Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

FELDENE (Kỳ 3) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.61 KB, 5 trang )

FELDENE
(Kỳ 3
LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ
Mặc dù không quan sát được tác dụng gây quái thai trên thử nghiệm ở thú
vật, không khuyến cáo sử dụng Feldene trong thai kỳ. Feldene ức chế tổng hợp
prostaglandin và giải phóng qua một sự ức chế có hồi phục men cyclooxygenase.
Tác dụng này, cũng như các thuốc chống viêm không steroid khác có liên quan
đến sự gia tăng tỷ lệ đẻ khó và kéo dài thời gian đẻ ở thú vật có thai khi dùng
thuốc vào cuối thai kỳ. Các thuốc chống viêm không steroid cũng được biết là gây
đóng sớm ống động mạch ở trẻ sơ sinh.
Sự hiện diện của piroxicam trong sữa mẹ đã được xác định khi bắt đầu
dùng thuốc và qua một thời gian sử dụng lâu dài (52 ngày). Piroxicam xuất hiện
trong sữa với tỷ lệ khoảng 1-3% nồng độ trong huyết tương của người mẹ. Không
có sự tích tụ piroxicam trong sữa có liên quan đến sự tích tụ trong huyết tương
trong quá trình điều trị. Không khuyến cáo dùng Feldene cho bà mẹ đang nuôi con
bú do tính an toàn trên lâm sàng chưa được xác định.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Các thuốc chống viêm không steroid có thể gây giữ natri, kali và nước, và
có thể can thiệp vào hoạt tính thải natri qua nước tiểu của các thuốc lợi tiểu. Nên
lưu ý tính chất này khi điều trị những bệnh nhân suy tim hay cao huyết áp do các
chứng bệnh này có thể góp phần làm xấu hơn tình trạng bệnh.
Xuất huyết đã được báo cáo hiếm khi gặp khi dùng Feldene cho những
bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu loại coumarin. Nên theo dõi bệnh nhân
cẩn thận khi dùng đồng thời Feldene và thuốc chống đông máu uống.
Feldene, giống như các thuốc chống viêm không steroid khác làm giảm sự
kết tập tiểu cầu và kéo dài thời gian chảy máu. Nên lưu ý đến tác dụng này khi xác
định thời gian chảy máu.
Tương tự các thuốc chống viêm không steroid khác, không nên kết hợp
Feldene với acetylsalicylic acid hay dùng đồng thời hai thuốc chống viêm không
steroid do các số liệu không đủ để chứng minh rằng sự kết hợp các thuốc chống
viêm là tốt hơn so với khi dùng một loại thuốc trong khi lại gia tăng khả năng xảy


ra tác dụng ngoại ý.
Các nghiên cứu trên nam giới đã cho thấy rằng sự sử dụng đồng thời
Feldene với acetylsalicylic acid làm giảm nồng độ trong huyết tương của
piroxicam đến 80% giá trị bình thường. Dùng đồng thời các thuốc kháng acid
không có tác dụng trên nồng độ piroxicam trong huyết tương. Trị liệu đồng thời
Feldene và digoxin, hay Feldene và digitoxin không ảnh hưởng đến nồng độ trong
huyết tương của cả hai thuốc.
Feldene gắn kết chặt với protein, và do đó có thể thế chỗ các thuốc gắn kết
protein khác. Bác sĩ nên theo dõi cẩn thận bệnh nhân để thay đổi nhu cầu về liều
lượng khi dùng Feldene cho bệnh nhân đang điều trị với các thuốc có tính gắn kết
cao với protein. Các thuốc chống viêm không steroid bao gồm cả Feldene được
báo cáo là làm tăng nồng độ ổn định trong huyết tương của lithium. Nên kiểm tra
nồng độ này khi bắt đầu điều trị, điều chỉnh liều và khi ngưng dùng Feldene.
Các kết quả từ hai nghiên cứu độc lập cho thấy có sự gia tăng nhẹ hấp thu
piroxicam khi dùng cimetidine nhưng không có thay đổi đáng kể trên những thông
số thanh thải. Cimetidine làm tăng diện tích dưới đường cong (AUC 0-120 giờ) và
Cmax của piroxicam khoảng 13 đến 15%. Hằng số tốc độ đào thải và thời gian bán
hủy không cho thấy sự khác biệt đáng kể. Sự gia tăng nhẹ nhưng có ý nghĩa trong
hấp thu hầu như không chắc chắn là có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
TÁC DỤNG NGOẠI Ý
Feldene nói chung được dung nạp tốt. Các triệu chứng trên đường tiêu hóa
là tác dụng ngoại ý thường gặp nhất nhưng trong hầu hết các trường hợp thì không
ảnh hưởng đến liệu trình điều trị. Các tác dụng ngoại ý này bao gồm viêm miệng,
chán ăn, đau thượng vị, buồn nôn, táo bón, bụng khó chịu, trướng bụng, tiêu chảy,
đau bụng và khó tiêu. Xuất huyết tiêu hóa, thủng và loét (xem Chú ý đề phòng và
Thận trọng lúc dùng) đã được báo cáo xuất hiện với Feldene. Đánh giá khách quan
về niêm mạc dạ dày và mất máu ở ruột cho thấy rằng liều Feldene 20 mg/ngày
dùng một lần hay chia làm nhiều lần ít gây kích ứng hơn một cách đáng kể trên
đường tiêu hóa so với acetylsalicylic acid.
Dùng dài ngày với liều 30 mg hay hơn làm gia tăng nguy cơ tác dụng ngoại

ý trên đường tiêu hóa.
Ngoại trừ các triệu chứng trên đường tiêu hóa, phù nề, chủ yếu là ở cổ
chân, đã được báo cáo xuất hiện trên một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân.
Các tác dụng trên hệ thần kinh trung ương, như chóng mặt, nhức đầu, buồn
ngủ, mất ngủ, trầm cảm, lo lắng, ảo giác, thay đổi tính tình, giấc mơ bất thường, lú
lẫn tâm thần, dị cảm, và choáng váng được báo cáo hiếm khi xuất hiện.
Sưng mắt, nhìn mờ và kích ứng mắt đã được báo cáo. Soi đáy mắt thường
quy và khám đèn khe không cho thấy bằng chứng thay đổi trên mắt. Có thể ù tai
và khó ở.
Các phản ứng quá mẫn trên da, thường dưới dạng nổi ban da và ngứa ngáy
đã được báo cáo. Hiếm khi có báo cáo về chứng tróc móng và rụng tóc. Phản ứng
dị ứng với ánh sáng ít khi đi kèm với trị liệu. Cũng như các thuốc chống viêm
không steroid khác, hoại tử nhiễm độc biểu bì (bệnh Lyell), và hội chứng Stevens-
Johnson hiếm khi xảy ra. Phản ứng mụn nước-bóng nước cũng hiếm khi được báo
cáo.
Phản ứng quá mẫn như phản vệ, co thắt phế quản, nổi mày đay/phù mạch,
viêm mạch và "bệnh huyết thanh" hiếm khi được báo cáo.
Phản ứng hậu môn-trực tràng với tọa dược biểu hiện ra chứng đau tại chỗ,
rát bỏng, ngứa ngáy và cảm giác buốt mót. Đã xuất hiện những trường hợp hiếm
xuất huyết hậu môn.
Gia tăng BUN và creatinine có hồi phục đã được báo cáo.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×