Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

CHƯƠNG XIV - NHỮNG NGUYÊN NHÂN NGĂN TRỞ TÁC DỤNG CỦA QUY LUẬT ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.78 KB, 7 trang )

364 phần thứ ba. - quy luật tỷ suất lợi nhuận Chơng XIV. - những nguyên nhân 365
chơng XIV
những nguyên nhân ngăn trở
tác dụng của quy luật
Nếu ta chú ý đến sự phát triển hết sức to lớn của năng
suất lao động x hội, dù chỉ là trong 30 năm lại đây thôi so ã với
các thời kỳ trớc, đặc biệt nếu ta chú ý đến cái khối lợng to
lớn của t bản cố định - không kể bản thân máy móc - đ giaã
nhập vào toàn bộ quá trình sản xuất x hội, thì điều khóã
khăn từ trớc tới nay vẫn làm cho các nhà kinh tế học băn
khoăn - cụ thể là làm thế nào để giải thích hiện tợng tỷ suất
lợi nhuận hạ thấp, - đ nhã ờng chỗ cho vấn đề ngợc lại; cụ thể
là làm thế nào để giải thích đợc rằng tại sao sự hạ thấp ấy
lại không nhiều hơn nữa hoặc không nhanh hơn nữa? Nhất
định là đ phải có những ảnh hã ởng ngợc lại ngăn trở hay thủ
tiêu tác dụng của quy luật chung và làm cho nó chỉ mang tính
chất một xu hớng mà thôi. Vì vậy, chúng tôi đ gọi sự hạ thấpã
của tỷ suất lợi nhuận chung là xu hớng hạ thấp. Trong những
nguyên nhân ấy, thì phổ biến nhất là những nguyên nhân
sau đây:
I. Tăng mức độ bóc lột lao động
Mức độ bóc lột lao động, sự chiếm đoạt lao động thặng d
và giá trị thặng d, tăng lên đặc biệt là bằng cách kéo dài
ngày lao động và tăng cờng độ lao động. Hai điểm này đ đã ợc
trình bày tỉ mỉ trong quyển I của bộ "T bản" khi nghiên cứu
về sản xuất giá trị thặng d tuyệt đối và tơng đối. Có nhiều
yếu tố làm tăng cờng độ lao động, - những yếu tố này giả
định là t bản bất biến phải tăng lên so với t bản
khả biến, do đó tỷ suất lợi nhuận giảm xuống; ví dụ nh khi
một ngời thợ phải điều khiển một số máy móc nhiều hơn.
Cũng nh đối với phần lớn những phơng pháp dùng để sáng


tạo ra giá trị thặng d tơng đối, chính những nguyên nhân làm
cho tỷ suất giá trị thặng d tăng lên cũng là những nguyên
nhân có thể làm giảm khối lợng giá trị thặng d mà một lợng
nhất định của tổng t bản đầu t thu đợc. Nhng lại có những
yếu tố khác để tăng thêm cờng độ lao động, chẳng hạn nh
tăng thêm tốc độ của máy móc: vẫn trong một thời gian nh
thế, cố nhiên những máy móc này sẽ chế biến nhiều nguyên
liệu hơn, nhng đứng về phần t bản cố định mà nói thì dù thiết
bị máy móc có hao mòn nhanh hơn, tỷ số giữa giá trị của
chúng và giá cả của lao động vận dụng chúng vẫn tuyệt nhiên
không hề bị ảnh hởng. Nhng đặc biệt là việc kéo dài ngày lao
động - sự phát minh đó của nền công nghiệp hiện đại - đ làmã
tăng thêm khối lợng lao động thặng d bị chiếm đoạt; không
thay đổi một cách căn bản cái tỷ số giữa sức lao động đợc sử
dụng và t bản bất biến mà sức lao động ấy vận dụng, việc kéo
dài ngày lao động thực ra lại làm cho t bản bất biến này giảm
xuống một cách tơng đối. Hơn nữa, chúng tôi cũng đ chứngã
minh rằng - và chính đấy mới là điều bí mật của xu hớng hạ
thấp tỷ suất lợi nhuận - những phơng pháp dùng để sáng tạo
ra giá trị thặng d tơng đối tóm lại là nhằm đi đến kết quả sau
đây: một mặt, với một số lợng lao động nhất định, cố sức biến
một phần thật lớn thành giá trị thặng d, mặt khác, tìm mọi
cách sử dụng ít lao động nhất so với số t bản ứng ra, thành
thử chính những nguyên nhân làm cho mức độ bóc lột lao
động tăng lên cũng là những nguyên nhân ngăn cản không
cho phép một t bản có một lợng nh cũ lại bóc lột lao động
nhiều nh trớc. Đó là những xu hớng trái ngợc nhau, chúng
vừa có tác dụng làm cho tỷ suất giá trị thặng d tăng lên, đồng
thời lại vừa có tác dụng làm cho khối lợng giá trị thặng d do
một t bản nhất định sản sinh ra giảm xuống, và do đó làm

364 phần thứ ba. - quy luật tỷ suất lợi nhuận Chơng XIV. - những nguyên nhân 365
cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. ở đây cũng cần phải nêu
ra việc sử dụng rất nhiều lao động của phụ nữ và nhi đồng, vì
nh thế toàn thể gia đình đều bị bắt buộc phải cung cấp cho t
bản một số lợng lao động thặng d lớn hơn trớc, ngay cả khi
tổng số tiền công của gia đình ấy kiếm đợc có tăng thêm, tuy
rằng đó không phải là thông lệ. Tất cả những cái gì đẩy mạnh
việc sản xuất ra giá trị thặng d tơng đối bằng cách chỉ đơn
thuần cải tiến phơng pháp mà không tăng thêm t bản sử
dụng, ví dụ nh trong nông nghiệp, thì cũng đều có cùng một
tác dụng nh vậy. Cố nhiên là ở đây t bản bất biến đợc sử dụng
không tăng lên so với t bản khả biến, vì chúng ta coi t bản
khả biến này là chỉ số sức lao động đợc sử dụng; nhng khối l-
ợng sản phẩm lại tăng lên so với sức lao động đợc sử dụng.
Hiện tợng đó cũng sẽ xảy ra, khi sức sản xuất của lao động
(dù sản phẩm của lao động gia nhập vào tiêu dùng của công
nhân hay gia nhập vào những yếu tố của t bản bất biến, thì
cũng vậy) thoát khỏi những trở ngại về giao thông, những sự
hạn chế có tính chất độc đoán hay do lâu ngày mà trở thành
những trở ngại, nói chung là giải thoát khỏi mọi thứ xiềng
xích, nhng điều đó lúc đầu không ảnh hởng gì đến tỷ số giữa
t bản khả biến và t bản bất biến.
Khi các nhà t bản áp dụng những phát minh, v.v. còn cha
đợc dùng một cách phổ cập, thì họ tạm thời nâng giá trị thặng
d lên cao hơn mức chung của nó, nh vậy có thể nảy ra câu hỏi:
việc giá trị thặng d tăng lên cao hơn mức chung đó, tuy là tăng
lên tạm thời nhng cứ luôn luôn lặp đi lặp lại m i, khi thì ởã
trong một ngành sản xuất này, khi thì ở trong một ngành
khác, - việc đó có nằm trong những nguyên nhân kìm h m sựã
hạ thấp tỷ suất lợi nhuận nhng rốt cuộc lại đẩy nhanh sự hạ

thấp đó, hay không? Về câu hỏi này, ngời ta có thể trả lời
khẳng định là có.
Khối lợng giá trị thặng d mà một t bản có một lợng nhất
định tạo ra là tích số của hai thừa số, tức là của tỷ suất giá
trị thặng d nhân với số công nhân đ đã ợc thuê mớn theo tỷ
suất ấy. Vậy, với một tỷ suất giá trị thặng d nhất định thì
khối lợng giá trị thặng d là do số lợng công nhân quyết định,
còn với một số công nhân nhất định thì khối lợng đó là do tỷ
suất giá trị thặng d quyết định, nói chung, là do tỷ lệ giữa l-
ợng tuyệt đối của t bản khả biến và tỷ suất giá trị thặng d
quyết định. Nhng chúng ta đ chỉ ra rằng ã tính trung bình thì
chính những nguyên nhân làm cho tỷ suất giá trị thặng d tơng
đối tăng lên, cũng lại là những nguyên nhân làm cho số lợng
sức lao động đợc sử dụng giảm xuống. Nhng rõ ràng sự tăng
hay giảm ở đây phụ thuộc vào cái quan hệ nhất định giữa
những vận động trái ngợc nhau đó, và xu hớng hạ thấp tỷ
suất lợi nhuận lại bị yếu đi, đặc biệt là do việc tăng tỷ suất
giá trị thặng d tuyệt đối nhờ kéo dài ngày lao động.
Khi nghiên cứu tỷ suất lợi nhuận, chúng ta đ thấy rằng,ã
nói chung, hễ tỷ suất lợi nhuận hạ xuống, thì do số lợng của
tổng t bản đợc sử dụng tăng lên, nên khối lợng lợi nhuận lại
tăng lên. Xét toàn bộ t bản khả biến của x hội thì ta thấy rằngã
giá trị thặng d do nó sản sinh ra bằng lợi nhuận đ đã ợc sản
sinh ra. Cùng với khối lợng tuyệt đối của giá trị thặng d, thì tỷ
suất giá trị thặng d cũng tăng lên; khối lợng tuyệt đối của giá
trị thặng d tăng lên vì khối lợng sức lao động đợc x hội sửã
dụng đ tăng lên; tỷ suất giá trị thặng dã tăng lên vì mức độ bóc
lột lao động đó đ tăng lên. Nhã ng đối với một t bản có một lợng
nhất định, ví dụ 100 chẳng hạn, ta thấy rằng tỷ suất giá trị
thặng d có thể tăng lên trong khi tính trung bình thì khối lợng

giá trị thặng d lại hạ xuống, vì tỷ suất giá trị thặng d là do tỷ
lệ tăng thêm giá trị của bộ phận t bản khả biến quyết định,
còn khối lợng giá trị thặng d thì trái lại, là do lợng tơng đối của
t bản khả biến so với tổng t bản quyết định.
Tỷ suất giá trị thặng d tăng lên - nó tăng lên đặc biệt trong
những trờng hợp nh chúng ta đ nói ở trên, trong đó tã bản bất
364 phần thứ ba. - quy luật tỷ suất lợi nhuận Chơng XIV. - những nguyên nhân 365
biến đ không tăng lên một tí nào, hay tăng lên ã không cùng
một tỷ lệ với t bản khả biến - là một trong những nhân tố
quyết định khối lợng giá trị thặng d và do đó quyết định tỷ
suất lợi nhuận. Nhân tố đó không thủ tiêu quy luật chung.
Nhng nó làm cho quy luật ấy lại trở thành một xu hớng, nghĩa
là một quy luật bị những nguyên nhân tác động ngợc lại làm
cho việc thực hiện quy luật đó bị kìm h m lại, chậm trễ và yếuã
đi. Nhng vì chính những nguyên nhân làm cho tỷ suất giá trị
thặng d cao lên (bản thân việc kéo dài thời gian lao động cũng
là một kết quả của đại công nghiệp) cũng có xu hớng giảm bớt
số sức lao động mà một t bản nhất định sử dụng, nên những
nguyên nhân ấy vừa có xu hớng hạ thấp tỷ suất lợi nhuận,
vừa có xu hớng h m bớt sự vận động hạ thấp ấy. Nếu ngã ời ta
bắt buộc một công nhân phải làm công việc của hai ngời, - và
nếu làm việc một cách hợp lý thì hai ngời đó có thể thay thế
cho ba ngời, - thì một công nhân ấy giờ đây sẽ cung cấp đợc
một số lao động thặng d bằng hai ngời trớc kia và nh vậy tỷ
suất giá trị thặng d sẽ tăng lên. Nhng anh ta sẽ không cung
cấp đợc một số lao động thặng d bằng ba ngời trớc kia, và nh
vậy là khối lợng giá trị thặng d sẽ giảm xuống. Nhng sự giảm
xuống đó đợc bù trừ lại hay bị hạn chế vì tỷ suất giá trị thặng
d tăng lên. Nếu toàn thể dân số sẽ lao động theo tỷ suất giá
trị thặng d mới đó, thì khối lợng giá trị thặng d sẽ tăng lên

mặc dù dân số vẫn nh cũ. Nếu dân số tăng lên, thì khối lợng
giá trị thặng d lại càng tăng hơn nữa; và tuy sự kiện ấy gắn
liền với việc giảm một cách tơng đối con số công nhân có công
ăn việc làm so với đại lợng của tổng t bản, nhng sự giảm bớt
ấy sẽ dịu đi hay ngừng lại do tỷ suất giá trị thặng d tăng lên.
Trớc khi kết thúc điểm này, cần phải nhấn mạnh một lần
nữa rằng, với một lợng t bản nhất định, tỷ suất giá trị thặng d
có thể tăng lên, mặc dù khối lợng giá trị thặng d giảm xuống
và ngợc lại. Khối lợng giá trị thặng d bằng tỷ suất giá trị
thặng d nhân với số công nhân; nhng tỷ suất đó không bao giờ
đợc tính trên tổng t bản mà chỉ tính trên t bản khả biến thôi,
trong thực tế thì đợc tính theo ngày lao động. Trái lại, với một
lợng giá trị - t bản nhất định, tỷ suất lợi nhuận không khi nào
có thể tăng hay giảm nếu khối lợng giá trị thặng d không
tăng hay giảm.
II. Hạ thấp tiền công xuống dới giá trị
của sức lao động
Chúng tôi chỉ căn cứ theo kinh nghiệm mà nêu sự việc này
ra ở đây thôi, vì trên thực tế - cũng nh rất nhiều điểm khác có
thể nêu ra ở đây - sự việc này không liên quan gì tới sự phân
tích chung về t bản cả; nó thuộc về phần nghiên cứu cạnh
tranh là phần chúng tôi không bàn đến trong tác phẩm này.
Tuy vậy, nó cũng là một trong những nguyên nhân hết sức quan
trọng ngăn cản xu hớng tỷ suất lợi nhuận hạ thấp xuống.
III. Những yếu tố của t bản bất biến
trở nên rẻ hơn
Có thể đa vào đây tất cả những điều đ nói ở trong phần thứã
nhất của quyển này về những nguyên nhân làm cho tỷ suất lợi
nhuận tăng lên trong khi tỷ suất giá trị thặng d không thay
đổi, hay tăng lên độc lập với tỷ suất giá trị thặng d, do đó cả

trờng hợp - nếu xét về mặt tổng t bản - giá trị của t bản bất
biến không tăng lên theo cùng một tỷ lệ với khối lợng vật chất
của nó. Ví dụ nh số lợng bông mà một ngời thợ kéo sợi châu Âu
chế biến trong một công xởng hiện đại tăng lên theo một tỷ lệ
vô cùng to lớn so với số bông mà xa kia một ngời kéo sợi châu
Âu chế biến đợc với cái xa kéo sợi của anh ta. Nhng giá trị của
bông đợc chế biến không tăng lên theo cùng tỷ lệ với khối lợng
của nó. Đối với máy móc và t bản cố định khác thì cũng vậy.
Tóm lại, chính sự phát triển đ làm cho khối lã ợng t bản bất
364 phần thứ ba. - quy luật tỷ suất lợi nhuận Chơng XIV. - những nguyên nhân 365
biến tăng lên so với t bản khả biến, đồng thời cũng làm cho giá
trị của các yếu tố của t bản bất biến đó hạ xuống vì năng suất
lao động tăng lên, và do đó khiến cho giá trị của t bản bất biến
tuy vẫn không ngừng tăng lên nhng không tăng lên theo cùng
tỷ lệ với khối lợng vật chất của nó, tức là với khối lợng vật chất
của các t liệu sản xuất do một số lợng sức lao động nh cũ vận
dụng. Trong một trờng hợp cá biệt nào đó, khối lợng các yếu tố
của t bản bất biến cũng có thể tăng lên, trong khi giá trị của
nó vẫn không thay đổi hay thậm chí còn hạ xuống nữa.
Việc t bản hiện có (tức là các yếu tố vật chất của t bản đó)
bị giảm giá trị do sự phát triển công nghiệp, là có liên quan với
điều nói ở trên. Việc đó cũng là một trong những nguyên
nhân thờng xuyên ngăn cản sự hạ thấp tỷ suất lợi nhuận, tuy
rằng trong một số trờng hợp nó có thể làm giảm khối lợng lợi
nhuận nếu nó làm giảm khối lợng của t bản sản xuất ra lợi
nhuận. ở đây, ngời ta lại thấy rằng những nguyên nhân đẻ ra
xu hớng hạ thấp tỷ suất lợi nhuận cũng là những nguyên
nhân làm chậm sự thực hiện xu hớng ấy.
IV. Nhân khẩu thừa tơng đối
Việc tạo ra nhân khẩu thừa không tách rời sự phát triển

của năng suất lao động và đợc sự phát triển này, thể hiện ra ở
sự giảm sút tỷ suất lợi nhuận, đẩy nhanh lên. Trong một nớc
mà phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa càng phát triển thì
nhân khẩu thừa tơng đối lại càng bộc lộ rõ rệt. Ngợc lại,
chính nhân khẩu thừa tơng đối này lại là nguyên nhân làm
cho, một mặt, trong nhiều ngành sản xuất vẫn tiếp tục tồn tại
cái tình trạng lao động bị lệ thuộc vào t bản với một mức độ ít
nhiều không hoàn toàn, hơn nữa lại tiếp tục tồn tại trong một
thời gian dài đến nỗi là khi mới thoạt nhìn, ngời ta thấy tình
trạng đó hình nh là không phù hợp với mức phát triển chung;
đó là hậu quả của tình trạng rẻ mạt và khối lợng to lớn của số
công nhân làm thuê ở rỗi hay bị sa thải, cũng nh của tình
trạng có nhiều khu vực sản xuất, do tính chất của chúng, nên
chuyển từ lao động chân tay sang lao động bằng máy móc một
cách khó khăn hơn. Mặt khác, có những ngành sản xuất mới
ra đời, đặc biệt là những ngành sản xuất hàng xa xỉ, mà cơ sở
chính là số nhân khẩu thừa tơng đối đó, số nhân khẩu thừa
này thờng đợc hình thành trong những ngành khác vì ở đấy t
bản bất biến chiếm u thế; đến lợt chúng, những ngành sản
xuất hàng xa xỉ đó lại dựa vào tình trạng các yếu tố lao động
sống chiếm u thế và chỉ dần dần về sau chúng mới đi theo
cùng một con đờng phát triển nh những ngành sản xuất khác.
Trong cả hai trờng hợp, t bản khả biến đều chiếm một tỷ lệ
rất lớn trong tổng t bản và tiền công thì thấp hơn mức trung
bình, thành thử tỷ suất giá trị thặng d và khối lợng giá trị
thặng d trong những ngành sản xuất này hết sức lớn. Nhng vì
tỷ suất lợi nhuận chung đợc hình thành bằng cách san bằng
các tỷ suất lợi nhuận giữa những ngành sản xuất cá biệt, nên
chúng ta lại thấy rằng chính cái nguyên nhân đẻ ra xu hớng
hạ thấp tỷ suất lợi nhuận cũng là nguyên nhân gây ra một

lực lợng ngợc lại làm tê liệt ít nhiều tác dụng của xu hớng ấy.
V. Ngoại thơng
Chừng nào mà ngoại thơng làm cho những yếu tố của t bản
bất biến, hoặc những t liệu sinh hoạt cần thiết mà t bản khả
biến chuyển hóa thành, trở nên rẻ đi, thì ngoại thơng có tác
dụng làm cho tỷ suất lợi nhuận tăng lên vì nó nâng cao tỷ
suất giá trị thặng d và hạ thấp giá trị của t bản bất biến. Nói
chung, tác dụng của ngoại thơng là theo hớng đó, vì nó làm
cho quy mô sản xuất mở rộng thêm ra. Làm nh vậy, một mặt
nó thúc đẩy tích lũy tăng nhanh, nhng mặt khác, nó cũng
thúc đẩy t bản khả biến giảm đi so với t bản bất biến và do đó
đẩy nhanh việc tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Sự bành trớng
364 phần thứ ba. - quy luật tỷ suất lợi nhuận Chơng XIV. - những nguyên nhân 365
của ngoại thơng cũng vậy, mặc dầu trong thời kỳ ấu trĩ của
phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa, nó làm cơ sở cho phơng
thức đó, nhng với sự phát triển của phơng thức sản xuất t
bản chủ nghĩa, do tính tất yếu nội tại của phơng thức ấy là
phải có một thị trờng ngày càng rộng lớn hơn, nên sự bành tr-
ớng của ngoại thơng đ trở thành một kết quả của phã ơng thức
ấy. ở đây một lần nữa, ngời ta lại thấy ảnh hởng hai mặt đó.
(Ri-các-đô đ không hề thấy mặt này của ngoại thã ơng
77
).
Một vấn đề khác, - do tính chất đặc thù của nó, - thật ra
nó đ vã ợt ra ngoài phạm vi nghiên cứu của chúng ta, là vấn đề
sau đây: có phải tỷ suất lợi nhuận chung tăng lên là vì t bản
đầu t vào ngoại thơng, và nhất là vào thơng mại thuộc địa,
đem lại một tỷ suất lợi nhuận cao hơn không?
Những t bản đầu t vào ngoại thơng có khả năng đem lại một
tỷ suất lợi nhuận cao hơn, vì trớc hết ở đây ngời ta cạnh tranh

với những hàng hóa đợc sản xuất ra trong những nớc có điều
kiện sản xuất ít thuận lợi hơn, thành thử nớc tiên tiến hơn sẽ
bán đợc hàng của mình cao hơn giá trị của chúng, mặc dù nớc
ấy bán rẻ hơn các nớc cạnh tranh với họ. Tỷ suất lợi nhuận
tăng lên vì lao động ở nớc tiên tiến hơn đợc đánh giá nh là lao
động có tỷ trọng cao hơn, vì lao động đó, không đợc trả công
với t cách là một lao động có chất lợng cao hơn, lại đợc bán ra
với t cách là một lao động nh thế. Đối với nớc mà ngời ta chở
hàng hóa đến bán cũng nh đối với nớc ngời ta rút hàng hóa ra,
đều có mối quan hệ nh vậy; đặc biệt, có thể là một nớc nh thế
bỏ ra nhiều lao động đ vật hóa in naturaã
1*
hơn số nó nhân đ-
ợc, nhng dù sao nó cũng vẫn nhận đợc hàng hóa rẻ hơn là tự
nó có thể sản xuất ra. Cũng giống hệt nh một chủ xởng, vì sử
dụng một phát minh mới trớc khi phát minh này đợc áp dụng
phổ biến, nên bán rẻ hơn những kẻ cạnh tranh với mình, nh-
ng vẫn bán trên giá trị cá biệt của hàng hóa của hắn, nghĩa là
1
* - dới hình thái hiện vật
hắn ta chuyển cái sức sản xuất tơng đối cao hơn của lao động
mà hắn ta thuê mớn thành lao động thặng d. Nh vậy là hắn
thực hiện đợc một lợi nhuận siêu ngạch. Mặt khác, đối với
những t bản đầu t ở các thuộc địa, v.v., thì chúng có thể đem
lại đợc những tỷ suất lợi nhuận cao hơn, vì do tình trạng phát
triển thấp, nên nói chung ở đấy tỷ suất lợi nhuận cao hơn, và
nhờ chỗ sử dụng nô lệ, cu-li, v.v., nên sự bóc lột lao động cũng
cao hơn. Nhng ngời ta hoàn toàn không hiểu tại sao những tỷ
suất lợi nhuận tơng đối cao ấy mà những t bản đầu t trong
một số ngành đ thu đã ợc và chuyển về nớc mình, lại không

tham dự vào việc san bằng tỷ suất lợi nhuận chung khi trên
con đờng đi của chúng không có các độc quyền gây trở ngại, và
tại sao chúng lại không làm cho tỷ suất lợi nhuận chung tăng
lên protanto
2*

36)
. Ngời ta không hiểu tại sao lại không nh
vậy, nhất là khi những khu vực đầu t
36) ở đây A. Xmít đ có lý chứ không phải là Ri-các-đô, vì Ri-các-đôã
nói: "Nhiều ngời cho rằng chính sự tăng lên chung của các lợi nhuận làm
cho chúng trở thành bằng nhau, còn tôi thì tôi cho rằng những lợi nhuận
của ngành công nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn sẽ nhanh chóng sụt
xuống đến mức chung" ([D. Ricardo, "Principles of Political Economy"].
Works, ed. by MacCulloch, [London, 1852], p.73).
ấy bị các quy luật tự do cạnh tranh chi phối. Nhng trái lại,
Ri-các-đô lại nhận thức vấn đề nh sau: với số tiền nhận đợc ở
nớc ngoài nhờ giá bán cao hơn, ngời ta mua hàng hóa ở đấy
chở về chính quốc để bù lại. Nh vậy, những hàng hóa đó đợc
đem bán ở thị trờng trong nớc và vì thế, tình hình này nhiều
lắm cũng chỉ có thể đem lại một mối lợi đặc biệt tạm thời cho
những lĩnh vực sản xuất thuận lợi nhất đó mà thôi. Ta chỉ
cần gạt bỏ cái hình thái tiền của sự trao đổi, là ảo tởng đó sẽ
tiêu tan ngay. Trong sự trao đổi, nớc có điều kiện thuận lợi sẽ
2
* - theo tỷ lệ tơng ứng
364 phần thứ ba. - quy luật tỷ suất lợi nhuận Chơng XIV. - những nguyên nhân 365
thu về đợc nhiều lao động hơn là số mà nó đ bỏ ra, tuy rằng,ã
cũng nh trong sự trao đổi giữa t bản và lao động nói chung, số
chênh lệch ấy, số thặng d ấy, bị một giai cấp riêng biệt chiếm

bỏ túi. Cho nên, tuy rằng tỷ suất lợi nhuận cao hơn, - vì ở một
nớc thuộc địa thì nói chung tỷ suất lợi nhuận cao hơn, - nhng
sự kiện ấy vẫn có thể đi đôi với tình trạng giá cả hàng hóa
thấp, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi. Nh vậy là có một sự
san bằng, nhng không phải san bằng theo mức cũ nh Ri-các-
đô đ nghĩ.ã
Nhng chính nền ngoại thơng này đ thúc đẩy phã ơng thức
sản xuất t bản chủ nghĩa phát triển ở chính quốc và do đó
làm cho t bản khả biến giảm đi so với t bản bất biến; mặt
khác, đối với nớc ngoài thì nó gây ra tình trạng sản xuất thừa,
và do đó về sau lại gây ra một tác dụng ngợc lại.
Và vì vậy chúng ta thấy rằng, nói chung, chính những nguyên
nhân làm cho tỷ suất lợi nhuận chung giảm xuống cũng là
những nguyên nhân gây ra những tác dụng ngợc lại kìm
h m, làm chậm và làm tê liệt một phần nào sự giảm xuống ấy.ã
Những tác dụng ấy không thủ tiêu quy luật, nhng làm giảm
bớt tác dụng của quy luật. Nếu không thì điều không thể hiểu
đợc sẽ không phải là tại sao tỷ suất lợi nhuận chung giảm
xuống, mà ngợc lại là: tại sao nó giảm xuống tơng đối chậm.
Nh vậy là quy luật chỉ tác động nh một xu hớng, mà ảnh hởng
chỉ hiện ra một cách rõ rệt trong những tình hình nhất định và
trong những khoảng thời gian dài mà thôi.
Trớc khi tiếp tục, để tránh mọi sự hiểu lầm, chúng tôi muốn
nhắc lại hai điểm đ đã ợc nói rõ nhiều lần ở trên:
Một là trong sự phát triển của phơng thức sản xuất t bản
chủ nghĩa, chính cái quá trình làm cho hàng hóa ngày càng rẻ
đi cũng là quá trình gây ra một sự thay đổi trong cấu tạo hữu
cơ của t bản x hội dùng để sản xuất ra các hàng hóa ấy, và doã
đó làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Cho nên, không nên
lẫn lộn sự giảm bớt chi phí sản xuất tơng đối của một hàng hóa

cá biệt, cũng nh của bộ phận các chi phí về hao mòn máy móc,
với sự tăng lên của giá trị t bản bất biến so với t bản khả biến,
mặc dù ngợc lại, mọi sự giảm bớt chi phí tơng đối của t bản bất
biến, khi khối lợng các yếu tố vật chất của t bản bất biến vẫn
nh cũ hay thậm chí tăng lên, đều ảnh hởng đến việc nâng cao
tỷ suất lợi nhuận, nghĩa là làm cho giá trị của t bản bất biến
giảm xuống pro tanto so với t bản khả biến đợc sử dụng ngày
một ít dần đi.
Hai là, trong những hàng hóa cá biệt mà toàn bộ hợp thành
sản phẩm của t bản, lao động sống mới nhập thêm chứa đựng
trong những hàng hóa đó chiếm một tỷ lệ ngày càng thấp so
với những nguyên liệu chứa đựng trong những hàng hóa đó và
những t liệu lao động đ tiêu dùng để sản xuất ra những hàngã
hóa ấy; nh vậy, lợng lao động sống mới nhập thêm đợc vật hóa
trong hàng hóa cứ ngày càng giảm bớt đi, vì năng suất lao
động x hội càng phát triển thì ngã ời ta càng cần ít lao động hơn
để sản xuất ra những hàng hóa ấy; điều đó không ảnh hởng gì
đến cái tỷ lệ theo đó lao động sống chứa đựng trong hàng hóa
chia thành lao động đợc trả công và lao động không đợc trả
công. Hoàn toàn trái lại. Mặc dù tổng số lợng lao động sống mới
nhập thêm trong hàng hóa giảm bớt đi, nhng bộ phận lao động
không đợc trả công tăng lên so với bộ phận lao động đợc trả
công, do bộ phận đợc trả công đ giảm đi một cách tuyệt đối hayã
tơng đối; vì chính cái phơng pháp sản xuất làm cho tổng khối l-
ợng lao động sống mới nhập vào trong một đơn vị hàng hóa giảm
bớt đi, đồng thời cũng đi đôi với việc giá trị thặng d tuyệt đối và
tơng đối tăng lên. Xu hớng tỷ suất lợi nhuận hạ xuống gắn liền
với xu hớng tăng lên của tỷ suất giá trị thặng d, tức là với xu h-
ớng tăng thêm mức độ bóc lột lao động. Cho nên, không có gì
ngớ ngẩn hơn là giải thích rằng tỷ suất lợi nhuận giảm xuống là

do tỷ suất tiền công tăng lên, mặc dầu trong trờng hợp ngoại lệ
364 phần thứ ba. - quy luật tỷ suất lợi nhuận Chơng XIV. - những nguyên nhân 365
thì cũng có thể xảy ra nh vậy. Chỉ sau khi hiểu rõ những điều
kiện tạo ra tỷ suất lợi nhuận, thì mới có thể nhờ vào thống kê
mà thực sự phân tích đợc tỷ suất tiền công ở các thời kỳ khác
nhau và trong những nớc khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận giảm
xuống không phải vì lao động kém năng suất hơn, mà vì nó có
năng suất cao hơn. Hai hiện tợng: tỷ suất giá trị thặng d tăng
lên và tỷ suất lợi nhuận giảm xuống chỉ là những hình thái đặc
biệt biểu thị năng suất lao động tăng lên trong chế độ t bản chủ
nghĩa.
VI. T bản cổ phần tăng lên
Ngoài năm điểm trên đây, ta có thể kể thêm một điểm này
nữa, nhng lúc này chúng ta cha thể nghiên cứu điểm ấy sâu hơn
đợc. Sản xuất t bản chủ nghĩa càng tiến lên, - điều này đi đôi
với việc tích lũy nhanh hơn, - thì một bộ phận t bản chỉ đợc kể
là t bản cho vay và đợc sử dụng làm t bản cho vay mà thôi. Nh
thế không có nghĩa là trong khi nhà t bản công nghiệp kiếm đợc
lợi nhuận doanh nghiệp, thì bất cứ nhà t bản cho vay nào cũng
chỉ thỏa m n với lợi tức mà thôi đâu. Điều đó không có liênã
quan gì đến mức tỷ suất lợi nhuận chung, vì đứng về tỷ suất
lợi nhuận chung mà nói, thì lợi nhuận = lợi tức + lợi nhuận đủ
các loại + địa tô, và sự phân phối giữa các phạm trù riêng biệt
này cũng không liên quan gì đến tỷ suất lợi nhuận chung cả.
Điều đó có nghĩa là những t bản ấy, mặc dầu đợc đầu t vào
trong các xí nghiệp sản xuất lớn, nhng sau khi đ trừ hết mọiã
khoản chi phí, thì cũng chỉ đem lại những lợi tức lớn hay nhỏ
mà ngời ta gọi là lợi tức cổ phần: chẳng hạn nh trong ngành đ-
ờng sắt. Bởi vậy những t bản này không tham dự vào việc san
bằng tỷ suất lợi nhuận chung, vì chúng có một tỷ suất lợi

nhuận thấp hơn tỷ suất trung bình. Nếu chúng tham dự vào
đó, thì tỷ suất trung bình lại càng thấp hơn nữa. Đứng về mặt
lý luận, ngời ta cũng có thể gộp cả những t bản ấy vào, và nh
vậy ngời ta sẽ có một tỷ suất lợi nhuận thấp hơn cái tỷ suất
hình nh đang tồn tại và có tác dụng quyết định thực sự đối với
các nhà t bản, - ngời ta sẽ có một tỷ suất lợi nhuận thấp hơn vì
chính trong những xí nghiệp này, t bản bất biến cao hơn hết so
với t bản khả biến.

×