BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_______________
Hồ Văn Thơm
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ SỰ PHỐI HỢP
GIỮA NHÀ TRƯỜNG-GIA ĐÌNH TRONG
CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LONG AN
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN THỊ HƯƠNG
TP. Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp tôi
đã được sự giúp đỡ tận tình của:
- Lãnh đạo và quí Thầy cô giáo Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ
Chí Minh.
- Quí thầy cô giáo hướng dẫn các chuyên đề trong quá trình học tập.
- Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự nhiệt tình, tận tâm hướng
dẫn, giúp đỡ của Cô giáo hướng dẫn – TS Trần Thị Hương, Khoa tâm
lý - giáo dục, Trường Đại Học Sư Phạm
Thành Phố Hồ Chí Minh trong
quá trình hướng dẫn tôi viết luận văn.
Ngoài ra chúng tôi cũng nhận được sự hỗ trợ, động viên, khích lệ và tạo
điều kiện thuận lợi về nhiều mặt của:
- Lãnh đạo và giáo viên các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An
- Đồng nghiệp, gia đình và bạn hữu.
Dù đã rất cố gắng, song chắc chắn luận văn này còn nhiều t
hiếu sót mong
sự giúp đỡ góp ý của quí Thầy, Cô và các bạn đồng nghiệp
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Đước, tháng 05 năm 2009
HỒ VĂN THƠM
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NT : Nhà trường
GĐ : Gia đình
THPT : Trung học phổ thông
GVCN : Giáo viên chủ nhiệm
QLGD : Quản lý giáo dục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta đã khẳng định “Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân”. Điều 3 chương I, Luật giáo
dục 2005 ghi rõ: “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành,
giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường
kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Điều 93 đến điều 98 chương VI cuõng đã qui
định t
rách nhiệm của nhà trường, gia đình, xã hội đối với công tác giáo dục và đã thể hiện ý
nghĩa quan trọng của sự phối hợp nhà trường-gia đình - xã hội [17]. Sự phối hợp nhà trường -
gia đình - xã hội nếu được thực hiện một cách đồng bộ thì hiệu quả giáo dục sẽ nâng lên, ngược
lại sự phối hợp này không ăn khớp thì sẽ gây cản trở hoặc khó khăn trong quá trì
nh hình thành
nhân cách học sinh.
Một trong những đặc điểm của quá trình giáo dục là quá trình giáo dục diễn ra với những
tác động giáo dục phức hợp. Trong quá trình giáo dục người được giáo dục chịu nhiều tác động
từ các phía khác nhau: gia đình, nhà trường, xã hội. Ngay trong gia đình, nhà trường hoặc xã
hội, người được giáo dục cũng chịu ảnh hưởng của nhiều tác động khác nhau. Ví như trong gia
đình có những tác động của cha mẹ, của anh chị em
, của nếp sống gia đình…. Trong nhà
trường có những tác động của giáo viên, của tập thể lớp, của nội qui, của nội dung, phương
pháp tổ chức giáo dục… Trong xã hội có những tác động của các cơ quan thông tin đại chúng,
của phim ảnh, sách báo, của người lớn… Những tác động đó có thể đan kết vào nhau rất mật
thiết tạo ra những ảnh hưởng tích cực t
hống nhất đối với người được giáo dục, hoặc có thể
ngược chiều nhau tạo ra những “lực nhiễu” gây khó khăn cho quá trình giáo dục. Vì vậy, vấn đề
đặt ra là cần tổ chức phối hợp tất cả các tác động giáo dục theo hướng tích cực, đồng thời cần
ngăn chặn, hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực.
Thực tiễn giáo dục cho thấy nhận thức về sự phối hợp nhà trường - gia đình chưa đúng.
Một số bậc phụ huynh còn xem nhà trường là môi trường giáo dục duy nhất cho trẻ, vì vậy trẻ
hư thì đỗ lỗi hoàn toàn cho nhà trường là “thầy cô dạy như thế…!”, hoặc đỗ lỗi cho xã hội “xã
hội quá nhiều tiêu cực, cạm bẫy làm cho con tôi hư….”. Một bộ phận giáo viên ở các trường
học thì chỉ tập trung cho chất lượng học tập, xem nhẹ giáo dục đạo đức, dẫn đến chỉ biết đỗ lỗi
cho gia đì
nh và xã hội, chưa thấy mối quan hệ giữa nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục, chưa kết
hợp “dạy chữ” với “dạy người”. Các lực lượng xã hội lại luôn kêu ca là nhà trường, gia đình
chưa có giải pháp cho giáo dục, đưa r
a xã hội nhiều “phế phẩm”, “sản phẩm của giáo dục chưa
đáp ứng nhu cầu xã hội….”. Việc đoã lỗi cho nhau giữa ba lực lượng trên xuất phát từ sự phối
hợp lỏng lẻo giữa nhà trường - gia đình - xaõ hoäi, là hiện tượng “ trống đánh xuôi kèn thổi
ngược”. Đây chính là thực trạng của nhiều địa phương trên đất nước ta và chính là nỗi bức xúc
của nhiều nhà sư phạm, nhà nghiên cứu giáo dục. Nếu sự phối hợp nhà trường - gia đình - xã
hội được tốt hơn thì những khó khăn trong giáo dục chắc rằng sẽ được hạn chế, những tồn tại
được đẩy lùi. Trong t
hực tế, sự phối hợp nhà trường - gia đình ở đây thực ra chỉ có tính bề nổi,
còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là giải pháp phối hợp như thế nào để đạt hiệu quả, thường xuyên
và đồng bộ.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực
trạng quản lý sự phối hợp nhà trường-gia đì
nh trong công tác giáo dục học sinh ở các trường
trung học phổ thông huyện Cần Đước, tỉnh Long An”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm đánh giá đúng thực trạng quản lý sự phối hợp nhà trường - gia đình trong
công tác giáo dục học sinh ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An, từ đó đề xuất
các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình, góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác quản lý sự phối hợp nhà trường - gia đì
nh nói riêng và công tác giáo dục
nói chung.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động giáo dục học sinh ở trường THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng quản lý sự phối hợp nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục học sinh ở
các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
4. Giả thuyết k
hoa học
Sự phối hợp nhà trường - gia đình và công tác quản lý sự phối hợp nhà trường - gia đình
trong công tác giáo dục học sinh ở các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An đã được
thực hiện nhưng còn hình thức, lỏng lẻo nên hiệu quả không cao. Việc đánh giá được thực trạng
này ở địa phương để làm
cơ sở xây dựng những biện pháp quản lý phù hợp, đồng bộ góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh ở các trường THPT trong giai đoạn mới.
5 . Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động phối hợp nhà trường - gia đình trong
công tác giáo dục học sinh ở trường trung học phổ thông.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý sự phối hợp nhà trường - gia đình
trong công tác giáo dục học sinh ở trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý sự phối hợp nhà trường - gia đình trong công tác giáo
dục học sinh ở trường trung học phổ thông.
6 . Phạm vi nghiên
cứu
Nghiên cứu thực trạng quản lý sự phối hợp nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục
học sinh ở các trường trung học phổ thông thuộc huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
- Tiếp cận hệ thống - cấu trúc: là cách thức nghiên cứu đối tượng như một hệ thống toàn
vẹn, phát triển động, tự hình thành và phát triển thông qua việc giải quyết mâu thuẫn nội tại do
sự tương tác hợp quy luật của các thành tố tạo ra. Qua đó phát hiện các yếu tố sinh thành, yếu tố
bản chất v
à lôgic phát triển của đối tượng trở thành hệ toàn vẹn, tích hợp mang chất lượng mới.
- Tiếp cận quan điểm lịch sử: khi xem xét sự vật hay một hiện tượng, chúng ta thường
xem
xét quá trình lịch sử của nó. Từ đó thấy được mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai của đối tượng nghiên cứu.
- Tiếp cận quan điểm thực tiễn: việc đề ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả công tác quản lý sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình, dựa trên khảo sát thực trạng quản
lý sự phối hợp đó ở các trường THPT. Qua khảo sát, phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu,
những nguyên nhân hạn chế, từ đó đề ra các biện pháp m
ang tính khả thi hơn.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa những vấn đề lý luận trong các công trình khoa học,
trong văn kiện của Đảng, luật pháp của Chính Phủ, các chỉ đạo của ngành giáo dục, sách và tạp
chí chuyên ngành giáo dục… nhằm xác lập cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2.2. Nhóm cá
c phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phương pháp điều tra giáo dục
- Phương pháp điều tra bằng phiếu: Tác giả sử dụng bộ điều tra bằng bảng câu hỏi cho hai
nhóm đối tượng:
+ Nhóm 1 bao gồm cán bộ quản lý và giáo viên (mẫu 1: Phiếu điều tra dành cho cán bộ
quản lý, giáo viên có 180 phiếu)
+ Nhóm 2 gồm cha mẹ học sinh (mẫu 2: Phiếu điều tra dành cho cha mẹ học sinh có 120
phiếu)
Các số liệu điều tra sẽ là những thông tin quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học
có tính thực tiễn.
7.2.2.
2. Phương pháp phỏng vấn
Tác giả phỏng vấn trực tiếp các nhóm đối tượng bao gồm:
Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng,
giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh nhằm
thu thập thông tin về quản lý hoạt động phối hợp
nhà trường - gia đình ở các trường THPT.
7.2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp này nhằm thu thập thông tin về quản lý hoạt động phối hợp nhà trường - gia
đình ở các trường THPT.
7.2.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Mục đích phương pháp là xin ý kiến của một số nhà quản lý giáo dục có kinh nghiệm
, nhà
lãnh đạo giáo dục và các chuyên viên, nhằm hiểu rõ thực trạng và một số đề xuất hợp lý.
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học (xử lý thông tin)
Phương pháp này nhằm xử lý kết quả nghiên cứu thực trạngvà nguyên nhân của thực trạng,
làm cơ sở đề xuất các biện pháp. Để xử lý số liệu điều tra tác giả dùng phương pháp thống kê
toán học, xử lý số liệu trên phần mềm (SPSS) để tính về số liệu phần trăm, điểm trung bình, từ
đó phân tí
ch, đánh giá nhằm đưa ra những kết luận phù hợp.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HỌAT ĐỘNG PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG
- GIA ĐÌNH TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề phoái hợp nhà trường - gia đình trong công tác giáo
dục học sinh
Hoạt động phối hợp giữa nhà trường - gia đình là vấn đề bức xúc trong công tác giáo dục
mà nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt Đảng và Nhà Nước ta rất quan tâm đến việc
phối hợp giáo dục giữa nhà trường gia đình và xã hội, coi đó là nguyên tắc cơ bản đề đảm bảo
kết quả giáo dục trong các loại hình trường. Các nhà giáo dục đã quan tâm
nghiên cứu và từng
bước giải quyết vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này
như sau:
- “Kết hợp việc giáo dục của nhà trường, gia đình và của xã hội”, chương 20 giáo trình
giáo dục học tập II, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Hà Nội 1988 của tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ
Hoạt.
-
“Nâng cao tính thống nhất giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội trong điều kiện
mới”, tập thể tác giả ở Trung Tâm Giáo Dục Học, thuộc Viện Khoa Học Giáo Dục, 1993.
- “Những quan điểm phương pháp luận của việc liên kết giáo dục giữa nhà trường, gia
đình và xã hội trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay”, tác giả Nguyễn Thị Kỷ,
Viện Khoa Học Giáo Dục, 1996.
- “Phối hợp việc giáo dục gia đình với nhà trường và các thể chế xã hội khác”, tác giả
Phạm Khắc Chương (chủ biên), Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998.
Những nghiê
n cứu trên đã đưa ra các cơ sở lý luận cơ bản và bước đầu đề xuất các mô
hình tổ chức thực hiện sự phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường, gia đình, xã hội,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Các tác giả đã dùng các khái niệm khác nhau:
“thống nhất”, “hợp tác”, “kết hợp”, “phối hợp”, “liên kết”, các khái niệm về giáo dục (theo
nghĩa rộng, theo nghĩa hẹp), mối tương quan giữa nhà trường với gia đình trong công tác giáo
dục học sinh. Các tác giả đã chỉ ra những lý luận về tính cần thiết phải kết hợp việc giáo dục
của nhà trường với gia đình và của xã hội, đã chỉ ra vai trò quan trọng của gia đì
nh trong việc
giáo dục con em, việc giáo dục học sinh và cần phải nâng cao tính thống nhất trong sự phối hợp
giữa nhà trường gia đình và xã hội
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động phối hợp nhà trường - gia đình
trong công tác giáo dục học sinh
Những năm gần đây đã có một số tác giả nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động phối hợp
nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục học sinh như:
- “Tổ chức liên kết giữa nhà trường với gia đình trong công tác giáo dục học sinh của một
số trường trung học cơ sở ở thành phố Huế”, Lê Thị Hoa, luận văn thạc sĩ quản l
ý giáo dục Đại
học sư phạm Huế, 1999.
- “Biện pháp tăng cường quản lý hoạt động phối hợp giữa nhà trường với gia đình của hiệu
trưởng các trường trung học phổ thông huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp”, Nguyễn Minh Tâm,
luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục, Đại học sư phạm Huế, 2007.
Các công trình nghiê
n cứu trên đã đưa ra những cơ sở lý luận cơ bản, những đề xuất về mô
hình tổ chức thực hiện sự phối hợp các lực lượng giáo dục giữa nhà trường - gia đình góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Những nghiên cứu trên đồng thời cũng làm rõ các chức
năng quản lý sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình và đưa ra các biện pháp tăng cường quản
lý sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục học sinh. Tuy nhiên vấn đề
thực trạng quản lý hoạt động phối hợp giữa nhà trường với gia đình t
rong công tác giáo dục học
sinh trường trung học phổ thông chưa được đề cập cụ thể, có hệ thống. Đặc biệt ở địa phương
tỉnh Long An chưa có công trình nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, trong điều kiện công tác
của mình, tác giả thấy cần có sự nghiên cứu về “Thực trạng quản lý hoạt động phối hợp giữa
nhà trường với gia đình ở trường trung học phổ t
hông huyện Cần Đước, tỉnh Long An”, từ đó
đề xuất một số biện pháp tăng cường hoạt động quản lý sự phối hợp này của hiệu trưởng.
1.2. Lý luận về sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục học
sinh ở trường trung học phổ thông
1.2.1. Nhà trường trung học phổ thông trong công tác giáo dục học sinh
1.2.1.1. Vai trò, đặc điểm của giáo dục nhà trường
Nhà trường l
à cơ sở thực tế diễn ra hoạt động giáo dục giữa giáo viên và hoạt động học tập
của học sinh dưới sự quản lý của hiệu trưởng cùng với sự cộng tác của gia đình và xã hội. Nhà
trường trung học phổ thông là một cơ sở nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà trường
luôn được gắn liền không thể tách rời hệ thống giáo dục và chịu sự quản lý của ngành giáo dục.
Nhà trường, bản thân nó cũng là hệ thống, trong hệ thống này có ba thành phần chính: con
người, những tổ chức chính trị, những phương tiện vật chất kỹ thuật.
Đặc trưng của giáo dục nhà trường bao gồm: nhà trường là một thiết chế xã hội, có kỷ luật
chặt chẽ, có mục đích giáo dục đúng đắn, là nơi truyền thụ tri thức và giáo dục học sinh một
cách toàn diện theo các nội dung giáo dục: đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mỹ, lao động hướng
nghiệp. Nhà trường có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn cao, có nghiệp vụ sư phạm,
hiểu biết và nắm được các đặc điểm t
âm sinh lý của từng lứa tuổi; là những người biết tổ chức
các hoạt động giáo dục cho học sinh; là nơi tổ chức hoạt động học tập, rèn luyện và giáo dục
học sinh một cách có tổ chức, có kế hoạch, căn cứ vào các mục tiêu giáo dục cụ thể được nhà
nước qui định. Nhà trường phải thực hiện tốt nguyên lý giáo dục. “Học đi đôi với hành, giáo
dục phải kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”. Nhà trường là nơi đề ra nội
dung, biện pháp phối hợp giáo dục, đóng vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với gia đình và
các lực lượng khác trong xã hội để cùng giáo dục học sinh. Môi trường giáo dục của nhà
trường trong chừng mực nhất định tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh hình thành và phát t
riển
tinh thần tập thể, tinh thần kỷ luật, trách nhiệm đối với bản thân và với mọi người.
Qua đó, ta thấy những mặt mạnh của giáo dục nhà trường đó là: tính mục đích mang tính
xã hội cao được quán triệt trong suốt quá trình giáo dục, hệ thống tri thức, kỹ năng, nhất là
phương pháp tư duy mang tính hệ thống cơ bản và có thể mở rộng, hệ thống phương pháp,
phương tiện khoa học tạo cơ sở cho sự trưởng thành của học sinh, sự lập nghiệp và thành đạt cả
đời người.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh đó nhà trường cũng có những hạn chế là: một số nhà
trường chỉ chú ý nhiều đến việc cung cấp kiến thức, chưa thường xuyên giáo dục đạo đức, nhất
là trong quan hệ đối xử với gia đình, bạn bè, với người lớn tuổi. Giáo dục nhà trường thường
chú ý, quan tâm
tình hình chung của học sinh nên chưa quan tâm và chưa đủ điều kiện quan
tâm đúng mức đến giáo dục cá biệt. Giáo dục nhà trường nặng về lý thuyết, truyền đạt một
chiều, chưa phát huy được tính chủ động của học sinh, quan hệ thầy trò chủ yếu trong giờ học,
việc giúp đỡ, trao đổi, chuyện trò với học sinh ngoài giờ còn hạn chế.
1.2.1.2. Vị trí, mục tiêu của trường trung học phổ thông
Trường trung học phổ thông l
à một loại hình trường học nằm trong tổng thể các loại hình
trường lớp trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta. Trung học phổ thông là cấp học cuối
cùng của giáo dục phổ thông. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông học sinh có thể thi vào
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề hoặc bước vào cuộc sống lao
động.
Mục tiêu của trường Trung học phổ thông: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ
thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.” [17] . Giáo dục trung học phổ t
hông phải củng
cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, bởi vì những nội dung, kiến thức ở bậc
trung học cơ sở chưa được đầy đủ và vững chắc, để giúp học sinh có thể tự giải quyết các vấn
đề ở mức độ phổ thông. Mặt k
hác lứa tuổi trung học cơ sở chưa được phát triển đầy đủ về mặt
thể chất và tâm lý. Vì vậy ở cấp học trung học phổ thông nhà trường phải hoàn thành nội dung
giáo dục phổ thông giúp cho các em có năng lực, kiến thức cơ bản để bước vào đời hay tiếp tục
học lên các bậc học cao hơn. Ngoài nội dung chủ yếu nhằm đảm bảo chuẩn kiến thức phổ thông
cơ bản toàn diện và hướng nghiệp còn có nội dung nâng cao ở một số m
ôn học để phát triển
năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh
1.2.1.3. Lực lượng tham gia giáo dục học sinh trong trường trung học phổ thông
Lực lượng tham gia giáo dục học sinh trong trường trung học phổ thông bao gồm:
- Cán bộ quản lý (Ban giám hiệu)
+ Hiệu trưởng là người đứng đầu nhà trường chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động
của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm
, công nhận, hiệu trưởng có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: tổ chức bộ máy nhà trường; xây dựng kế hoạch và tổ
chức nhiệm vụ năm học; quản lý giáo viên, nhân viên học sinh; quản lý chuyên môn; phân công
công tác, kiểm tra đánh giá, việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, nhân viên; quản lý tổ chức
giáo dục học sinh; quản lý hành chính, tài chính, tài sản của n
hà trường; thực hiện các chế độ
chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân
chủ trong hoạt động của nhà trường; được học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các
chế độ hiện hành.
+ Phó hiệu trưởng thực hiện và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về nhiệm vụ được
hiệu trưởng phân công; cùng với hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước cấp trên về phần việc được
giao; thay mặt hiệu trưởng điều hành hoạt động của nhà trường khi đư
ợc ủy quyền; được học
các lớp chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế độ hiện hành.
- Giáo viên bộ môn
Giáo viên bộ môn có nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục theo đúng chương trình giáo dục,
kế hoạch dạy học; soạn bài, chuẩn bị thí
nghiệm; kiểm tra đánh giá theo qui định; vào sổ điểm,
ghi học bạ đầy đủ; lên lớp đúng giờ; không tùy tiện bỏ giờ, bỏ buổi dạy; quản lý học sinh trong
các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; tham
gia công tác giáo dục trung học cơ sở ở địa phương; rèn luyện đạo đức học tập văn hóa, bồi
dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy và giáo dục;
thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường; thực hiện quyết
định của hiệu trưởng; chịu sự kiểm t
ra của hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục; giữ gìn
phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh; thương yêu, tôn trọng học
sinh; đối xử công bằng với học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn
kết, giúp đỡ các bạn đồng nghiệp; phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên khác, gia
đình học sinh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy
định của pháp luật.
- Giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm có các nhiệm vụ như giáo viên bộ m
ôn, ngoài ra còn có nhiệm vụ sau
đây: tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát
đối tượng,
nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp; cộng tác chặt chẽ với phụ huynh học sinh; chủ
động phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, các tổ
chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh; nhận xét, đánh giá và
xếp loại học sinh cuối học kỳ và cuối năm học; đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh;
đề
xuất danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải thi lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm
trong hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ học sinh; báo cáo thường kỳ
hoặc đột xuất (nếu có tình hình đặc biệt) về tình hình của lớp với hiệu trưởng. Bên cạnh các
nhiệm vụ trên giáo viên chủ nhiệm
còn có những quyền hạn như: được dự các giờ học, các hoạt
động giáo dục khác của học sinh lớp mình; được dự các cuộc họp của Hội đồng khen thưởng và
Hội đồng kỷ luật khi các hội đồng này giải quyết những vấn đề có liên quan đến học sinh của
lớp mình; được dự các lớp bồi dưỡng, các hội nghị chuyên đề về công tác chủ nhiệm; được
quyền cho phép cá nhân học sinh nghỉ học không quá 3 ngày, nếu có lý do chính đáng;
- Tổ chức Đảng và các đoàn thể trong trường trung học:
+ Tổ chức Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong trường trung học lãnh đạo nhà trường và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
+ Các đoàn thể (tổ chức Công Đoàn, Đoàn Thanh Niên, Hội Chữ Thập Đỏ) trong trường
trung học hoạt động theo qui định của pháp luật nhằm giúp nhà trường thực hiện mục tiêu,
nguyên lý giáo dục.
- Các lực lượng giáo dục khác: giám thị, cán bộ công nhân viên… là những người h trợ
đắc lực cho hoạt động giáo dục của nhà trường.
1.2.1.4. Một số đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
Học sinh trung học phổ thông bao gồm các em ở độ tuổi 15 đến 18 là độ tuổi đầu của tuổi
thanh niên, có những đặc điểm:
- Về thể chất các em đã có sự trưởng thành về mặt cơ thể. Tuy sự khác biệt cơ thể giữa
thanh niên mới lớn và người lớn không đáng kể, nhưng sự phát triển t
hể lực của các em còn
kém so với người lớn. Tuổi thanh niên bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý,
được thể hiện ở các đặc điểm: sự phát triển của hệ xương được hoàn thiện, những cơ bắp tiếp
tục phát triển, nhịp độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng đã chậm lại, sự phát triển của hệ
thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức
năng của não phát triển. Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu
trúc tế bào não của n
gười lớn, điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân
tích, tổng hợp…, của võ bán cầu đại não trong quá
trình học tập và lao động. Đa số các em đã
qua thời kỳ phát dục, hoạt động của các tuyến nội tiết trở nên bình thường, sự không cân đối
giữa trạng thái của các mạch máu với hoạt động của tim cũng mất dần. Ở tuổi thanh niên vẫn
còn tính dễ bị kích t
hích và sự thể hiện của nó nói chung giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy
nhiên, ở tuổi thanh niên, tính dễ bị kích thích không phải chỉ do nguyên nhân sinh lý (như ở
tuổi thiếu niên), mà còn do cách sống của cá nhân ở độ tuổi này.
Nhìn chung thì đây là lứa tuổi các em có sự phát triển cân đối, khỏe, đẹp, đa số các em có
thể đạt những khả năng thành tích về cơ thể như người lớn.
- Đặc điểm
nhân cách chủ yếu
+ Sự phát triển của tự ý thức
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của thanh
niên mới lớn, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi thanh niên. Quá trình
này rất phong phú và phức tạp, nhưng vẫn có thể nêu lên một số đặc điểm cơ bản: nhu cầu tự ý
thức của các em đư
ợc phát triển mạnh mẽ, các em chú ý đến hình dáng bên ngoài của mình,
hình ảnh về thân thể mình là thành tố quan trọng của sự tự ý thức ở thanh niên mới lớn. Sự hình
thành tự ý thức là một quá trình lâu dài và trải qua những mức độ khác nhau, quá trình phát
triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính đặc thù riêng. Thanh niên có nhu cầu tìm
hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan điểm về mục đích và hoài bão của
m
ình. Sự tự ý thức của họ xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động, nội dung của tự ý
thức khá phức tạp, các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình như thiếu niên, mà
còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội trong tương lai. Thanh niên không chỉ đánh giá
những cử chỉ, hành vi riêng lẻ, từng thuộc tính riêng biệt, mà biết đánh giá nhân cách mình nói
chung trong toàn bộ những thuộc tính nhân cách. Trên cơ sở tự ý thức phát triển mạnh mẽ, nhu
cầu tự giáo dục ở thanh niên học sinh cũng được phát triển. Tự giáo dục của các em không chỉ
hướng vào việc khắc phục một số thiếu sót trong hành vi hay phát huy những nét tốt
nào đó, mà
còn hướng vào việc hình thành nhân cách nói chung phù hợp với quan điểm khái quát đang
được hình thành ở các em. Các em cũng có thể chưa thật có lòng tin vào tự giáo dục hoặc chưa
thành công trong tự giáo dục. Nhưng vấn đề là tự giáo dục của học sinh trung học phổ thông
thật sự cần thiết cho sự phát triển ở chính các em; nó khiến cho vị trí của các em t
hay đổi. Học
sinh từ chỗ là đối tượng của giáo dục thì dần dần đến giai đoạn này các em đã trở thành vừa là
đối tượng, vừa là chủ thể của giáo dục.
+ Sự hình thành thế giới quan
Tuổi đầu thanh niên là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan. Ở tuổi này,
những điều kiện về mặt trí tuệ, nhân cách và xã hội để xây dựng một hệ thống quan điểm r
iêng
đã được hình thành và đang chín mùi. Những cơ sở của thế giới quan được hình thành rất sớm
ngay từ khi còn nhỏ. Suốt thời gian học tập ở phổ thông học sinh được lĩnh hội những tri thức
khoa học, những chuẫn mực, thói quen đạo đức, cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác…, dần dần
những điều đó được ý thức và được quy vào hình thức, các tiêu chuẩn nguyên tá
c hành vi đó
vào một hệ thống hoàn chỉnh. Sự hình thành thế giới quan được thể hiện ở tính tích cực nhận
thức. Các em cố gắng xây dựng những quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với các
vấn đề xã hội, tư tưởng chính trị, đạo đức. Chính nội dung các môn học ở trung học phổ thông
giúp các em xây dựng thế giới quan tích cực về tự nhiên xã hội. Nhìn chung học sinh trung học
phổ t
hông có khuynh hướng sống một cuộc sống tích cực vì xã hội, muốn mang lại lợi ích cho
người khác, quan tâm đến đời sống tinh thần nhiều hơn là phúc lợi vật chất. Tuy vậy một bộ
phận thanh niên ngày nay chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan, thế giới quan của họ còn
chịu ảnh hưởng của những tiêu cực, sống không lành mạnh, đánh giá quá cao về cuộc sống
hưởng thụ, h
oặc một bộ phận khác lại chưa chú ý đến xây dựng thế giới quan, sống thụ động ít
trách nhiệm.
+ Giao tiếp và đời sống tình cảm
Tuổi học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất. Điều quan trọng
đối với các em là được sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi là cảm thấy mình cần của nhóm, có
uy tính, có vị trí nhất định trong nhóm. Trong các lớp học dần dần xãy ra một sự “ phân cực”
nhất định, xuất hiện những người được lòng nhất (được nhiều người chọn lựa nhất) và những
người ít được lòng nhất. Những em có vị trí thấp (ít được lòng các bạn) thường băn khoăn và
suy nghĩ nhiều về nhân cách của mình. Ở tuổi này, quan hệ với bạn cùng tuổi chiếm vị trí lớn
hơn hẳn so với qua
n hệ với người lớn tuổi hơn hoặc ít tuổi hơn. Điều này do lòng khao khát
muốn có vị trí bình đẳng trong cuộc sống chi phối. Cùng với sự trưởng thành nhiều mặt quan hệ
dựa dẫm, phụ thuộc vào cha mẹ dần dần cũng được thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập.
Trong hoàn cảnh giao tiếp tự do, rỗi rãi, trong tiêu khiển, trong việc phát triển nhu cầu, sở
thích thanh niên hướng vào bạn bè nhiều hơn là hướng vào cha mẹ. Nhưng khi bàn đến những
giá trị sâu sắc hơn như chọn nghề, thế giới quan, những giá trị đạo đức thì ảnh hưởng của cha
mẹ lại mạnh hơn rõ rệt.
Sự mở rộng phạm vi giao tiếp và sự phức tạp hóa hoạt động riêng của thanh niên học sinh
khiến cho số lượng nhóm qui chiếu của các em tăng lên rõ rệt. việc tham gia vào nhiều nhóm
sẽ
dẫn đến sự khác nhau nhất định và có thể có xung đột về vai trò nếu cá nhân phải lựa chọn giữa
các vai trò khác nhau ở các nhóm.
Đời sống tình cảm của học sinh phổ thông rất phong phú, nhu cầu về tình bạn tâm tình cá
nhân được tăng lên rõ rệt. Tình bạn ở các em trở nên sâu sắc hơn, các em có nhu cầu cao đối
với tình bạn (yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng nhau) tình cảm có nội dung hơn, bao
gồm n
hững phạm vi hứng thú và hoạt động rộng rãi. Trong quan hệ với bạn các em cũng nhạy
cảm hơn, không chỉ có khả năng xúc cảm thân tình, mà còn phải có khả năng đáp ứng lại xúc
cảm của người khác (đồng cảm). Tình bạn của các em mang màu sắc xúc cảm nhiều hơn, rất
bền vững. Các em thường lý tưởng hóa tình bạn, họ nghĩ về bạn thường giống với điều m
ình
mong muốn ở bạn hơn là thực tế. Sự quyến luyến mạnh mẽ về mặt cảm xúc khiến các em ít
nhận thấy những đặc điểm thực tế ở bạn. Một số các em ở lứa tuổi này có sự xuất hiện tình yêu,
tình yêu này thường trong trắng, tươi sáng hồn nhiên, giàu cảm xúc và khá chân thành. Tuy vậy
tình yêu mới nảy sinh này cũng có thể phát triển không bình thường có thể các em bị phân tán
quá mức, sao nhãng việc học tập.
- Về xã hội
Hoạt động của học sinh ngày c
àng phong phú và phức tạp, nên vai trò xã hội và hứng thú
xã hội của các em không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi mà còn biến đổi về chất lượng. Ở
các em ngày càng xuất hiện nhiều các vai trò của người lớn và họ thực hiện các vai trò đó ngày
càng có tính độc lập và tinh thần trách nhiệm hơn.
Ở gia đình, thanh niên đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm của người lớn, cha mẹ bắt đầu
trao đổi với các em về một số vấn đề trong gia đình. Về phía mình, các em cũng biết quan tâm
một cách thực sự đến nhiều mặt sinh hoạt trong gia đình. Ở tuổi học sinh trung học phổ thông
các em có thể tham gia vào các tổ chức đoàn thể, nhiều em đã bắt đầu lao động, các em đều có
sự suy nghĩ về việc chọn nghề khi đứng t
rước quyết định đường đời của mình.
1.2.2. Gia đình trong công tác giáo dục học sinh
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn Ngữ - 2005 thì “gia đình là một tập hợp người
cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”. [29]
1.2.2.1. Vai trò và đặc điểm của giáo dục gia đình
Gia đình là một thiết c
hế xã hội hết sức quan trọng, một đơn vị kinh tế, một đơn vị cơ sở,
đồng thời là một nhóm tâm lý đặc thù. Đó là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
và sự hoàn thiện của cá nhân, thông qua việc thực hiện các chức năng quan trọng. Một trong
những chức năng hết sức quan trọng của gia đình là giáo dục con cái. Đây là sự đóng góp của
gia đình vào sự phát triển của g
iáo dục nói riêng, sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung.
Giáo dục gia đình có những đặc trưng như: giáo dục gia đình là giáo dục của cha mẹ với
con em mình, nhằm hình thành cho họ những năng lực, phẩm chất nhân cách. Quá trình giáo
dục gia đình có thể thường xuyên liên tục, có được tổ chức một cách có khoa học hay không,
điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự quan tâm
, trình độ hiểu biết, khả năng, kinh nghiệm hoàn
cảnh,… của gia đình. Giáo dục gia đình là cơ sở giáo dục đầu tiên, lâu dài và toàn diện, phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của mỗi học sinh. Giáo dục gia đình mang tính cá biệt rõ
rệt, dựa trên cơ sở của cuộc sống tự nhiên, cởi mở trong gia đình. Mỗi cá nhân sống trong gia
đình thường là thời gian lâu dài, nên rất thuận lợi và có hiệu quả trong việc giáo dục từ gia đình.
Gia đình giáo dục con em mìn
h từ mọi khía cạnh của cuộc sống và trong các mối quan hệ vô
cùng phong phú. Cơ sở vật chất, trình độ văn hóa, sự hiểu biết của cha mẹ, nề nếp, truyền thống
của gia đình, quan hệ ông bà, cha mẹ và con cái…có tác động lớn đến quá trình học tập của con
cái. Ở gia đình trẻ được tiếp thu sự giáo dục của gia đình từ lúc còn thơ ấu, thời gian sống ở gia
đình của trẻ là nhiều nhất cho đến tuổi trưởng thành, trẻ được tiếp thu những hành vi, ứng xử
của các thành viên trong gia đì
nh, trẻ có được những tình cảm mang tính huyết thống, tính sâu
sắc đó là phương tiện thuận lợi để gia đình giáo dục trẻ. Tuy nhiên chính tình cảm này cũng làm
cho giáo dục gia đình đôi khi thiếu nghiêm khắc, có khi làm cho trẻ không ngoan…
Động cơ thúc đẩy cha mẹ và các thành phần khác trong gia đình thực hiện nhiệm vụ giáo
dục con cái không phải chỉ do trách nhiệm trước pháp luật mà còn xuất phát từ lòng yêu thương
con em mình, luôn tạo điều kiện tốt nhất trong chừng mực có thể để con em mình được học tập
và rèn luyện để trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Vì vậy, mặt mạnh của giáo dục gia đình
là mang tính xúc cảm, tình cảm nên có khả năng cảm hóa rất lớn.
Có thể nói
những đặc điểm trên là mặt mạnh của gia đình, góp phần bổ sung những thiếu
sót của giáo dục nhà trường. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà giáo dục gia đình có những
hạn chế nhất định như: nhiều gia đình tổ chức hoạt động giáo dục không thường xuyên, liên
tục, nội dung giáo dục chưa toàn diện. Một số gia đình còn rất ít phối hợp với nhà trường trong
việc giáo dục con cái, ngoài việc đến họp phụ huynh học sinh, dường như một số gia đì
nh còn
“khoán trắng” cho nhà trường, ỷ lại vào nhà trường trong việc giáo dục học sinh. Cá biệt có
những gia đình do thiếu hiểu biết về tâm lý lứa tuổi, thiếu kiến thức giáo dục, quá nuông chiều
con cái dẫn đến những hành vi ngược lại tác động giáo dục học sinh từ phía nhà trường, làm
hạn chế không nhỏ đến kết quả của quá trình giáo dục.
Qua sự phân tích trên có thể nhận định rằng: cả giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình
đều có những mặt mạnh và mặt hạn chế. Vấn đề đặt ra cho chúng t
a là phải kế thừa, phát huy
ưu điểm, đồng thời loại bỏ những nhược điểm, nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất, tạo
môi trường giáo dục lành mạnh để giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách của m
ình
một cách toàn diện. Mặt khác, giáo dục nhà trường và gia đình là hai “mắt xích” quan trọng
trong quá trình giáo dục, nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì không thể tạo ra “sản phẩm con
người” như mong muốn.
Vì vậy, cần tổ chức phối hợp giữa nhà trường và gia đình như thế nào để thực hiện được sự
thống nhất trong nhận thức và hành động, giáo dục theo cùng một hướng, đồng tâm hiệp lực,
tránh sự tá
ch rời “ trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, sự mâu thuẫn và vô hiệu hóa lẫn nhau, luôn
thống nhất về định hướng nhưng vẫn bao hàm, khuyến khích sự đa dạng, tính đặc thù của mỗi
loại hình giáo dục nhà trường và gia đình
1.2.2.2. Nhiệm vụ của giáo dục gia đình
So với giáo dục nhà trường nhiệm vụ của giáo dục gia đình cũng theo mục đích giáo dục
toàn diện, nhằm thực hiện năm
nhiệm vụ:
- Giáo dục trí tuệ: giáo dục gia đình làm cơ sở cho sự phát triển trí tuệ của trẻ từ mới lọt
lòng, việc giúp trẻ quan sát đồ vật xung quanh, tập nói, cho đến những kỹ năng sinh hoạt, lao
động hàng ngày ở gia đình trong quá trình trẻ lớn lên là nhiệm vụ hết sức cần thiết của gia đình.
Khi đến tuổi đi học gia đình có nhiệm vụ hướng dẫn trẻ thực hiện góc học tập, tổ chức học tập
một cách khoa học, phân bố thời gian học tập là điều kiện để giáo dục trí tuệ.
- Giáo dục đạo đức: gia đình đã thực hiện giáo dục đạo đức cho trẻ từ rất sớm nhân dân ta
có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, nhiệm vụ giáo dục đạo đức ở gia đình l
uôn gắn với truyền
thống của gia đình, những nề nếp gia phong có ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn và nhân cách của
trẻ.
- Giáo dục thẩm mỹ: ở gia đình được thể hiện qua quan điểm, nhận thức về cái đẹp mà
những thành viên trong gia đình cần phải giúp cho trẻ hình thành kiến thức và quan niệm về
thẩm mỹ.
- Giáo dục thể chất ở mỗi gia đình việc đầu tiên là nuôi con khỏe, giúp cho trẻ nhận thức
việc giữ gìn và bảo vệ sức khỏe trong học tập và trong lao động khi lớn lên.
- Giáo dục l
ao động - hướng nghiệp: gia đình tùy theo điều kiện, hoàn cảnh mà giúp trẻ có
những lao động phù hợp với lứa tuổi, giáo dục cho con em hiểu được ý nghĩa của lao động, tôn
trọng lao động và hướng tới nghề nghiệp cho tương lai sau này.
1.2.3. Sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục học sinh
1.2.3.1.Ý nghĩa của sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục học
sinh
Mục đích và nội dung giáo dục của nhà trường, gia đình là t
hống nhất với nhau nhằm giáo
dục thế hệ trẻ trở thành những người có tài, có đức, có năng lực thực hành, năng động và sáng
tạo… thành những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì xuất phát từ tinh thần trách
nhiệm đối với dân tộc, tình thương yêu đối với con em
mình mà nhà trường, gia đình phải phối
hợp, liên kết chặt chẽ với nhau để chăm sóc, giáo dục họ thành những người có ích cho nước
nhà.
Giáo dục nhân cách cho học sinh là một quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài, nếu nhà
trường và gia đình phối hợp thường xuyên và chặt chẽ sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp, tạo
nên sự thống nhất và
liên tục. Học sinh sống và học tập không chỉ ở nhà trường mà còn ở gia
đình, cho nên phải phối hợp giáo dục để nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả hai phía nhà
trường và gia đình, tạo điều kiện cho các em được giáo dục mọi nơi, mọi lúc.
Việc phối hợp giữa nhà trường và gia đình nhằm tạo cho quá trình giáo dục được thống
nhất và đư
ợc tốt hơn. Thực tiễn đã chứng minh ở đâu có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường-
gia đình thì ở đó kết quả giáo dục sẽ tốt hơn, như Bác Hồ đã căn dặn: “Giáo dục trong nhà
trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc
giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu
giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
1.2.3.2. Mục tiêu, nội dung của sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong việc giáo
dục học sinh
Mục tiêu của sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình đó là những tiêu chuẩn định hướng
ban đầu mà sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình cần phải đạt được trong quá trình giáo dục
học sinh. Mục tiêu sự phối hợp là để có sự thống nhất về quan điểm g
iáo dục, thống nhất về các
nội dung và biện pháp giáo dục học sinh của nhà trường và gia đình nhằm làm cho quá trình
giáo dục đạt được kết quả cao nhất, tránh được các hiện tượng “trống đánh xuôi kèn thổi
ngược” trong giáo dục, giúp cho các em trở thành những con người tốt, có ích cho xã hội. Việc
xác định mục tiêu p
hối hợp đúng giúp cho quá trình giữa nhà trường và gia đình được thuận lợi
trôi chảy, nhịp nhàng và thường xuyên, hiệu quả sự phối hợp cao hơn. Tuy nhiên, mục tiêu phối
hợp cần phù hợp ở từng địa phương và tùy mức độ nhận thức của các thành viên, nếu mục tiêu
quá khó và vượt khả năng phối hợp thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình phối hợp.
Nội dung của sự phối hợp là những công việc cần phải thực hiện của nhà trường và gia
đình trong sự phối hợp giáo dục học sinh như là:
- Thống nhất quan điểm, nội dung, biện pháp, hình thức giáo dục học sinh cho cán bộ quản
lý, giáo viên và cha mẹ học sinh.
- Nhà trường theo định kỳ hoặc thường xuyên thông báo cho gia đình học sinh kết quả học
tập, rèn luyện của học sinh.
- Nhà trường làm
cho gia đình hiểu rõ nhiệm vụ, chức năng của giáo dục gia đình, tạo điều
kiện để cha mẹ học sinh nhận thức đúng về trách nhiệm phối hợp với nhà trường.
- Nhà trường lập kế hoạch phối hợp giữa nhà trường-gia đình, tổ chức thực hiện kế hoạch,
tổng kết đánh giá việc thực hiện kế hoạch
.
- Nhà trường tư vấn cho cha mẹ học sinh kiến thức về tâm lý học, và giáo dục học và bồi
dưỡng phương pháp giáo dục gia đình cho cha mẹ học sinh.
- Nhà trường huy động khả năng tiềm lực của gia đình vào công tác giáo dục học sinh…
1.2.3.3. Phương pháp phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong việc giáo dục học sinh
Sự phối hợp của nhà trường với gia đình trong việc giáo dục học sinh cần có những cách
thức phù hợp bổ sung cho nhau:
- Phương pháp phối hợp bằng văn bản: biên bản cuộc họp giữa phụ huynh học sinh với nhà
trường, triển khai những văn bản chỉ đạo của cấp trên (điều lệ Hội, những quyết định của nhà
nước về tổ chức hội phụ huynh học sinh, luật giáo dục Việt Nam….), văn bản về kế hoạch phối
hợp giữa nhà trường và gia đình, sổ liên lạc của học sinh, gửi thư, thông báo về gia đình học
sinh khi cần thiết.
- Phương pháp tuyên truyền cho giáo viên và phụ huynh học sinh về hoạt động giáo dục.
Tổ chức các buổi hội thảo hướng dẫn, bồi dưỡng kinh nghiệm giáo dục cho cha
mẹ học sinh.
Tổ chức cho họ báo cáo điển hình ở lớp, ở trường về cách giáo dục con với những gương điển
hình.
- Phương pháp phối hợp hành động: Thành lập hội cha mẹ học sinh, tổ chức định kỳ các
cuộc họp cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm thường xuyên gặp gỡ trao đổi với cha mẹ học
sinh, tổ chức thăm gia đình học sinh.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá rút kinh nghiệm t
hường xuyên, có qui định nhiệm vụ,
tiêu chuẩn thi đua, phối hợp cho giáo viên chủ nhiệm, động viên khen thưởng kịp thời. Tổ chức
bồi dưỡng kỹ năng tổ chức các hoạt động phối hợp với cha mẹ học sinh cho giáo viên chủ
nhiệm lớp.
1.2.3.4. Điều kiện và cơ chế phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong việc giáo dục học
sinh
Điều kiện của sự phối hợp giữa nhà trường - gia đì
nh là phải phù hợp với trình độ phát
triển về kinh tế và văn hóa của thực tế địa phương, trình độ nhận thức của mỗi gia đình học
sinh, thời gian thuận tiện để các thành viên trong nhà trường và gia đình gắn kết với nhau, đồng
thời cần có những quy chế, quy định để các thành viên có điều kiện thực hiện tốt sự phối hợp.
Về mặt cơ chế:
- Nhà trường có vai t
rò chủ đạo trong quá trình phối hợp, trong đó hiệu trưởng nhà trường
là người vạch ra kế hoạch, chịu trách nhiệm chỉ đạo mọi hoạt động phối hợp giữa nhà trường
với gia đình học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng nòng cốt có trách nhiệm thực hiện các chỉ đạo phối hợp
giữa nhà trường-gia đình của hiệu trưởng nhằm kết hợp với mỗi gia đình học sinh để thống nhất
nội dung, phương pháp giáo dục học sinh.
- Đoàn thể trong nhà trường (công đoàn, đoàn tha
nh niên…) là những bộ phận kết hợp
giữa giáo viên chủ nhiệm dưới sự chỉ đạo thống nhất của hiệu trưởng nhà trường.
- Gia đình có vai trò chủ động để thực hiện trong quá trình phối hợp như là: hội cha mẹ
học sinh t
hông qua quy chế, người đại diện cho cha mẹ học sinh thống nhất với nhà trường qua
kế hoạch và biện pháp thực hiện, gia đình phải nhận thức đúng trách nhiệm phối hợp với nhà
trường, gia đình có nhiệm vụ phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh theo Luật Giáo Dục
đã ban hành, chủ động liên hệ với nhà trường để nắm vững mục tiêu giáo dục, tham gia các
hoạt động do nhà trường tổ chức, thường xuyên gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm để biết tình hình
học tập, rèn luyện của con em mình…
1.3. Lý luận về quản lý sự phối hợp nhà trường – gia đình trong công tác giáo dục học
sinh
1.3.1. Một số kh
ái niệm cơ bản
1.3.1.1. Quản lý, Quản lý giáo dục, Quản lý nhà trường
- Quản lý
Ngày nay, nhiều người thừa nhận rằng quản lý trở thành một nhân tố của sự phát triển xã
hội. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên
quan với mọi người. C.Mác coi quản lý là một đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời
sống xã hội. Ông viết “bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay la
o động chung nào mà tiến hành
trên một qui mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá
nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự
khác nhau giữa sự vận động c
hung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những
khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó”, “Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy
mình, nhưng một dàn nhạc thì cần có một nhạc trưởng”. [32]. Như vậy C.Mác đã chỉ ra bản
chất quản lý là một hoạt động lao động để điều khiển lao động, một hoạt động tất yếu quan
trọng trong quá t
rình phát triển của xã hội loài người. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến
ở mọi nơi, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và các liên quan đến mọi người. Đó là một hoạt động bắt
nguồn từ tính chất cộng đồng dự trên sự phân công và hợp tác để làm
một công việc nhằm đạt
một mục tiêu chung.
Theo Taylor PH.W (1856-1915), đã định nghĩa “Quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng học đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất
và rẽ nhất” [35]. Đó cũng là tư tưởng của ông về quản lý.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản l
ý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm
đạt mục đích nhất định” [23].
Trong quá trình phát triển lý luận quản lý, có nhiều khái niệm khác nhau khác nhau về
quản lý do các nhà nghiên cứu lý luận cũng như thực hành quản lý đưa ra:
“Quản lý được hiểu là việc bảo đảm hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi
liên tục của hệ thống và mội trường, là chuyển động của hệ thống đến trạng thái mới thích ứng
với hoàn cảnh mới” [27].
“ Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng các nhân
biến thành những thành tựu của xã hội” hay “ Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn nhân lực, vật
lực, t
ài lực trong và ngoài tổ chức, chủ yếu là nội lực một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ
chức với hiệu quả cao nhất”[12].
Theo “Từ điển Tiếng Việt” d
o Viện Ngôn Ngữ năm 2005, quản lý được định nghĩa là:
“trông coi và giữ gìn theo những chu cầu nhất định, tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những nhu cầu nhất định” [29].
Từ các khái niệm quản lý khác nhau, có thể hiểu một cách khái quát: quản lý là sự tác động
có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm
làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích đã đề ra.
Giáo dục là lĩnh vực rất quan trọng của xã hội, do đó quản lý giáo dục là một loại hình
quản lý xã hội phải được đặc biệt quan tâm, sau đây chúng ta đi sâu vào khái niệm quản lý giáo
dục.
- Quản lý giáo dục
Theo tác giả Trần Kiểm “giáo dục và quản lý giáo dục là tồn tại song hành. Nếu nói giáo
dục là hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài cùng với xã hội loài người thì cũng có thể nói như thế về
quản lý gi
áo dục”. Ở khái niệm về quản lý giáo dục ông đã đưa ra hai nhóm khái niệm quản lý
giáo dục tương ứng: một cho quản lý một nền (hệ thống) giáo dục đó là quản lý vĩ mô và một
cho quản lý một nhà trường là quản lý vi mô [11].
Đối với cấp vĩ mô ông cho rằng “quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các
mắc xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các hệ thống giáo dục là nhà trường) nhằm thực
hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra
cho ngành giáo dục.” [11
].
“Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi (chỉ khả năng mới của hệ thống mà khi các phần tử
đứng riêng rẽ thì không thể tạo ra được) của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng,
các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện bảo
đảm sự công bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến động.” [12].
Đối với cấp vi mô ông cho rằng “ quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động
tự giác tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể
quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực
lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm t
hực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo
dục của nhà trường” [11].
Quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục
(được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã
hội) nhằm hình t
hành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà
trường.
Khái quát lại, nội hàm của khái niệm quản lý giáo dục chứa đựng những nhân tố đặc trưng
cơ bản sau:
- Phải có thể chế quản lý giáo dục, ở tầm vĩ mô là quản lý nhà nước mà cơ quan trực tiếp
quản lý là Bộ, Sở, Phòng Giáo Dục và Đào Tạo, ở tầm v
i mô là quản lý của hiệu trưởng nhà
trường.
- Phải có hệ thống tác động quản lý theo một nội dung, chương trình, kế hoạch thống nhất
từ trung ương đến địa phương nhằm thực hiện mục đích giáo dục trong mỗi giai đoạn cụ thể của
xã hội, phải có một lực lượng đông đảo những người làm công tác giáo dục cùng với hệ thống
cơ sở vật chất tương ứng.
Tó
m lại, QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách chủ
thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt được kết quả mong muốn
một cách có hiệu quả nhất.
- Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường (trường học) là quản lý nhà nước trên một lĩnh vực cụ thể l
à giáo dục,
tại một đơn vị cụ thể là trường học. Trong đó chủ thể của hoạt động quản lý nhà trường là hiệu
trưởng thực hiện hoạt động điều hành, điều chỉnh khách thể của quá trình quản lý gồm các giáo
viên, học sinh để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường. Theo tác giả Nguyễn Ngọc
Quang: “Quản lý nhà trường là một tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập
thể giáo viên, học sinh và cán bộ khác, nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực
lượng xã hội đóng góp và do la
o động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt
động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng
mục tiêu và kế hoạt đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới” [22].
Quản lý nhà trường là một hoạt động thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản
lý, đồng thời có những nét đặc thù riêng của nó. Quản lý nhà trường được quy định bởi bản chất
hoạt động sư phạm của người thầy; bản chất của quá trình dạy học, giáo dục trong mọi thành
viên của nhà trường vừa là chủ thể của quản lý vừa là chủ thể hoạt động của bản thân m
ình. Sản
phẩm tạo ra của nhà trường là nhân cách của người học được hình thành trong quá trình học tập
và rèn luyện theo mục tiêu giáo dục và được xã hội thừa nhận.
Quản lý nhà t
rường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các
hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các
nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường.
Có nhiều cấp quản lý trường học: cấp cao nhất là Bộ GD&ĐT, nơi quản lý nhà trường
bằng các biện pháp vĩ mô, có hai cấp trung gian quản lý trường học là Sở GD&ĐT ở các tỉnh và
Phòng GD&ĐT ở các huyện. Cấp quản lý quan trọng và trực tiếp của hoạt động gi
áo dục là cơ
quan quản lý trong các nhà trường.
Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có lên một trạng thái
phát triển mới. Bằng phương thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực giáo dục và
hướng các nguồn lực đó vào phục vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo dục và tổ chức qu
á
trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người có tri thức, sáng tạo,
năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân, gia đình và xã hội.
Tóm lại: quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật
của chủ thể quản lý nhà trường, làm
cho nhà trường vận hành theo đường lối quan điểm giáo
dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường, góp phần thực hiện
mục tiêu chung của giáo dục “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước” [4].
1.3.1.2. Quản lý sự phối hợp nhà trường – gia đình
- Phối hợp
Trong các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình trong công
tác giáo dục học sinh, các t
ác giả đã dùng các khái niệm như: “hợp tác”, “kết hợp”, “thống
nhất”, “liên kết”, “phối hợp”… Các từ này được từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ (2005)
định nghĩa:
- Hợp tác: là chung sức, trợ giúp qua lại với nhau.
- Kết hợp: là gắn chặt với nhau để bổ sung cho nhau.
- Thống nhất: là hợp lại thành một khối.
- Liên kết: là kết hợp nhiều thành phần, nhiều tổ chức để thực hiện.
- Phối hợp: là cùng hành động, hoạt động hỗ trợ lẫn nhau.
Các khái niệm trên có nghĩa gần giống với nhau. Tuy nhiên khái niệm “Phối hợp” phản
ánh một cách bản chất về tính t
hống nhất, chặt chẽ, liên tục, toàn vẹn của quá trình giáo dục. Vì
vậy, trong đề tài này, tác giả đã sử dụng khái niệm sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
trong công tác giáo dục học sinh.
- Quản lý sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình là một trong những nội dung quản lý
nhà trường của nhà quản lý, những tác động có ý thức của nhà quản lý nhằm định hướng, tổ
chức, điều khiển và kiểm
soát quá trình phối hợp giữa nhà trường-gia đình trong công tác giáo
dục học sinh đúng với nguyên lý giáo dục, phương pháp giáo dục, đảm bảo nguyên tắc quản lý
về giáo dục làm cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Đó là hoạt động vạch kế
hoạch, tổ chức, phân công, kiểm tra đánh giá công tác phối hợp giữa nhà trường - gia đình trong
công tác giáo dục học sinh.
1.3.2. Nội dung quản lý sự phối hợp giữa nhà trường – gia đình trong việc giáo dục
học sinh
1.3.2.1. Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung phối hợp giữa nhà trường - gia
đình
Hiệu trưởng nhà trường có kế hoạch, chương trình chung cho sự phối hợp giữa n
hà trường
- gia đình, chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động phối hợp giữa nhà trường
gia đình của giáo viên chủ nhiệm, duyệt kế hoạch chương trình hoạt động phối hợp giữa nhà
trường-gia
đình theo định kỳ thời gian (tuần, tháng, học kỳ), chỉ đạo điều hành quản lý, giám
sát việc thực hiện kế hoạch hoạt động phối hợp giữa nhà trường - gia đình.
1.3.2.2. Tổ chức thực hiện sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình
Người hiệu trưởng phải có kế hoạch tổ chức, phân công các thành viên thực hiện sự phối
hợp giữa nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục học sinh của các thành viên trong nhà
trường m
à lực lượng chủ yếu là giáo viên chủ nhiệm như:
- Hướng dẫn cách thức tổ chức hoạt động phối hợp giữa nhà trường gia đình.
- Lựa chọn giáo viên chủ nhiệm là người có khả năng tham gia phối hợp với gia đình
- Tổ chức các hoạt động chuyên đề thảo luận trao đổi kinh nghiệm
trong công tác phối hợp
giữa nhà trường - gia đình.