Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Đề tài " Cơ chế giải quyết tranh chấp được vận hành và hiệu quả như thế nào?" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.31 KB, 39 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
" Cơ chế giải quyết tranh chấp được vận
hành và hiệu quả như thế nào?"
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….4
I. NHỮNG NÉT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP…6
1. Khái niệm về tranh chấp thương mại …………………………………… 6
2. Quá trình hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp………………………6
3. Các cơ quan giải quyết tranh chấp…………………………………… 8
3.1 Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB)………………………………… 8
3.2 Ban hội thẩm……………………………………………………………… 9
3.3 Cơ quan phúc thẩm…………………………………………………… 10
4. Trình tự giải quyết tranh chấp…………………………………………….10
5. Các qui định đặc biệt về thủ tục giải quyết các tranh chấp áp dụng cho
các nước đang phát
triển…………………………………………………………… 14
II. VỤ KIỆN GIỮA ẤN ĐỘ VÀ EC……………………………………… 16
1. Nguồn gốc vụ kiện………………………………………………………… 16
2. Diễn biến của vụ kiện……………………………………………………… 18
3. Quan điểm của các bên liên quan………………………………………… 20
3.1 Quan điểm của EC…………………………………………………………20
3.2 Quan điểm của Ấn
Độ 21
3.3 Các bên hứ ba………………………………………………………………
21
4. Quá trình giải quyết tranh chấp 22
2
5. Ý nghĩa của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO…………………… 28


5.1 Giải quyết được bất đồng thương mại lớn trong lich sử
WTO… 28
5.2 Khẳng định cơ chế giải quyết tranh tranh chấp cảu WTO đem lại công
bằng cho các nước thành
viên………………………………………… 28
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG WTO VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA CHO VIỆT
NAM…………………………………………………………………………… 29
1. Đánh giá thức tiễn cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO từ khi thành lập
tới nay……………………………………………………………………… 29
1.1 Ưu điểm…………………………………………………………………… 29
1.2 Hạn chế………………………………………………………………………32
2. Một số kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam………………………………… 34
2.1 Đối với Chính phủ và cơ quan quản lý Nhà nước……………………… 34
2.2 Đối với phía Hiệp hội và các doanh nghiệp…………………………………35
KẾT LUẬN…………………………………………………………………… 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………… 37
3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
WTO World trade organization Tổ chức thương mại thế giới
GATT General Agreement on Tariffs
and Trade
Hiệp định chung về thế quan và
thương mại năm
EU European Union Liên minh chân Âu
DSB Dispute Settlement Body Cơ quan giải quyết tranh chấp
DSU Dispute Settlement
Understanding
Thỏa thuận về các Qui tắc và thủ

tục về giải quyết tranh chấp
ADA Anti- Dumping Agreement Hiệp định về chống bán phá giá
của WTO



LỜI MỞ ĐẦU
Tổ chức thương mại thế giới chính thức ra đời ngày 1/1/1995, là một tổ chức lớn
nhất thế giới trong lãnh vực thương mại. WTO thực sự đóng một vai quan trọng
việc điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế. Quá trình hình thành WTO là
4
một quá trình lâu dài và khó khăn, thông qua các cuộc thương lượng giữa các nước
thành viên, đặc biệt là là vòng đàm phán Uruguay. Ra đời với mục tiêu thúc đẩy tự
do hóa thương mại, nâng cao mức sống cho người dân cho các nước thành viên và
giải quyết các bất đồng về lợi ích giữa các quốc gia trong khuôn khổ hệ thống
thương mại đa biên, sự vận hành của WTO đã và sẽ tác động to lớn tác nền kinh tế
thế giới cũng như nền kinh tế của từng quốc gia.
Ngày nay hiện nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, tranh chấp
thương mại các trở nên phổ biến hơn. Thực tế yêu cầu cần có một cơ chế đảm bảo
cho việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, quy định trong hiệp định, ngăn chặn các
vi phạm trong các thỏa thuận, cho nên cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn
khổ của tổ chức này được thiết lập. Đây là một cơ chế được hình thành do cơ chế
GATT 1947 còn lỏng lẻo, thiếu độ tin cậy. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
đã thực sự góp phần vào quá trình điều chỉnh pháp lý các hoạt động thương mại thế
giới, tạo niềm tin cho các nước khi tham gia vào tự do hóa thương mại. Tuy nhiên,
thưc tiễn hoạt động của cơ chế này trong thời gian qua cũng bộ lộ một số nhược
điểm cần khắc phục.
Vụ khăn lanh trải giường giữa Ấn Độ và EC là một trong những vụ kiện điển
hình về chống bán phá giá, đây cũng là một trong những lĩnh vực được các quốc
gia thành viên kiện ra WTO nhiều nhất. Vụ tranh chấp này liên quan đến nhiều

điều khoản trong hiệp định về chống bán phá giá của WTO.
Có the nói, cơ chế giải quyết tranh chấp đóng một vai trò quan trọng trong việc
điều chỉnh các mẫu thuẫn thương mại giữa các quốc gia thành viên. Một câu hỏi
đặt ra là cơ chế giải quyết tranh chấp được vận hành và hiệu quả như thế nào?
Thông qua bài viết, chúng em sẽ cung cấp cho người đọc những thông tin cơ bản
về cho chế giải quyết tranh chấp của WTO. Trên cơ sở phân tích, đánh giá, đôi
chiếu, chúng em sẽ rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế toàn cầu. với mục tiêu trên bố cục bài viết chúng em gồm ba phần:
I. Những nét chung về vấn đề giải quyết tranh chấp
5
II. Vụ kiện giữa Ấn độ và EC
III. Đánh giá thực tiễn về cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO và một
số kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Do hạn chế về mặt kiến thức, bài viết sẽ không thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong được sự góp ý chân thành từ Thầy để bài viết chúng em được
hoàn tiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
I. NHỮNG NÉT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
1. Khái niệm về tranh chấp thương mại
Theo các từ điển luật học, tranh chấp thương mại được hiểu là những mâu
thuẫn, xung đột về việc thực hiện pháp lý của các chủ thể pháp luật kinh tế. Đặc
trưng của tranh chấp kinh tế là chúng phát sinh từ hoạt động kinh doanh; chủ thể
tham gia tranh chấp thông thường là các doanh nghiệp, tranh chấp gắn liền với lợi
ích riêng biệt của mỗi chủ thể.Tranh chấp thương mại có thể hiểu là những mâu
thuẫn xung đột phát sinh trong quá trình trao đổi thương mại.
Tranh chấp thương mại trong WTO là sự vi phạm các hiệp định, các quy tắc của
WTO được các nước kí kết tại vòng đám phán Uruguay (1986-1994). Điều đó sẽ
gây thiệt hại cho các thành viên khác, đặc biệt là mặt kinh tế; bóp méo thương mại,
6
đi ngược lại xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu và đi ngược lại tôn chỉ mục đích

của WTO là tạo ra một khuôn khổ pháp lý, trong đó mọi thành viên đều có thể
cạnh tranh một cách bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Về mặt hình thức, tranh chấp thương mại trong WTO xảy ra giữa các quốc gia
với nhau nhưng thực chất đó là sự tranh chấp giữa các doanh nghiệp, nhà nước chỉ
là người đại diện cho doanh nghiệp trong quá trình giải quyết tranh chấp.
2. Quá trình hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp
Trước khi WTO ra đời, cơ chế giải quyết tranh chấp được đưa ra trong điều
XXII và điều XXIII của hiệp đinh GATT. Điều XXII quy định về thủ tục tư vấn
giữa các bên ký kết liên quan đến việc áp dụng và thực hiện GATT. Điều XXIII
quy định về thủ tục hoà giải giữa các bên có tranh chấp trong trường hợp quyền lợi
thương mại của một nước bị vô hiệu hoá (nullification) hoặc bị suy giảm
(impairment) do hành vi của một bên ký kết khác. Cơ chế giải quyết tranh chấp
quy định tại 2 điều này chủ trương giải quyết tranh chấp giữa các thành viên bằng
con đường tham vấn và thương lượng giữa họ. Nếu các bên không tự giải quyết
được tranh chấp, điều XXIII khoản 2 quy định Hội đồng GATT (gồm đại diện của
tất cả các thành viên) có thể tiến hành điều tra, và nếu cần thiết, có thể cho phép
một hoặc nhiều thành viên ngừng thực thi các cam kết tự do hoá đối với thành viên
đang có tranh chấp.Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT được phát triển từng
bước qua thực tiễn.Tuy nhiên, nó ngày càng tỏ ra thiếu hiệu quả. Ví dụ: cách thức
thông qua một quyết định của GATT. Các quyết định của GATT phải được thông
qua bằng đồng thuận, dẫn tới kết quả là có rất nhiều quyết định không được thông
qua do một trong hai nước tranh chấp thường bỏ phiếu chống lại quyết định không
có lợi cho họ.
Bản ghi nhớ về các nguyên tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp, được thông qua
tại vòng đàm phán Uruguay đã cho ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu
7
quả, hiệu lực và nhanh chóng. Đây có thể được coi là một thành công lớn của các
nước thành viên trong việc thiết lập một hệ thống giải quyết các tranh chấp dựa
trên các quy tắc đã được xác định rõ ràng, kèm theo một lịch trình cụ thể để xem
xét một vụ kiện.

Cơ chế giải quyết tranh chấp mới đã khắc phục được các nhược điểm của cơ
chế cũ. Ta có thể thấy cụ thể điều này qua sự so sánh về cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa GATT và WTO trong bảng sau:
GATT WTO
_ không phải tuân theo một lịch
trình cụ thể với những thời hạn cụ
thể nào
_ Các quyết định của GATT phải
được thông qua bằng đồng thuận.
_ Không có các hình thức bổ trợ.
_ đã đề ra một tiến trình giải
quyết tranh chấp cụ thể hơn theo đó
các giai đoạn giải quyết tranh chấp
được xác định rõ ràng hơn. Theo đó
trình tự giải quyết tranh chấp về
nguyên tắc không được kéo dài quá
một năm hoặc 15 tháng, nếu có xét
xử phúc thẩm
_ các báo cáo của Ban hội thẩm
hay của Cơ quan phúc thẩm sẽ tự
động được thông qua nếu tất cả các
thành viên không phản đối.
_ quy định một loạt các hình thức
giải quyết tranh chấp bổ trợ như
trung gian, hoà giải, trọng tài và đề
ra các biện pháp đảm bảo việc tôn
trọng và thực thi các quyết định giải
quyết tranh chấp.
8
Nhờ tính hiệu quả và đáng tin cậy của cơ chế giải quyết tranh chấp mới, số

lượng các vụ việc được đưa ra giải quyết tăng lên đáng kể, tính đến nay có tới hàng
trăm vụ việc đã được đưa ra xử lý. Điều đó cho thấy các nước ngày càng tin tưởng
vào năng lực giải quyết tranh chấp của WTO, do đó, họ tìm đến cơ chế giải quyết
tranh chấp đa phương thay vì tự mình giải quyết một cách đơn phương.
3. Các cơ quan giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO được thực hiện bởi các cơ quan khác
nhau, mỗi cơ quan có chức năng riêng biệt, tạo nên tính độc lập trong hoạt động
điều tra và thông qua quyết định trong cơ chế này.
III.1 Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB):
Cơ quan này thực chất là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các
thành viên. DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban
hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến
nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ.
Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ quan thông qua quyết định chứ không trực tiếp thực hiện
việc xem xét giải quyết tranh chấp.
Các quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ
quyết
1
. Đây là một nguyên tắc mới theo đó một quyết định chỉ không được thông
qua khi tất cả thành viên DSB bỏ phiếu không thông qua. Điều này đồng nghĩa với
việc các quyết định của DSB hầu như được thông qua tự động vì khó có thể tưởng
tượng một quyết định có thể bị bỏ phiếu chống bởi tất cả các thành viên DSB.
Nguyên tắc này khắc phục được nhược điểm cơ bản của cơ chế giải quyết tranh
chấp trong GATT 1947 nơi áp dụng nguyên tắc đồng thuận truyền thống - mọi
quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các thành viên bỏ phiếu thông qua (mỗi
thành viên đều có quyền phủ quyết quyết định) – một rào cản trong việc thông qua
các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp.
III.2 Ban hội thẩm
1
Có tài liệu sử dụng thuật ngữ “Đồng thuận ngược”

9
Ban hội thẩm bao gồm từ 3 - 5 thành viên có nhiệm vụ xem xét một vấn đề cụ
thể bị tranh chấp trên cơ sở các qui định WTO được quốc gia nguyên đơn viện dẫn.
Kết quả công việc của Ban hội thẩm là một báo cáo trình DSB thông qua, giúp
DSB đưa ra các khuyến nghị đối với các Bên tranh chấp. Trên thực tế thì đây là cơ
quan trực tiếp giải quyết tranh chấp mặc dù không nắm quyền quyết định (vì với
nguyên tắc đồng thuận phủ quyết mọi vấn đề về giải quyết tranh chấp khi đã đưa ra
trước DSB đều được “tự động” thông qua).
Các thành viên Ban hội thẩm được lựa chọn trong số các quan chức chính phủ
hoặc các chuyên gia phi chính phủ không có quốc tịch của một Bên tranh chấp
hoặc của một nước cùng là thành viên trong một Liên minh thuế quan hoặc Thị
trường chung với một trong các nước tranh chấp. Ban hoạt động độc lập, không
chịu sự giám sát của bất kỳ quốc gia nào.
III.3 Cơ quan phúc thẩm:
Cơ quan Phúc thẩm là một thiết chế mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO, cho phép báo cáo của Ban hội thẩm được xem xét lại (khi có yêu cầu), đảm
bảo tính đúng đắn của báo cáo giải quyết tranh chấp. Sự ra đời của cơ quan này
cũng cho thấy rõ hơn tính chất xét xử của thủ tục giải quyết tranh chấp mới
2
.
Cơ quan phúc thẩm gồm 7 thành viên do DSB bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm (có
thể được bầu lại 1 lần). Các thành viên cơ quan phúc thẩm được lựa chọn trong số
những nhân vật có uy tín và có chuyên môn được công nhận trong lĩnh vực luật
pháp, thương mại quốc tế và trong những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của các
hiệp định liên quan. Tuy nhiên, việc xét xử phúc thẩm trong từng vụ việc chỉ do 3
thành viên cơ quan phúc thẩm thực hiện một cách độc lập.
Khi giải quyết vấn đề tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp chỉ xem xét lại
các khía cạnh pháp lý và giải thích luật trong Báo cáo của Ban hội thẩm chứ không
điều tra lại các yếu tố thực tiễn của tranh chấp. Kết quả làm việc của cơ quan giải
quyết tranh chấp là một báo cáo trong đó Cơ quan này có thể giữ nguyên, sửa đổi

2

10
hoặc đảo ngược lại các kết luận trong báo cáo của Ban hội thẩm. Báo cáo của Cơ
quan Phúc thẩm được thông qua tại DSB và không thể bị phản đối hay khiếu nại
tiếp.
4. Trình tự giải quyết tranh chấp
Các thành viên của WTO phải cam kết không được hành động đơn phương khi
có tranh chấp
3
, mà sẽ sử dụng cơ chế tập thể để giải quyết tranh chấp của mình
Một tranh chấp nảy sinh khi một thành viên WTO áp dụng một biện pháp
thương mại mà một hoặc một số thành viên khác coi là đã vi phạm các hiệp định
của WTO hoặc không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn tham vấn giữa các chính phủ có liên quan.
Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn bên kia
4
. Việc tham
vấn được tiến hành bí mật
5
và không gây thiệt hại cho các quyền tiếp theo của các
bên. Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải tiến hành tham
vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu
6
. Bên được tham vấn có nghĩa
vụ "đảm bảo việc xem xét một cách cảm thông và tạo cơ hội thoả đáng" cho bên
yêu cầu tham vấn.
Thủ tục tham vấn chỉ là thủ tục được tiến hành giữa các bên với nhau. DSB
được thông báo về thủ tục này và có trách nhiệm thông báo cho các quốc gia thành
viên về yêu cầu tham vấn nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia vào thủ tục

tham vấn. Các quốc gia khác có thể xin tham gia vào việc tham vấn này nếu bên bị
tham vấn thừa nhận rằng các quốc gia này có quyền lợi thương mại thực chất trong
việc tham vấn này
Trong quá trình này, các bên sẽ cùng nhau thảo luận các biện pháp để giải quyết
vấn đề. Đây thực chất là quá trình đàm phán, nhân nhượng lợi ích giữa các bên với
3
Chẳng hạn tự quyết định rằng một thành viên đã vi phạm các hiệp định, tự quyết định và sử dụng các biện pháp
trừng phạt
4
Điều 4, Bản ghi nhớ về cơ chế giải quyết tranh chấp
5
Nội dung của quá trình tham vấn giữa các bên được phép không công khai
6
Trong trường hợp khẩn cấp – ví dụ hàng hoá liên quan có nguy cơ hư hỏng, các thời hạn này lần lượt là 10 ngày và
20 ngày
11
nhau nhằm đi đến một thỏa thuận chung cho những tranh chấp còn tồn tại. Thông
thường, kết quả của quá trình tham vấn là những thỏa thuận song phương. Thủ tục
tham vấn có thể thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết tranh
chấp.
Giai đoạn thứ hai trong trình tự giải quyết tranh chấp trong WTO chính là trung
gian, hòa giải. Các hình thức này được tiến hành trên cơ sở tự nguyện, bí mật giữa
các Bên tại bất kỳ thời điểm nào sau khi phát sinh tranh chấp
7
. Tương tự như vậy,
các thủ tục này cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. DSU không xác định Bên
nào (nguyên đơn hay bị đơn) có quyền yêu cầu chấm dứt nên có thể hiểu là tất cả
các Bên tranh chấp đều có quyền yêu cầu chấm dứt các thủ tục này.
Chức năng trung gian, hoà giải do Tổng Thư ký WTO đảm nhiệm
8

. Tuy nhiên,
hiện vẫn chưa có qui định về việc liệu một cá nhân hoặc một tổ chức có thể đứng
ra đảm trách vai trò trung gian, hoà giải này không.
Khi có vụ việc, một Ban Hội thẩm được thành lập gồm 3 hoặc 5 thành viên đến
từ các nước khác nhau và được lựa chọn từ một danh sách do Ban thư ký lập ra.
Ban Hội thẩm có nhiệm vụ xem xét, phân tích các bằng chứng, sự kiện và quyết
định xem thành viên nào sai và thành viên nào đúng. Báo cáo của Ban Hội thẩm sẽ
được đệ trình lên Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ quan giải quyết tranh chấp
chỉ có thể bác bỏ báo cáo khi có sự đồng thuận.
Khi các Bên tranh chấp không thoả mãn với các kết luận của ban Hội thẩm, họ
có quyền kháng cáo. Trong trường hợp này, Cơ quan phúc thẩm, gồm 3 trên tổng
số 7 thành viên thường trực sẽ đứng ra xét xử phúc thẩm. Cơ quan phúc thẩm có
nhiệm vụ xem xét các lập luận pháp lý của Ban Hội thẩm khi có kháng cáo. Cơ
quan phúc thẩm không xem xét lại các bằng chứng và tình tiết, chỉ xem xét việc áp
7
Các hình thức này được tiến hành ngay cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến hành hoạt động
8
Điều 5 Bản ghi nhớ về cơ chế giải quyết tranh chấp
12
dụng luật. Một khi đã được thông qua, quyết định của Cơ quan phúc thẩm sẽ có giá
trị chung thẩm.
Các quyết định giải quyết tranh chấp được đảm bảo thực thi một cách nghiêm
túc. Trước hết, bên thua kiện phải cố gắng sửa đổi hành vi vi phạm của mình trong
một thời hạn hợp lý. Nếu bên đó không thực hiện đúng trong thời hạn đã nêu thì sẽ
phải đàm phán với một hay nhiều thành viên khiếu kiện để thoả thuận về việc đền
bù thoả đáng. Sau thời hạn 20 ngày, nếu các Bên không thoả thuận được về khoản
đền bù, Bên thắng kiện có thể yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp cho phép áp
dụng các biện pháp trừng phạt thương mại. Trong trường hợp này, các Bên có thể
sử dụng tới trọng tài của WTO để xác định mức độ trừng phạt thương mại. Yêu
cầu đền bù hoặc việc trừng phạt thương mại là nhằm buộc nước sai phạm phải điều

chỉnh chính sách của mình trong thời hạn sớm nhất.
Bồi thường và trả đũa là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử dụng nhằm
đảm bảo lợi ích của Bên thắng kiện trong thời gian Bên thua kiện không thể thực
hiện được phán quyết của DSB (thực hiện trong khi chờ đợi Bên thua thực hiện
phán quyết). Các biện pháp này không làm chấm dứt nghĩa vụ thực hiện khuyến
nghị của Bên vi phạm.
Cụ thể, nếu bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của
DSB, các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường. Việc bồi thường
phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định có liên
quan.
Nếu các Bên không đạt được thỏa thuận về việc bồi thường trong vòng 20 ngày
kể từ khi hết hạn thực hiện khuyến nghị, Bên thắng kiện có thể yêu cầu DSB cho
phép áp dụng các biện pháp trả đũa. Cần lưu ý là DSU nghiêm cấm việc trả đũa
13
đơn phương mà không có sự chấp thuận của cơ quan này
9
. Mức độ và thời hạn trả
đũa do DSB quyết định theo đúng thủ tục qui định cho vấn đề này trong DSU.
Trả đũa song song thực chất là việc Bên thắng không phải thực hiện các nhân
nhượng thuế quan đối với hàng hoá của Bên thua trong cùng lĩnh vực mà Bên
thắng bị thiệt hại.
Trả đũa chéo là hình thức trả đũa khác lĩnh vực bị thiệt hại trong trường hợp
việc trả đũa song song không thể thực hiện được (có thể trả đũa chéo lĩnh vực khác
lĩnh vực nhưng trong cùng phạm vi điều chỉnh của một hiệp định; hoặc trả đũa
chéo hiệp định – trả đũa trong một lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của một hiệp
định khác nếu việc trả đũa song song và trả đũa chéo lĩnh vực đều không thể thực
hiện được).
5. Các qui định đặc biệt về thủ tục giải quyết các tranh chấp áp dụng cho
các nước đang phát triển
Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh về giải quyết tranh chấp

(DSU) cũng như các qui định về giải quyết tranh chấp trong các hiệp định riêng lẻ
dành một số ưu tiên về thủ tục dành cho các quốc gia đang phát triển. Đây có thể
coi là một điểm nhấn quan trọng của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO
nhằm khuyến khích các nước đang phát triển, những thành viên vốn rất e dè trước
các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế do những hạn chế nhất định về khả năng
tài chính cũng như trình độ pháp lý, sử dụng cơ chế này. Trong tương lai, khi đã
trở thành thành viên WTO, chắc chắn Việt Nam không thể bỏ qua các qui định này
để có thể bảo vệ tốt hơn các quyền lợi của mình trong quan hệ với các thành viên
khác của WTO.
9
Quy định này thực chất nhắm chấm dứt hiện tượng trả đũa đơn phương khá phổ biến trong thực tiễn giải quyết
tranh chấp của GATT 1947
14
Cụ thể, các “ưu tiên” dành cho các nước đang phát triển thể hiện qua các qui
định sau đây:
 Khi vụ việc có liên quan đến một nước đang phát triển, trong mọi trường
hợp Bên khiếu kiện là nước phát triển cần kiềm chế việc đưa vụ việc ra giải quyết
theo thủ tục DSU, yêu cầu bồi thường hay xin phép tiến hành các biện pháp trả đũa
 Trong trường hợp Bên nguyên đơn là nước đang phát triển thì Bên này có
thể yêu cầu sử dụng Quyết định 1966 (Quyết định về thủ tục áp dụng đối với các
tranh chấp giữa một Bên là nước phát triển và một Bên là nước đang phát triển).
 Trường hợp Bên khiếu kiện là một nước đang phát triển, khi cân nhắc các
hành động phù hợp, DSB cần phải tính đến không chỉ đến phạm vi thương mại của
biện pháp bị khiếu kiện mà còn phải lưu ý đến các tác động của biện pháp đó đối
với toàn bộ nền kinh tế của nước đang phát triển liên quan.
 Ban Thư ký WTO phải cung cấp tư vấn pháp lý một cách khách quan trung
lập (trợ giúp kỹ thuật) cho các nước thành viên là các nước đang phát triển.
 Trong quá trình tham vấn, các Bên liên quan cần đặc biệt lưu ý đến các vấn
đề và quyền lợi đặc biệt của các nước đang phát triển.
 Trường hợp tham vấn thất bại, các nước đang phát triển có thể yêu cầu Tổng

giám đốc WTO đứng ra làm trung gian, hoà giải trong các tranh chấp với các nước
phát triển.
 Khi giải quyết tranh chấp có liên quan đến nước đang phát triển, trong thành
phần của Ban Hội thẩm nhất thiết phải có một thành viên là công dân của một nước
đang phát triển nếu có yêu cầu của nước đang phát triển là một Bên tranh chấp.
 Trường hợp nước đang phát triển là Bị đơn trong một khiếu kiện thì các Bên
có thể thoả thuận kéo dài thời gian tham vấn; và khi đã thành lập Ban hội thẩm,
Ban này có trách nhiệm xác định các thời hạn về thủ tục phù hợp sao cho Bên
15
tranh chấp là nước đang phát triển có đủ thời gian để chuẩn bị và trình bày lập luận
của mình.
 Ban hội thẩm cần chỉ rõ trong Báo cáo quá trình xem xét các qui định cụ thể
và đặc biệt được Bên tranh chấp là nước đang phát triển viện dẫn trong quá trình
giải quyết tranh chấp.
 Trong quá trình giám sát việc thực hiện các khuyến nghị và quyết định, DSB
cần chú ý đến các ảnh hưởng mà khuyến nghị có thể gây ra đối với lợi ích của các
nước đang phát triển
II. VỤ KIỆN GIỮA ẤN ĐỘ VÀ EC
1. Nguồn gốc vụ kiện
Vụ Ấn độ kiện EC bắt nguồn từ vụ EC điều tra chống bán phá giá đối với khăn
lanh trải giường loại cotton. Đây là một trong những vụ kiện chống bán phá giá
phức tạp nhất mà Ủy Ban Châu Âu tiến hành trong thời gian đó.
Ngày 30/7/1996, Hội đồng Bông và Liên minh các ngành sản xuất dệt may liên
minh Châu Âu( Eurocoton), một hiệp hội của các nhà sản xuất đồ may mặc và mặt
hàng tương tự của Châu Âu chiếm phần lớn tổng sản phẩm của ngành sản xuất
khăn trải giường loại cotton ở châu Âu, đã nộp đơn khởi kiện chống bán phá giá
đối với khăn lanh trải giường loại cotton nhập khẩu từ Ai Cập, Ấn Độ và
Pakistan .
10
10

Điều 5.4 của quy định của hội đồng (EC) số 384/96 ngày 22 tháng 12 năm 1995, về việc bảo hộ { nghành
sản xuất trong nước} trước việc nhập khẩu phá giá từ các nước không phải là thành viên của cộng đông châu Âu (“
16
Ngày 13/9/1996, Uỷ ban ra Thông báo trên Công báo về việc khởi xướng điều
tra chống bán phá giá đối với khăn lanh trải giường loại cotton nhập khẩu từ Ai
Cập, Ấn Độ và Pakistan. Tiếp sau đó các cơ quan chức năng của EC đã lần lượt
phê chuẩn đơn kiện. Giai đoạn điều tra được Ủy ban lựa chọn từ 1/7/1995 đến
30/61996. Sau khi giai đoạn điều tra được lưa chọn EC tiến hành điều tra theo
đúng thông lệ và quy định về chống bán phá giá của EC.
Ngày 13/6/1997, Uỷ ban công bố Quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (áp
thuế chống bán phá giá tạm thời) đối với sản phẩm khăn lanh trải giường cotton
nhập khẩu có xuất xứ từ Ai Cập, Ấn Độ và Pakistan.
11

Như thông lệ trong điều tra chống bán phá giá của Uỷ ban, các công ty được lựa
chọn làm mẫu điều tra và hợp tác đầy đủ trong cuộc điều tra được hưởng biên độ
phá giá riêng và mức thuế chống bán phá giá riêng. Các biên phá giá riêng được
tính cho Ấn Độ dao động từ 3,9% đến 27,3%, các biên phá giá của Ai Cập là từ
9,1% đến 13,5%, của Pakistan là 0,2% đến 8,2%.
Ngày 28/11/1997, Hội đồng châu Âu thông qua Nghị quyết áp thuế chống bán
phá giá chính thức đối với sản phẩm khăn lanh trải giường cotton nhập khẩu có
xuất xứ từ Ai Cập, Ấn Độ và Pakistan.
12
quy định về chống bán phá giá của EC) quy định rằng đơn kiện sẽ được coi là đã được nộp bởi nghành sản xuất
hoặc đại diện cho ngành sản xuất của cộng động nếu đơn kiện đó nhận được sự ủng hội của các nhà sản xuất của
cộng đồng với tổng sản phẩm chiến trên 50% tổng sản phẩm cùng loại của ngành sản xuất đó của cả cộng đồng thể
hiện rõ việc ủng hộ hay phản đối đơn kiện. Ngoài ra, sẽ không được tiến hành điều tra khi các nhà sản xuất của
cộng đồng ủng hộ đơn kiện chiếm đại diện cho dưới 25% tổng sản lượng sản suất của sản phẩm tương tự do
nghành công nghiệp của cộng đồng sản xuất ra.
11

Quy đinh về chống bán phá giả của Ủy ban (EC) số 1069/97 ngày 12 tháng 6 năm 1997 về việc áp thuế
chống bán phá giá tạm thời đối với các sản phẩm là khăn trải giường cotton có xuất xứ từ Ai Cập, Ấn Độ và
Pakistan; cống báo số L 156, ngày 13 tháng 6 năm 1997, trang 11.
12
Nghị quyết Hội đồng EC số 239/97 ngày 28 tháng 11 năm 1997, về việc áp thuế chống bán phá gia chính
thức đối với săn phẩm là khăn lanh trải giường cotton nhập khẩu từ Ai Cập, Ấn Độ và Pakistan; Công báo số L 332
ngày 4 tháng 12 năm 1997, trang 1. Cần lưu ý rằng theo các quy định về chống bán phá giá của EC thì việc áp dụng
các biện pháp tạm thời thuộc phạm vị thẩm quyền của Ủy ban và không cần phải thông qua thủ tục bỏ phiếu chính
17
Theo yêu cầu của một số nhà sản xuất-xuất khẩu (nêu trong bản bình luận của
họ đối với quyết định sơ bộ của Uỷ ban), Uỷ ban đã đồng ý thực hiện một số điều
chỉnh trong các tính toán về biên độ phá giá. Kết quả là một số biên độ phá giá đã
được điều chỉnh xuống thấp hơn so với mức thuế tạm thời. Cụ thể, biên độ phá giá
chính thức tính cho các nhà xuất khẩu hợp tác Ấn Độ là từ 2,6%-24,7%, 8,7-13,5%
đối với trường hợp của Ai Cập và 0,1% với Pakistan. Lưu ý là có tới 4 trong số 7
công ty Pakistan được lựa chọn có biên phá giá tối thiểu (dưới 2%), do đó việc
điều tra đối với 4 công ty này được chấm dứt và họ được hưởng mức thuế chống
bán phá giá là 0%.
13

Sau khi EC quyết định áp thuế chống bán phá giá chính thức Ấn Độ kiện ra
WTO theo cơ chế giải quyết tranh chấp của theo cơ chế giải quyết tranh chấp của
tổ chức này.
2. Diễn biến của vụ kiện
 Ngày 03/8/1998, Ấn Độ yêu cầu tham vấn với EC liên quan đến biện pháp
chống bán phá giá nói trên.
Tham vấn giữa Ấn Độ và EC không thành công.
 Ngày 07/09/1999, Ấn Độ đã khởi kiện việc này ra WTO bằng cách gửi đơn
yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm
thức của các quốc gia gia thành viên. Do vậy các biện pháp chống ban giá chính thức sẽ được hội đồng thông trừ

khi Hội đồng quyết định bỏ phiếu theo nguyên tắc đa số để phản đối khiến nghị của Ủy ban trong thời hạn một
tháng sau khi được đệ trình( điều 9.4). Hội đồng sẽ quyết định trên cơ sở bản sửa đổi của quy định về chống bán
phá giả của EC ngày 8 tháng 3 năm 2004.
13
Theo điều 9.3 của Quy định về chống bán phá giá của EC. Tuy nhiên, theo quy định này các nhà xuất
khẩu có biện độ bán phá giá tối thiểu de mininis vẫn là biên liên quan trong vụ kiện và có thể bị điều tra lại trong
bất kỳ thủ tục tố tụng nào được Ủy ban tiến hành sau đó.
18
 Ngày 22/09/1999, tại cuộc họp, DSB đã trì hoãn việc thành lập Ban Hội
thẩm
 Ngày 27/10/1999, DSB đã chấp nhận đơn yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm
lần 2 của Ấn Độ.
 Ai Cập, Nhật Bản và Hoa Kỳ yêu cầu tham gia vụ kiện với tư cách bên thứ
ba.
 Ngày 24/01/2000, Ban Hội thẩm cuối cùng đã được thành lập.
 Ngày 01/12/2000, EC đã gửi thông báo cho DSB về ý định kháng cáo một
số vấn đề pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của Ban Hội thẩm.
 Ngày 01/03/2001, Cơ quan Phúc thẩm hoàn thành Báo cáo .
 Ngày 12/03/2001, DSB đã thông qua Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và
Báo cáo đã chỉnh sửa của Ban Hội thẩm
 Ngày 05/04/2001, tại cuộc họp của DSB, EC đã thông báo ý định thực thi
các khuyến nghị của DSB nhưng cần phải có một khoảng thời gian hợp lý.
 Ngày 26/04/2001, các bên thông báo với DSB rằng họ đã đạt được thoả
thuận về khoảng thời gian hợp lý là 5 tháng và 2 ngày, tức là từ ngày 12/03/2001
đến ngày 14/08/2001.
 EC đã sửa đổi quy định áp thuế chống bán phá giá cuối cùng đối với khăn
trải giường cotton có xuất xứ từ Ai Cập, Ấn Độ và Pakistan và tạm ngừng việc áp
thuế đối với các mặt hàng này từ Ấn Độ trước thời hạn 14/08/2001.
 Ngày 23/08/2001 của DSB, Ấn Độ đã phát biểu quan điểm cho rằng Quy
định mới của EC chưa thực sự tuân thủ các khuyến nghị của DSB.

 Ngày 13/09/2001, Ấn Độ và EC thông báo với DSB về việc hai bên đã đạt
được thoả thuận về quy trình thủ tục theo Điều 21 và 22 của DSU.
19
 Ngày 08/03/2002, Ấn Độ yêu cầu tham vấn theo Điều 21.5 của DSU vì cho
rằng EC đã vi phạm các Điều 2, 3, 5.7, 6, 9, 12 và 15 của Hiệp định ADA.
 Ngày 04/4/2002, Ấn Độ yêu cầu thành lập Ban Hội Thẩm tuân thủ.
 Ngày 17/04/2002, tại cuộc họp của DSB, Ấn Độ thông báo với DSB rằng
hai bên đã đạt được thỏa thuận, do đó Ấn Độ yêu cầu rút vấn đề này ra khỏi
chương trình nghị sự theo Quy tắc 6 của các Quy tắc về Thủ tục cho các cuộc họp
của WTO. DSB đã chấp nhận yêu cầu của Ấn Độ.
 Ngày 07/05/2002, Ấn Độ lại yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm tuân thủ.
 ngày 22/05/2002 DSB đã đồng ý, nếu cần thiết, đưa vấn đề tranh chấp về
Ban Hội thẩm ban đầu để giải quyết.
 Nhật Bản và Hoa Kỳ tiếp tục giữ quyền tham gia vào vụ kiện với tư cách
bên thứ 3.
 Ngày 27/05/2002, Hàn Quốc cũng yêu cầu được tham gia vào vụ kiện với tư
cách bên thứ 3.
 Ngày 25/06/2002, Ban Hội thẩm tuân thủ được thành lập.
 . Ngày 19/08/2002, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB dự kiến hoàn
thành công việc vào tháng 11/2002.
 Ngày 29/11/2002, Báo cáo của Ban Hội thẩm hoàn thành và gửi tới tất cả
các thành viên WTO.
 Ngày 08/01/2003, Ấn Độ đã gửi thông báo cho DSB về ý định kháng cáo lên
Cơ quan Phúc thẩm một số vấn đề pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo
của Ban Hội thẩm.
 Ngày 06/03/2003, Cơ quan Phúc thẩm thông báo với DSB rằng không thể
hoàn thành báo cáo trong vòng 60 ngày và dự định sẽ hoàn thành trước ngày
08/04/2003.
20
 Ngày 08/4/2003, báo cáo phúc thẩm được gửi tới tất cả các thành viên

WTO.Cơ quan phúc thẩm khuyến nghị DSB yêu cầu EC điều chỉnh các biện pháp
phù hợp với hiệp định DHA.
 Ngày 24/ 04/2003, DSB thông qua Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Báo
cáo đã sửa đổi của Ban Hội thẩm.
3. Quan điểm của các bên liên quan
3.1 Quan điểm của EC
Sau khi điều tra các công ty của Ấn Độ dựa trên đơn khởi kiện của hiệp hội các
nhà sản xuất dệt may và hàng tương tự của châu Âu, EC đã thông qua Nghị quyết
áp thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm khăn lanh trải giường
cotton nhập khẩu có xuất xứ từ Ấn Độ. Theo đó, EC đã đưa ra một biên giá chính
thức tính cho các nhà xuất khẩu hợp tác Ấn Độ. Tuy nhiên sau khi DSB đưa ra các
khuyến nghị đối với EC, EC đã sửa đổi quy định áp thuế chống bán phá giá cuối
cùng đối với khăn lanh trải giường cotton của Ấn Độ và tạm ngừng việc áp thuế
đối với mặt hàng này từ Ấn Độ trước thời hạn 14/08/2001.
3.2 Quan điểm của Ấn Độ
Theo Ấn Độ, việc xác định vị thế của bên khởi kiện, việc khởi xướng điều tra,
xác định hành vi phá giá và thiệt hại cũng như cách giải thích trong những phán
quyết của cơ quan có thẩm quyền EC là không phù hợp với các quy định của
WTO; việc xác lập các tình tiết thực tế của cơ quan có thẩm quyền EC là không
phù hợp và việc đánh giá những tình tiết này cũng không khách quan và công bằng
và EC không tính đến trường hợp đối xử đặc biệt đối với Ấn Độ- một nước đang
phát triển. Trong quá trình kháng cáo phúc thẩm Ấn Độ vấn giữ nguyên lập trường
của mình và cho rằng các sửa đổi của EC vấn chưa phù hợp.
21
3.3 Các bên thứ ba.
Ai Cập: Ai Cập cho rằng các phán quyết của EC là không hợp lí và ủng hộ Ấn
Độ. Ai Cập cũng gửi ý kiến về các vấn đề nhất định mà nó coi là cơ bản cho việc
giải thích pháp lý của hiệp định chống bán phá giá. Đặc biệt Ai Cập đã đưa ra một
số nhận xét về những phát hiện của hội đồng liên quan của hiệp định chống bán
phá giá.

Nhật Bản: Nhật Bản lập luận rằng các phân tích của hội đồng liên quan là hợp lý
và phù hợp với các quy tắc giải quyết của công ước Vien. Nhật Bản cho rằng
những lí lẽ của EC là chưa thỏa đáng và những tranh cãi của cộng đồng châu Âu
rằng việc giải thích của các thành viên Ban hội thẩm sẽ gây bất lợi cho các thành
viên áp dụng thuế chống bán phá giá trên cơ sở tiềm năng là không thích hợp.
Hoa Kỳ: Trái với Nhật Bản, Hoa Kỳ ủng hộ những phân tích của EC và phản đổi
những luận điểm do Ban hội thẩm đưa ra. Theo quan điểm của Hoa Kỳ, Ban hội
thẩm đã không giải thích việc cung cấp trọng lượng trung bình ở Điều 2.4.2 của
Hiệp định Chống bán phá giá trong bối cảnh của nó và mục đích của Hiệp định
chống bán phá giá. Hiệp định Chống bán phá giá không yêu cầu các nước nhập
khẩu giảm biên độ bán phá giá theo định lượng mà giá xuất khẩu vượt quá giá trị
bình thường khác. Hoa Kỳ ủng hộ các phương pháp của Cộng đồng Châu Âu để
tính toán biên độ bán phá giá tổng thể. Hơn nữa, Hoa Kỳ lập luận rằng Ban hội
thẩm đã không yêu cầu phải xem xét một cách riêng biệt cho dù sự lựa chọn của
Cộng đồng Châu Âu của phương pháp quy định tại Điều 2.2.2 (ii) của Hiệp định
Chống bán phá giá được khách quan và công bằng, theo Điều 17,6 (i) của Hiệp
định Chống bán phá giá, so với các phương pháp thay thế quy định tại các Điều
2.2.2 (i) và 2.2.2 (iii). Hoa Kỳ đồng tình với những Ban hội thẩm và Cộng đồng
châu Âu rằng theo Điều 2.2.2 (ii) của Hiệp định Chống bán phá giá, chi phí bán
22
hàng có thể được loại trừ khỏi giá trị tính toán thông thường. Do đó sự cho phép,
mặc dù không bắt buộc, để loại trừ doanh số bán hàng bên ngoài thông thường
trong thương mại từ các tính toán được thực hiện theo Điều 2.2.2 (ii).
4. Quá trình giải quyết tranh chấp
 Thành lập Ban Hội thẩm
Tham vấn giữa Ấn Độ và EC không thành công. Vì vậy, ngày 07/09/1999, Ấn
Độ đã khởi kiện việc này ra WTO bằng cách gửi đơn yêu cầu thành lập Ban Hội
thẩm. Tại cuộc họp ngày 22/09/1999, DSB đã trì hoãn việc thành lập Ban Hội
thẩm. Tuy nhiên, tại cuộc họp ngày 27/10/1999, DSB đã chấp nhận đơn yêu cầu
thành lập Ban Hội thẩm lần 2 của Ấn Độ.

Ai Cập, Nhật Bản và Hoa Kỳ yêu cầu tham gia vụ kiện với tư cách bên thứ ba.
Ngày 12/01/2000, do hai bên không thống nhất được về thành phần của Ban Hội
thẩm, Ấn Độ đã phải yêu cầu Tổng Giám đốc WTO chỉ định các thành viên cho
Ban Hội thẩm. Ngày 24/01/2000, Ban Hội thẩm cuối cùng đã được thành lập.
 Thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm
Ban Hội thẩm tiến hành xem xét vụ kiện và công khai Báo cáo của mình về
vụ kiện này ngày 30/10/2000. Trong Báo cáo này, Ban Hội thẩm kết luận:
• EC đã không vi phạm các nghĩa vụ của mình theo các Điều 2.2, 2.2.2, 3.1,
3.4, 3.5, 5.3, 5.4, và 12.2.2 của Hiệp định ADA trong việc:
 Tính toán lợi nhuận khi xây dựng giá trị thông thường;
 Coi tất cả các hàng nhập khẩu từ Ấn Độ (và Ai Cập và Pakistan) là bị bán
phá giá trong phân tích thiệt hại gây ra bởi hàng nhập khẩu bán phá giá;
23
 Xem xét thông tin của các nhà sản xuất hình thành nên ngành sản xuất nội
địa nhưng lại không thuộc danh sách các nhà sản xuất được chọn mẫu để phân tích
tình trạng của ngành sản xuất đó;
 Kiểm tra tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng trước khi khởi xướng
vụ kiện;
 Thiết lập những hỗ trợ cần thiết cho ngành sản xuất trong nước trong việc
nộp đơn kiện; và
 Công bố công khai quyết định cuối cùng của EC.
• Tuy nhiên, Ban Hội thẩm cũng kết luận rằng EC đã vi phạm những nghĩa vụ
của mình theo các Điều 2.4.2, 3.4, và 15 của Hiệp định ADA trong việc:
 Xác định biên độ phá giá dựa trên một phương pháp kết hợp với phương
pháp Zeroing (Quy về 0 các biên độ phá giá âm)
 Không đánh giá tất cả những nhân tố liên quan có ảnh hưởng đến tình trạng
của ngành sản xuất nội địa trong việc xác định thiệt hại (các nhân tố khác ngoài
nhân tố hàng nhập khẩu bán phá giá), đặc biệt là tất cả các nhân tố đã nêu trong
Điều 3.4 của Hiệp định ADA;
 Xem xét cả thông tin của các nhà sản xuất không thuộc ngành sản xuất nội

địa như định nghĩa của cơ quan điều tra trong phân tích tình trạng ngành sản xuất;

 Không xem xét khả năng khắc phục thương mại trước khi áp dụng thuế
chống phá giá.
 Kháng cáo Phúc thẩm
24
Ngày 01/12/2000, EC đã gửi thông báo cho DSB về ý định kháng cáo một số
vấn đề pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của Ban Hội thẩm.
Ngày 01/03/2001, Cơ quan Phúc thẩm hoàn thành Báo cáo trong đó:
 Tán thành kết luận của Ban Hội thẩm về việc EC áp dụng phương pháp
Zeroing để xác định “sự tồn tại của biên độ phá giá” là vi phạm Điều 2.4.2 của
Hiệp định ADA;
 Bác bỏ kết luận của Ban Hội thẩm về: Phương pháp tính toán chi phí quản
trị, chi phí bán hàng, chi phí chung và lợi nhuận theo Điều 2.2.2 (ii) Hiệp định
ADA có thể được áp dụng cả khi chỉ có số liệu về chi phí quản trị, chi phí bán
hàng, chi phí chung và lợi nhuận của một nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất khác và
Khi tính toán lợi nhuận theo Điều 2.2.2 (ii) Hiệp định ADA có thể loại bỏ những
giao dịch bán hàng không theo các điều kiện thương mại thông thường của các nhà
xuất khẩu hoặc sản xuất khác.
 Cuối cùng, kết luận rằng EC, khi tính toán chi phí quản trị, chi phí bán hàng,
chi phí chung và lợi nhuận trong cuộc điều tra chống bán phá giá mặt hàng này, đã
vi phạm Điều 2.2.2(ii) Hiệp định ADA.
Ngày 12/03/2001, DSB đã thông qua Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Báo
cáo đã chỉnhsửa của Ban Hội thẩm.
Tình hình thực thi quyết định giải quyết tranh chấp của DSB.Thành lập Ban hội
thẩm tuân thủ theo Điều 21.5
Ngày 05/04/2001, tại cuộc họp của DSB, EC đã thông báo ý định thực thi các
khuyến nghị của DSB nhưng cần phải có một khoảng thời gian hợp lý. Tuy nhiên
Ấn Độ lại cho rằng EC chỉ cần một thời gian ngắn để thực hiện việc này. Ngày
26/04/2001, các bên thông báo với DSB rằng họ đã đạt được thoả thuận về khoảng

25

×