh thần trách
nhiệm đối với dân tộc, tình thương yêu đối với con em mình mà nhà trường, gia
đình và xã hội phải phối hợp, liên kết chặt chẽ với nhau để chăm sóc, giáo dục
học sinh trở thành những con người có ích cho xã hội.
Mặt khác giáo dục nhân cách cho học sinh là một quá trình khó khăn, phức
tạp, lâu dài và liên tục, bao gồm các ảnh hưởng khác nhau của gia đình, nhà
trường và xã hội. Vì vậy nếu kết hợp nhau lại sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, tạo
nên sự thống nhất và liên tục. Hơn nữa học sinh của chúng ta sinh sống và học
tập không phải chỉ có ở trường mà còn sống ở gia đình và xã hội, tạo điều kiện
để các em được giáo dục ở mọi nơi, mọi chổ, mọi lúc.
3

Ngoài ra việc phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội vừa
làm cho quá trình giáo dục thống nhất, toàn vẹn, vừa làm cho giáo dục của nhà
trường, gia đình và xã hội tốt hơn.
Chính vì vậy Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã căn dặn “Giáo dục trong
nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia
đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong
nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và xã hội thì kết
quả cũng không hoàn toàn”
1. Vai trò và đặc điểm của giáo dục gia đình:
a. Vai trò của giáo dục gia đình.
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh sống, lớn lên và hình
thành nhân cách của mình. Gia đình là cơ sở để duy trì nòi giống của con người
và là cơ sở của việc giáo dục thế hệ trẻ đang lớn lên. Không có gia đình tái sản
xuất bản thân con người để góp phần quan trọng vào việc đào tạo và bồi dưỡng
con người có ích, thì xã hội không thể tồn tại và phát triển. Gia đình phản ánh
những thành tựu, những khó khăn, những mâu thuẩn của đời sống xã hội và đồng
thời gia đình cũng ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
Vì vậy khi nói đến vai trò của gia đình trong việc giáo dục học sinh, Đảng
và Nhà nước ta đã nhấn mạnh: Đào tạo con người mới là nhiệm vụ của toàn xã
hội, trong đó gia đình giữ vai trò vô cùng quan trọng, vì thế cha mẹ không thể tự
giảm nhẹ trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con em mà trái lại cần xây
dựng gia đình trở thành trường học thực sự để dạy dỗ con em nên người.
Giáo dục gia đình có ý nghĩa to lớn đối với việc đào tạo con người mới vì
giáo dục gia đình trược tiếp tác động mạnh mẽ đến trẻ ngay trong thời kỳ thơ ấu,
là thời kỳ đặt nền móng vững chắc cho tương lai của con em. Gia đình là cái nôi
sinh thành con người và hình thành nhân cách cho các em. Gia đình là một xã
hội thu nhỏ, trong đó con người sống và hoạt động.
Gia đình là lực lượng giáo dục thường xuyên tác động, điều chỉnh phát triển
nhân cách không phải bằng pháp luật mà bằng bầu không khí tình cảm đặc biệt
lành mạnh trong gia đình. Gia đình là môi trường vi mô nhằm nhân cách hoá

4
những yêu cầu xã hội vĩ mô (từ cộng đồng, nơi ở, nơi học tập, nơi công tác đến
môi trường địa phương, huyện, tỉnh, quốc gia, quốc tế ) Gia đình tiếp nhận,
sàng lọc, xử lý thông tinh, có vai trò định hướng giá tri đạo đức cho mỗi công
nhân, cho thế hệ trẻ là những thành viên trong gia đình. Gia đình là cầu nối giữa
cá nhân với cộng đồng xã hội từ vi mô đến vĩ mô nên có ảnh hưởng mạnh mã
sâu sắc và toàn diện với học sinh.
b. Đặc điểm giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình có những đặc điểm khác với giáo dục của nhà trường.
Trước hết, giáo dục gia đình có tính xúc cảm nhiều hơn so với bất kỳ lĩnh vực
giáo dục nào khác. Vì nó dựa trên tình thương yêu của cha mẹ đối với con cái và
tình cảm quyến luyến, tin cậy của con cái đối với cha mẹ. Sống trong gia đình trẻ
em được che chở, đùm bọc, thương yêu, nên những suy nghĩ, tình cảm, ước
muốn, lối sống của các em đều chịu ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài của gia đình.
Trong gia đình trẻ em thường chỉ bắt chước sự đánh giá của người lớn về các
vấn đề và phương diện khác nhau: hành vi, thói quen đạo đức, sự kiện chính trị,
xã hội.
Là một tế bào xã hội, gia đình dìu dắt con cái thích ứng dần vào đời sống xã
hội, mở rộng từng bước nhản quang và kinh nghiệm của trẻ em. gia đình còn là
một nhóm xã hội nhỏ không đồng nhất về lứa tuổi, giới tính,nghề nghiệp Điều
này cho phép trẻ em biểu hiện một cách rõ hơn những năng lực trí tuệ và tình
cảm của mình thuận lợi và nhanh chóng hơn các môi trường xã hội khác. Gia
đình thường để lại những dấu ấn sâu sắc trong nhân cách trẻ. Những phẩm chất,
nhân cách của cha mẹ, niềm tin, bầu không khí tâm lý, lối sống, truyền thống,
của gia đình thường để lại những dấu ấn sâu sắc và bền vững ở trẻ. Trong gia
đình những mối quan hệ thân thiết, gắn bó, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau cũng
để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn trẻ.
Song những đặc điểm này của giáo dục gia đình có những mặt thuận lợi và
những mặt không thuận lợi trong việc giáo dục học sinh. Tình yêu thương sâu
sắc, rộng lớn của cha mẹ đối với con cái và sự kính yêu, tôn trọng của con cái

đối với cha mẹ chính là mặt mạnh, thuận lợi nhất trong giáo dục gia đình, không
5
có một tổ chức giáo dục nào của xã hội có thể so sánh được. Nhưng nếu không
định hướng được rõ ràng, không có sự sáng suốt của nguyên tắc sư phạm, không
yêu cầu cao đối với trẻ thì đây chính là nguyên nhân lớn gây ra những thói hư tật
xấu cho trẻ em.
Truyền thống, phong tục, tập quán của gia đình nuôi dưỡng những giá trị
tinh thần, tu dưỡng tình cảm của con cái đối với thế hệ cha ông.
Nhưng nếu phong tục, truyền thống của gia đình có những yếu tố lạc hậu,
lỗi thời thì cũng sẽ ảnh hưỡng sâu sắc đến nhân cách của trẻ.
Bên cạnh những gia đình văn hoá mới, những gia đình tiến bộ, vẫn còn
những gia đình có quan niệm trọng nam khinh nữ, đề cao quá mức giá trị của
đồng tiền, rượu chè, cờ bạc ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách của trẻ.
Vì vậy để giáo dục con được tốt thì gia đình cần phải xây dựng gia đình trở
thành môi trường giáo dục lành mạnh, trong sáng. gia đình phải là môi trường
giáo dục thuận lợi. Muốn vậy phải tạo ra cuộc sống gia đình phù hợp với cuộc
sống xã hội, làm cho con người có cảm giác thoải mái, thân thương, đầm ấm khi
ở gia đình. Các thành viên trong gia đình phải luôn luôn tôn trọng , giúp đỡ lẫn
nhau, có trách nhiệm với nhau, cha mẹ phải là gương sáng cho con trẻ noi theo.
Giáo dục gia đình phải phù hợp với mục đích và nhiệm vụ giáo dục của nhà
trường. Cha mẹ phỉ có sự hiểu biết về khoa học giáo dục con em trong gia đình,
có phương pháp giáo dục tốt để đạt được hiệu quả mong muốn.
2. Vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Hội cha mẹ học sinh.
Hội cha mẹ học sinh là một tổ chức của các bậc làm cha, làm mẹ, có con
cùng học một lớp, một trường, tập hợp nhau nhằm bàn bạc việc thực hiện những
nhiệm vụ do GVCN, BGH đề ra. Ngoài ra hội còn giúp nhà trường, GVCN giải
quyết những khó khăn trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh.
Hội cha mẹ học sinh là bộ mặt chung của tất cả các cha mẹ học sinh trong
một lớp, trong trường. Thông qua hội mà mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường
ngày càng được cũng cố, bề vững hơn. Họ có quyền được họp hành, bàn bạc với

nhà trường và GVCN về vấn đề kiểm tra, đánh giá tình hình học tập, rèn luyện tu
6
dưỡng cũng như đại diện cho tiếng nói của quần chúng nêu lên các kiến nghị với
nhà trường.
Hội cha mẹ học sinh có chức năng là người tập hợp những đóng góp của gia
đình học sinh về mọi mặt, là người luôn theo dõi sát sao tình hình học tập, cũng
như rèn luyện các hành vi và phẩm chất đạo đức của học sinh trong lớp, ở trường
cũng như ở nhà. Luôn kịp thời góp ý, bàn bạc với giáo viên và cha mẹ học sinh
đễ giúp đỡ kịp thời, đồng thời hội còn góp phần tổ chức các hoạt động, phối hợp
các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường nhằm hổ trợ cho việc thực hiện mục
tiêu giáo dục của nhà trường. Ngoài ra hội còn thay mặt cha mẹ học sinh trong
lớp góp ý với giáo viên những vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy học và giáo
dục học sinh ở trường mà cha mẹ học sinh ngại không dám nói.
Hội cha mẹ học sinh là tổ chức nhằm liên kết, phối hợp giáo dục của nhà
trường với gia đình để tạo ra sự thống nhất nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học
sinh trong và ngoài nhà trường, quản lý chặt chẻ thời gian hoạt động của HS
Hội cha mẹ học sinh có nhiệm vụ quán triệt mục tiêu giáo dục, nhiệm vụ
năm học tới các bậc phụ huynh. Truyền đạt những yêu cầu, nội dung giáo dục và
tổ chức hoạt động của học sinh ngoài nhà trường, ở gia đình theo kế hoạch của
lớp, trường đặt ra. Hội có nhiệm vụ tổ chức, trao đổi kinh nghiệm giáo dục, giúp
nhau có những biện pháp, hình thức tổ chức cho con em tự học ở nhà có kết quả.
Ngoài ra hội cha mẹ học sinh còn có nhiệm vụ liên hệ với các tổ chức xã
hội, đoàn thể quần chung, cơ sở sản xuất ở địa phương để giúp đở hoạt động của
nhà trường, của lớp học.
Hội có thể giúp đở nhà trường, GVCN tổ chức hoạt động học tập, hoạt động
giáo dục của học sinh cac lớp.
Hội còn có nhiệm vụ huy động các lực lượng xã hội giúp trường về mọi
măt, có thể là xây dựng, sửa chữa trường lớp bàn ghế, trang thiết bị chăm sóc
giúp đỡ thầy cô giáo của nhà trường như tổ chức ngày Nhà Giáo Việt Nam, giúp
đỡ các thầy cô giáo có hoàn cảnh đặc biệt

7
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu:
Giáo viên chủ nhiệm và học sinh trường THCS Hướng Hiệp - Đakrông
2. Phương pháp nghiên cứu:
a. Nghiên cứu lý luận: Các vấn đề có liên qua đến giáo dục văn hóa, đạo
đức cho học sinh Trung học cơ sở.
b. Điều tra:
- Phỏng vấn giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, cha mẹ học sinh, hội
cha mẹ học sinh.
- Điều tra một số học sinh trong nhà trường
8
V- PHẦN NỘI DUNG
A- THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG
VỚI GIA ĐÌNH VÀ HỘI CHA MẸ HỌC SINH
1. Thực trạng xã hội ở xã Hướng Hiệp với việc giáo dục cho con em:
Muốn cho xã hội ngày một đi lên, tiến tới văn minh thì đòi hỏi con người
phải có tri thức. Vấn đề giáo dục nhằm nâng cao chất lưọng cho học sinh không
chỉ dừng lại ở một chuẩn mực nhất định mà nó là một quá trình giấo dục lâu dài,
cho nên việc giáo dục nâng cao chất lượng rất được coi trọng .
Đặc biệt thực trạng xã hội ở địa bàn xã Hướng Hiệp một địa bàn miền núi
tương đối phức tạp. xã có diện tích rộng nhưng người lại thưa. Thành phần ở đây
có hai dân tộc chủ yếu là Dân tộc Vân Kiều và một số người dân tộc Kinh, người
dân sống chủ yếu bằng nghề lao động nương rẫy. Một số ít làm nghề buôn bán
nhưng thu nhập còn rất thấp. Tình hình xã hội hết sức phức tạp, cho nên cuộc
sống kinh tế của người dân còn khó khăn nhiều, nhiều gia đình có trình độ thấp
kém, phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ làm cho việc học tập của con em phát
triển theo chiều hướng chưa tốt. Ngoài xã hội ở địa bàn xã Hướng Hiệp các đoàn
thể ít quan tâm đến vấn đề giáo dục, họ xem việc giáo dục cho học sinh là trách
nhiệm của nhà trường, của các thầy cô.

2. Thực trạng của nhà trường trong việc giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học cho học sinh.
Trực tiếp giáo dục, giảng dạy cho học sinh là tập thể các thầy cô giáo, anh
chị Tổng phụ trách và đặc biệt gần gủi nhất với các em là giáo viên chủ nhiệm.
Nhà trường là nơi đào tạo thế hệ trẻ, là nơi giảng dạy văn hóa, giáo dục đạo đức
cho học sinh nhưng bên cạnh đó cần phải có sự phối hợp của gia đình cũng như
xã hội. Phần nhiều các bậc phụ huynh học sinh ở đây chưa thực sự quan tâm đến
con em từ việc dạy dỗ con em học hành đến việc giáo dục đạo đức cho con cái.
Việc giảng dạy và giáo dục học sinh còn khoán trắng cho nhà trường. Vì vậy,
giáo viên chủ nhiệm các thầy cô đã tự nhận thấy trách nhiệm nặng nề của mình
là không những giảng dạy văn hóa cho học sinh mà còn phải giáo dục đạo đức
9
cho học sinh để các em trở thành một học sinh có kiến thức tốt, có phẩm chất
đạo đức tốt.
3. Thực trạng của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc phối hợp với gia
đình và hội cha mẹ học sinh:
Bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận được mà phạm vi đề tài
này không đề cập đến của GVCN với việc phối hợp với gia đình học sinh, thì
việc phối hợp đó còn có những mặt hạn chế sau:
Đa số GVCN chỉ thực hiện nhiệm vụ giảng dạy gói gọn trong nhà trường,
trên lớp học. Họ chưa xác định được ý nghĩa của việc phối hợp với gia đình học
sinh là nhiệm vụ chủ yếu của GVCN.
Vấn đề họp phụ huynh chỉ tổ chức họp vào đầu năm, giữa và cuối năm.
Trong các cuộc họp chỉ nói vấn đề học của con em, vắn đề đậu nộp, chứ ít nói
đến mục tiêu, kế hoạch của nhà truờng. Không nêu lên được vị trí, chức năng của
gia đình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh. Chưa bàn sâu
về nhiệm vụ, nội dung thống nhất giữa nhà trường, gia đình trong từng tháng,
từng giai đoạn. Chưa thống nhất, phân công nhiệm vụ của gia đình và nhà trường
để cùng bàn bạc đề ra những biện pháp giáo dục thống nhất, phù hợp. Cho nên
một số cha mẹ học sinh quan niệm công việc giáo dục là “Trăm sự nhờ thầy” cho

con đi học, đến trường là được, là đủ.
GVCN chưa có ké hoạch phối hợp với các giáo viên khác và nhà trường để
trang bị cho cha mẹ học sinh một số kiến thức cơ bản về giáo dục gia đình, cách
thức tor chức quá trình học tập, rèn luyện cho học sinh ở gia đình và cộng đòng.
GVCN chưa nắm được tình hình học tập của con em ở gia đình thế nào. Do
không sử dụng phổ biến sổ liên lạc gia dình và do GVCN chưa tích cực, chủ
động đi thăm và trao đổi trực tiếp tại gia dình học sinh để thu thập thông tin hai
chiều, mà chỉ áp dụng trường hợp này đối với học sinh cá biệt, chứ không có kế
hoạch cụ thể từ trước. Mặt khác ít có cha mẹ học sinh đến gặp gỡ trực tiếp giáo
viên ở lớp hoặc ở nhà giáo viên để trao đỏi những vấn đề liên quan đến công tác
giáo dục học sinh, con em mình.
10
GVCN chưa thu hút được cha mẹ học sinh tham gia vào các hoạt động của
nhà trường. Nhà trường không tổ chức các hoạt động ngoại khoá để thu hút sự
tham gia của cha mẹ học sinh.
4. Thực trạng của GVCN lớp trong việc phối hợp với Hội cha mẹ học
sinh:
Mặc dù các lớp đều có bầu ra một ban đại diện cho cha mẹ các học sinh
trong một lớp, nhưng xét về mọi mặt thì Hội cha mẹ học sinh ở lớp hoạt động
đang còn nhiều vấn đề hạn chế. Điều này do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết
là do ở GVCN trong việc phối hợp với Hội cha mẹ học sinh.
Việc thành lập Hội cha mẹ học sinh còn mang tính hình thức chưa dựa vào
các tiêu chí cụ thể để chọn ban đại diện Hội.
GVCN chưa bàn bạc cụ thể kế hoạch triển khai hoạt động phối hợp giữa
GVCN với Hội, cho nên Hội cha mẹ học sinh chưa nắm được chức năng nhiệm
vụ của mình. Việc kết hợp giữa GVCN với Hội chưa tiến hành thường xuyên,
liên tục. Hội chưa trở thành một lực lượng tham gia đánh giá, nhận xét học sinh
của lớp học và là một thành viên của ban giáo dục ở cộng đồng, nơi gia đình học
sinh cư trú.
GVCN chưa nắm phương pháp vận động quần chúng trong giáo dục, chưa

biết cách vận động quần chúng có uy tín đối với học sinh và cha mẹ học sinh.
GVCN chưa khách quan công bằng trong việc đánh giá quá trình học tập, rèn
luyện của học sinh.
Những vấn đề hạn chế này là do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tạo
nên. Nhưng điều cốt lõi dẫn đến tình trạng này là do phía nhà trường, GVCN
chưa có kế hoạch cụ thể, khoa học để tạo điều kiện cho sự phối hợp nói trên
được tiến hành và hoạt động một cách có chất lượng.
Do vậy muốn làm tốt công tác giáo dục học sinh nói chung và công việc
phối hợp giữa GVCN với gia đình và Hội cha mẹ học sinh ở trường THCS
Hướng Hiệp nói riêng cần có những biện pháp cơ bản cụ thể và khoa học phù
hợp với thực trạng này.
11
B- MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LÀM TỐT
CÔNG TÁC PHỐI HỢP VỚI GIA ĐÌNH VÀ HỘI CHA MẸ HỌC SINH
TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH.
I. Biện pháp phối hợp giáo dục của GVCN với gia đình học sinh
Việc phối hợp với cha mẹ học sinh là nhiệm vụ chủ yếu của GVCN. Song
muốn cho việc phối với cha mẹ học sinh đem lại kết quả tốt, thì nhà trường và
GVCN cần phải làm cho cha mẹ hiểu rõ nội dung, yêu cầu biện pháp giáo dục
học sinh để gia đình biết cách phối hợp. Mặt khác nhà trường phải cung cấp hoặc
giúp cha mẹ học sinh nắm được các tri thức và kinh nghiệm giáo dục trong gia
đình.
Việc phối hợp với cha mẹ có thể được tiến hành bằng các biện pháp sau:
1/ Tổ chức họp cha mẹ học sinh theo định kì: có thể tổ chức họp theo từng
tháng, hai tháng một lần. Trong các cuộc họp đó phải thông báo cho cha mẹ hiểu
rõ được các yêu cầu, mục tiêu kế hoạch của nhà trường, của lớp, nêu lên vai trò,
vị trí chức năng của gia đình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học
sinh.
2/ Thông báo kết quả học tập rèn luyên tu dưỡng của học sinh trong lớp nói
chung và từng học sinh nói riêng. Đánh giá sự tiến bộ hoặc khó khăn của từng

học sinh cụ thể.
3/ Xác định những nhiệm vụ, nội dung giáo dục thống nhất giữa nhà trường
và gia đình trong tháng hoặc từng giai đoạn. Thống nhất phân công nhiệm vụ của
gia đình và nhà trường, cùng bàn bạc, đề ra những biện pháp tác động giáo dục
thống nhất phù hợp.
4/ Trang bị cho cha mẹ học sinh một số kiến thức cơ bản về giáo dục gia
đình, cách tổ chức quá trình học tập, rèn luyện cho học sinh ở gia đình và ở cộng
đồng. Nêu lên nhiệm vụ của hội cha mẹ học sinh.
Có thể phối hợp với gia đình thông qua ban đại diện cha mẹ học sinh, hội
cha mẹ học sinh của lớp, của trường. Hội cha mẹ học sinh phải thường xuyên
gặp gỡ GVCN lớp để nắm tình hình chung của học sinh và thông qua hội cha mẹ
12
học sinh có thể tổ chức mạng lưới các cộng tác viên giúp cho việc giáo dục học
sinh được tốt hơn.
5/ GVCN phải sử dụng phổ biến sổ liên kết giáo dục. Sổ này khác với sổ
liên lạc gia đình lâu nay ta thường dùng bởi sổ liên lạc có những điểm hạn chế,
sổ này thường do GVCN hoặc của học sinh chuyễn trực tiếp đến cha mẹ học
sinh, vì vậy các em có thể nhờ người lớn nhận xét và chữ ký của cha mẹ mình.
Điều này chỉ có gia đình và GVCN biết các thông tin cần thiết và nhiều cha mẹ
học sinh không gián tiếp phản ánh đúng sự thực các hiện tượng sai sót, biểu hiện
hành vi không đúng của con em mình ở gia đình và ở cộng đồng.
Vì vậy để đảm bảo tính khách quan, trung thực về quá trình học tập, rèn
luyện của học sinh ở gia đình, cộng đồng, nhà trường nên dùng sổ liên kết giáo
dục. Như vậy là có ít nhất ba lực lượng tham gia nhận xét, đánh giá học sinh
(nhà trường, gia đình và cộng đồng). ở cộng đồng có thể do ban chăm sóc giáo
dục, hội cha mẹ học sinh chịu trách nhiệm. Đại diện của cộng đồng nơi học
sinh đang sống sẻ là người chuyển giao sổ giữa GVCN và gia đình học sinh.
6/ GVCN phải thường xuyên thăm và trao đổi trực tiếp tại gia đình học
sinh. Đây là phương pháp quan trọng nhất và có hiệu quả nhất nhằm tìm hiểu
học sinh và giúp cha mẹ học sinh giáo dục con cái được tốt hơn. Vì vậy phương

pháp này phải tiến hành một cách chủ động, có kế hoạch với tất cả học sinh trong
lớp chứ không phải chỉ đối với các học sinh cá biệt.
Sữ dụng phương pháp này giáo viên không những biết tình hình cụ thể về
học sinh, mà còn nắm được phong tục, truyền thống của gia đình học sinh, điều
kiện sống, học tập của học sinh tất cả những điều này sẽ giúp ích sất nhiều cho
GVCN trong công tác giáo dục học sinh.
7/ GVCN và phụ huynh cần phải gặp gỡ trao đỗi trực tiếp với nhau. Phương
pháp này khác với phương pháp thăm gia đình học sinh ở chổ phụ huynh học
sinh có thể đến trường gặp gỡ trao đổi với GVCN hoặc đến nhà giáo viên trao
đổi để nắm được tình hình của con em ở trường.
8/ GVCN phải tổ chức tư vấn giáo dục. Đây là một phương pháp tuy còn
mới song có thể mang lại hiệu quả cao. Người đứng ra làm công tác tư vấn có
13
thể là GVCN hoặc phụ huynh học sinh có lý luận, kinh nghiệm, có điều kiện về
thời gian và tận tình với công việc. Họ có thể làm cố vấn để giúp giáo viên hoặc
cha mẹ học sinh để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác giáo dục
trẻ.
9/ GVCN phải tổ chức cho cha mẹ báo cáo điển hình. Phương pháp này yêu
cầu GVCN phải chọn các phụ huynh học sinh là những người có con chăm
ngoan, học giỏi, có nhiều thành tích xuất sắc trong học tập, rèn luyện và yêu cầu
họ báo cáo kinh nghiện để cac phụ huynh khác học tập làm theo. Song lưu ý đây
không phải chỉ là cha mẹ có các con ngoan học giỏi mà là những người có học
vấn, hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau như: Đặc điểm tâm sinh lý trẻ, giáo dục
gia đình,
10/ Tổ chức các buổi hội thảo, mời chuyên gia nói chuyện trao đổi về
phương pháp, cách thức giáo dục học sinh. Đây các buổi hội thảo mang tính chất
toàn trường hoặc từng khối lớp. Đó là các chuyên gia về các lĩnh vực về tâm lý
học và v học, không những cung cấp cho cha mẹ học sinh những kiến thức cơ
bản về giáo dục con em trong gia đình mà còn giúp cho nhà trường có thể thực
hiện tốt công tác kết hợp với gia đình nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả

giáo dục.
Thu hút cha mẹ học sinh tham gia vào các hoạt động của nhà trường.
Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả phù hợp với cấp tiểu học. Thông qua
phương pháp này giáo viên có thể giới thiệu cho cha mẹ học sinh về các dạy của
mình hoặc vận động cha mẹ học sinh tham gia các hoạt động ngoại khoá, các
hoạt động theo hứng thú của học sinh: tham quan, du lịch, cắm trại của trường,
sẽ làm cho cha mẹ học sinh có điều kiện về công tác trẻ em, có thêm kinh
nghiệm và kỷ năng giáo dục con em mình. Khi tham gia vào các hoạt động của
lớp cùng với học sinh, cha mẹ sẽ hiểu được tâm lý lứa tuổi các em, được biết các
bạn của con mình, nắm được quan hệ của con mình với các bạn, từ đó có thể
hướng dẫn, điều chỉnh các hành vi của con cho phù hợp.
Qua đó cha mẹ có thể hiểu thêm về trường lớp, về con cái mình ở trường và
sẽ cảm thấy gần gũi, thân thiết hơn với nhà trường.
14
Ngoài ra có thể sử dung hình thức mời cha mẹ học sinh đến trường. Hình
thức này chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết. Ví dụ: khi học sinh vi
phạm những lỗi lầm nghiệm trọng như: gây gỗ, đanh nhau gây thương tích, bỏ
học thành hệ thống, hỗn láo, vô lễ với giáo viên Dù bất kỳ tròng trường hợp
nào thái độ của giáo viên phải bình tĩnh, chân thành, đỡ gây cho cha mẹ học sinh
cảm giác bị xúc phạm mạnh. Vấn đề cốt lõi là nên bàn bạc tìm cách để giáo dục.
II. Biên pháp phối hợp giáo dục của GVCN đối với hội cha mẹ học sinh.
Cần lưu ý người đứng ra chủ động tổ chức phối hợp ở phạm vi nhà trường
là Hiệu trưởng, ở lớp là GVCN lớp:
*Thứ nhất. GVCN cần căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của lớp, của nhà trường,
của cộng đồng, gia đình học sinh để tổ chức phối hợp với hội cha mẹ học sinh.
Từ sự thống nhất các yêu cầu, đến sự thống nhất các tác động. Điều này không
chỉ dừng ở nhận thức mà quan trọng là xây dựng được chương trình, kế hoạch
hoạt động thống nhất, khép kính cả về thời gian và không gian tác động đến học
sinh.
*Thứ hai. Ngay trong buổi họp cha mẹ học sinh đầu năm học, sau khi GVCN

thay mặt nhà trường báo cáo nhiệm vụ, kế hoạch năm học, nêu lên những yêu
cầu đối với gia đình và hội cha mẹ học sinh, ban đại diện hội cha mẹ học sinh
(tạm thời) nếu có, giải pháp phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục học
sinh, sau đó cha mẹ học sinh sẽ bầu ra ban đại diện chính thức. Thành viên của
ban đại diện cha mẹ học sinh phải là những người có trình đội văn hoá, có hiểu
biết xã hội, nhiệt tình, có uy tín, tinh thần trách nhiệm cao, có thời gian và điều
kiện hoạt động ở khu vực trường, lớp
Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm học, GVCN nên mời đại diện
BGH đến dự, phụ trách Đoàn - Đội của nhà trường, các giáo viên khác điều
này sẻ có tác động rất lớn đến phụ huynh học sinh, làm tăng mức quan trọng của
buổi họp cũng như làm cho hội cha mẹ học sinh thấy được trách nhiệm của mình
đối với con em, đối với nhà trường.
Trong buổi họp đầu tiên cần dành một thời gian nhất định để giới thiệu các
bậc cha mẹ học sinh và các em học sinh trong lớp. Nhưng tuyệt đối không được
15
nhắc đến những đặc điểm gây ấn tượng không tốt, không có lợi, gây mặc cảm,
hoặc làm cho các bậc cha mẹ bị xúc phạm.
* Thứ ba. Ban đại diện chính thức sẽ bàn với GVCN để thực hiện những chức
năng, nhiệm vụ của hội cha mẹ học sinh. Việc kết hợp giữa GVCN với hội cha
mẹ học sinh phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Ban đại diện cần nắm vững hoàn cảnh, điều kiện các bậc phụ huynh về
nhân lực, tài lực để có sự phân công hợp lý, phát huy hết tiềm năng của hội cha
mẹ học sinh trong việc tổ chức các hoạt động của học sinh ở gia đình và ngoài
lớp học. GVCN cần phải xem hội cha mẹ học sinh là một thành phần, một lực
lượng tham gia đánh giá, nhận xét học sinh của lớp học và là một thành viên của
ban giáo dục ở cộng đồng nơi gia đình học sinh cư trú.
* Thứ tư. Muốn phát huy tốt của hội cha mẹ học sinh trong công tác giáo dục
học sinh đòi hỏi trước hết GVCN phải là người nắm vững phương pháp vận
động quần chúng trong giáo dục, biết cách vận động quần chúng có uy tính đối
với học sinh và cha mẹ học sinh. GVCN phải là người khách quan, công bằng

trong việc đánh giá quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Mặt khác những
người trong ban đại diện của hội cha mẹ học sinh trước hết phải là người có uy
tín, có gia đình hạnh phúc, có con em chăm ngoan, học giỏi, bản thân họ và gia
đình họ phải là những tấm gương sáng cho các gia đình khác học tập và noi theo.
Do vậy hiệu quả hoạt động của hội cha mẹ học sinh phù thuộc vào năng lực
tổ chức hoạt động biết vận dụng các phương pháp tổ chức tác động giáo dục hợp
lý, sáng tạo mà GVCN đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
16
VI - KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO
1. Năm học 2006-2007.
* Chất lượng giáo dục:
- Hạnh kiểm: + Tốt : 243 học sinh đạt : 71,1%
+ Khá : 80 học sinh đạt : 23,4%
+ Trung bình: 19 học sinh chiếm: 5,5%
- Học lực: + Giỏi: 21 học sinh đạt: 6,1%
+ Khá: 80 học sinh đạt: 23,4%
+ Trung bình: 241 học sinh chiếm: 70,5%
* Chất lượng mũi nhọn: Mộ giải nhất, một giải nhì, một giải khuyến khích thực
hành Sinh Học và một giải khuyến khích môn Ngữ Văn cấp Tỉnh. Một giải nhất,
một giải ba và một giải khuyến khích cấp Huyện
2. Năm học 2007 - 2008:
* Chất lượng giáo dục:
- Hạnh kiểm: + Tốt : 256 học sinh đạt : 76,6%
+ Khá : 70 học sinh đạt : 21,0%
+ Trung bình: 08 học sinh chiếm: 2,4%
- Học lực: + Giỏi : 24 học sinh đạt: 7,2%
+ Khá : 84 học sinh đạt: 25,1%
+ Trung bình: 226 học sinh chiếm: 67,7%
* Chất lượng mũi nhọn:
+ Cấp Huyện: 02 học sinh đạt giải nhì HSG cấp Huyện môn Hoá Học, 06 học

sinh đạt giải nhất nhì thực hành môn Hoá Học lớp 8,9
+ Cấp Tỉnh: 01 học sinh đạt giải khuyến khích thực hành môn Hoá học lớp 8,
vêvs hội khoẻ phù Đổng có 04 huy chương (02 huy chương bạc, 02 huy chương
đồng)
3. Năm học 2008 – 2009.
* Chất lượng giáo dục:
- Hạnh kiểm: + Tốt : 244 học sinh đạt : 72,6%
+ Khá : 79 học sinh đạt : 23,5%
17
+ Trung bình: 13 học sinh chiếm: 3,9%
- Học lực: + Giỏi : 25 học sinh đạt: 7,4%
+ Khá : 85 học sinh đạt: 25,3%
+ Trung bình: 226 học sinh chiếm: 67,3%
* Công tác mũi nhọn: Trong học kỳ I vừa qua, đội tuyển học sinh giỏi nhà
trường đã tham gia thi học sinh giỏi thực hành môn Hoá học và Sinh Học đã đạt
được; 02 giải nhất Hoá Học lớp 8, 01 giải nhì môm Hoá học lớp 9 và 01 giải nhì
môn Sinh học. Ngoài ra nhà trường tiếp tục bồi dưỡng đội tuyển dự thi sắp tới,
và đang bồi dưỡng học sinh giỏi từ khối 8.
VII- KẾT LUẬN
Trên đây là tất cả những vấn đề cần thiết và cấp bách đối với nhà Trường
THCS Hướng Hiệp ,mà trong quá trình quản lý cũng như thâm nhập thực tế, tôi
nhận thấy cần phải có đối với các GVCN trong công tác giáo dục học sinh.
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh Trung học cơ sở thì chúng
ta đã thấy nhiều vấn đề, nhiều giải pháp đã bàn đến. Song, chúng ta cần kết hợp
chặt chẽ, nhuần nhuyễn, liên tục các giải pháp đẽ nêu ở trên thì hiệu quả giáo dục
cho học sinh ngày một đi lên. Đặc bịêt chú trọng ở đây là vai trò quản lý, chỉ đạo
của Hiệu trưởng và công tác của giáo viên chủ nhiệm, đóng vai trò then chốt, cốt
lõi nó bao trùm lên tất cả các giải pháp mà chúng ta đã nêu ra. Tuy nhiên do thời
gian hạn hẹp, khả năng tìm hiểu, nghiên cứu còn hạn chế nên bản thân tôi chỉ
mạnh dạn đưa ra những vấn đề mà mình tâm đắc, đã thực hiện thành công, có kết

quả khả quan ở Trường THCS Hướng Hiệp trong những năm học qua. Cũng từ
thực tế quản lý bản thân tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm cho mình.
Từ đó có những giải pháp tối ưu trong việc phối hợp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục cho học sinh.
18
VIII. ĐỀ NGHỊ
a/ Phòng GD-ĐT huyện tham mưu với cấp Uỷ Đảng, UBND xã phối kết hợp tốt
với nhà trường giải quyết triệt để những học sinh bỏ học hoặc đi học không
chuyên cần. Vì học sinh đi học không chuyên cần thì tiếp thu không kịp kiến
thức dẫn đến chất lượng không cao. Những thôn bản nào có nhiều học sinh bỏ
học thì có hình thức khiển trách và không xét thi đua Chi bộ đó
b/ Các đồng chí Đảng viên trong chi bộ được giao nhiệm vụ phụ trách thôn của
mình; thường xuyên nắm số lượng HS nghỉ học dài ngày để kịp thời vận động
c/ Các cấp tham mưu với các tổ chức (như Plan, phần lan ) cấp dụng cụ học tập,
bàn học tập để một số em học sinh nghèo có điều kiện học tập cũng như góc học
tập; nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
d/ Giáo viên chủ nhiệm ở các khối lớp cần quan tâm học sinh hơn nữa, chuyên
cần đến nhà học sinh nhiều hơn nữa để nắm bắt được hoàn cảnh, cũng như vận
động HS đi học chuyên cần để nâng cao chất lượng giáo dục.
Mong rằng qua đề tài này, bản thân tôi được sự góp ý giúp đỡ của đồng
nghiệp và các cấp lãnh đạo để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ mà Đảng, nhà
nước, nhân dân và ngành giáo dục đào tạo giao phó và để để tài có ý nghĩa thực
tiển hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí giáo viên và lãnh đạo
nhà trường, cũng như lãnh đạo ngành đã tạo điều kiện giúp đỡ, cho phép tôi
được trình bày và hoàn thành vấn đề nghiên cứu của mình.
Hướng Hiệp, tháng 03 năm 2010
Người thực hiện
Trương Khắc Thanh
19

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tõm lý học lứa tuổi.
Của Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thông . Nhà xuất bản đại học
Quốc gia Hà Nội năm 1997.
2. Giáo dục hệ thống gía trị đạo đức và nhân văn cho học sinh THCS
Của Hà Nhật Thăng. Nhà xuất bản giáo dục năm 1998
3. Đổi mới phương pháp dạy học:
Của tác giả Trần Kiều – Nhà xuất bản giáo dục năm 1998.
4. Các tập san về giáo dục thời đại
5. Các chuyên đề Thế giới trong ta
6. Các tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lý Trung học cơ sở
7. Nghị Quyết của Ban chấp hành đảng Cộng Sản Việt Nam
8. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III cho giáo viên THCS

20
MỤC LỤC
Số thứ tự Nội dung Trang
1 Tên đề tài 1
2 Lý do chọn đề tài 1
3 Cơ sở lý luận 3
1. Vai trò và đặc điểm của giáo dục gia đình 4
a/Vai trò của gia đình 4
b/Đặc điểm của gia đình 5
2. Vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Hội cha mẹ
học sinh
6
4 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 8
5 Phần nội dung 9
A- Thực trạng 9

a/Thực trạng của xã Hướng Hiệp 9
b/Thực trạng của nhà trường 9
c/Thực trạng của GVCN trong việc phối hợp với gia đình 10
d/Thực trạng của GVCN trong việc phối hợp với HCMHS 11
B - Biện pháp phối hợp 12
I/Biện pháp phối hợp giáo dục của GVCN với gia đình
học sinh
12
II/Biên pháp phối hợp giáo dục của GVCN đối với hội
cha mẹ học sinh
15
6 Kết quả đạt được 17
7 Kết luận 18
8 Đề nghị 19
9 Tài liệu tham khảo 20
10 Mục lục 21
11 Phiếu đánh giá xếp loại 22
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI ĐỀ TÀI
Năm học: 2009 - 2010
I. Đánh giá xếp loại của HĐKH Trường THCS Hướng Hiệp
1. Tên đề tài: Hiệu trưởng chỉ đạo sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhịêm với gia
đình và hội cha mẹ học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
21
Mẫu1
2. Họ và tên tác giả: Trương Khắc Thanh
3. Chức vụ: Hiệu trưởng Tổ: Hành chính
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a) Ưu điểm:



b) Hạn chế:


5. Đánh giá, xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường :THCS Hướng Hiệp đã đi đến
thống nhất xếp loại :
Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)




II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Phòng GD&Đ Đakrông
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD&ĐT Đakrông thống nhất
xếp loại:
Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)




22

×