Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Dự Báo Từng Giai Đoạn Của Chu Kỳ Kinh Tế pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.73 KB, 15 trang )

Dự Báo Từng Giai Đoạn Của Chu Kỳ
Kinh Tế Bằng Chuỗi Các Mức Lãi
Suất
Tổng quát
Trong luận án tốt nghiệp trường đại học Chicago năm 1986 cũng
như trong các bài báo ra trong tháng 9 và 10 năm 1989 của Thời
Báo Phân Tích Tài Chính của tôi, tôi từng đề cập đến một
phương pháp dự báo sự tăng trưởng kinh tế bằng Chuỗi các mức
lãi suất[1]. Khi tôi viết bài báo đó, nền kinh tế đã kinh qua một
cuộc suy thoái. Bài nghiên cứu của tôi thể hiện độ dốc của Chuỗi
các mức lãi suất nhằm dự đoán bốn giai đoạn của chu kỳ kinh tế
trong 25 năm qua. Và bây giờ ta sẽ dự đoán giai đoạn thứ 5. Vậy
thì phương pháp này được thực hiện thế khi ta thử nghiệm nó mà
chưa kinh qua một ví dụ nào? Thật vậy, thời kỳ khủng hoảng năm
1996 đã gây ra nhiều tranh cãi. Chuỗi các mức lãi suất sẽ cho
chúng ta biết gì về giai đoạn kế tiếp của chu kỳ kinh tế.
Mối liên hệ giữa chuỗi các mức lãi suất và sự tăng trưởng kinh tế.
Một lý thuyết được cho là thành công khi nó được áp dụng thực
tế. Trong luận án tốt nghiệp đại học Chicago năm 1986 của tôi, tôi
có nói rằng chuỗi các mức lãi suất có thể đã từng được dùng để
dự báo sự tăng trưởng kinh tế. Trong khi đưa ra bằng chứng đầy
ấn tượng (để giải thích hơn 50% phương sai của tăng trưởng
GNP thực và các dự báo kinh tế không hề khác biệt gì lắm so với
các dự đoán sẵn có của phòng thương mại), thì phương pháp
này rất phù hợp với các dữ kiện lịch sử. Khi viết luận án này,
chúng ta đã trãi qua một chu kỳ kinh tế khép kín. Giờ ta có thể
tiếp tục phân tích mức hoạt động không tiêu biểu của nó.
Tôi sẽ cho các bạn thấy rằng phương pháp hệ thống dữ liệu đã
cho ta những dự báo về chu kỳ kinh tế gần đây kịp thời và chính
xác. Phương pháp này dự báo được cả 5 quý mà kinh tế suy sụp
trước khi cuộc khủng hoảng thật sự xảy ra. Phương pháp còn dự


báo thời gian xãy ra khủng hoảng là ba quý. Hơn nữa, tôi cho
rằng hệ thống dữ liệu đã báo trước cho ta một tín hiệu trước năm
1995 khi đường lãi suất là một đường thẳng.
Trực quan cơ bản
Ta xét đến yếu tố trực giác trong phương pháp này. Lãi suất dùng
để thể hiện những khoản chờ được chi trả trong tương lai. Một
khi lãi suất thị trường được thiết lập thì ta có thể nói rằng những
kỳ vọng về sự tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến tiến trình này.
Ta xét một ví dụ đơn giản. Giả sử rằng các nhà đầu tư muốn biết
chắc rằng nền kinh tề sẽ thịnh vượng. Hầu hết họ muốn thu nhập
của họ được giữ ở một mức độ ổn định hợp lý chứ không phải là
tăng mạnh trong một giai đoạn nào đó trong chu kỳ kinh tế và
giảm mạnh trong một giai đoạn khác. Từ đó hình thành nên hình
thức bảo hiểm.
Giả sử rằng nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng và có
thể suy sụp trong năm tới. Từ đó tạo nên tâm lý muốn bảo hiểm
khiến cho mọi người sẽ chọn mua công cụ tài chính nào có thể
đảm bảo chi trả cho họ trong thời kỳ xảy ra suy thoái. Đó chính là
trái phiếu chiết khấu kỳ hạn một năm.
Nếu có quá nhiều người mua loại trái phiếu kỳ hạn một năm, thì
mức giá của loại chứng khoán này sẽ tăng và lãi suất đến hạn sẽ
giảm. Để đủ tiền mua loại trái phiếu này, buộc nhiều người phải
bán đi những loại tài sản ngắn hạn khác của họ. Khi có nhiều
người bán ra thì làm cho loại công cụ ngắn hạn này giảm giá và
kết quả là lãi suất của nó sẽ tăng.
Do đó, nếu khi người ta cho rằng sắp xãy ra khủng hoảng thì
chúng ta sẽ nhận thấy lãi suất dài hạn giảm và lãi suất ngắn hạn
tăng. Kết quả là, hệ thống dữ liệu hoặc đường lãi suất (sai số
giữa mức lãi suất ngắn hạn và dài hạn) sẽ là một đường thẳng
hay bị nghịch đảo lại. Chính hình dạng của hệ thống dữ liệu vể lãi

suất hôm nay sẽ dự báo cho ta về sự tăng trưởng kinh tế trong
tương lai.
Từ ví dụ này, thì rõ ràng rằng phương pháp dựa vào lãi suất này
quả là đơn giản. Nó chỉ bao gồm hai thành phần. Thứ nhất là độ
dốc của chuỗi các mức lãi suất hay mức chênh lệch giữa lãi suất
ngắn và dài hạn. Thứ hai là xu hướng trung bình bảo hiểm mức
độ an toàn của nền kinh tế[2] (có trong các bài luận năm 1989 và
1986 của tôi)
Những diễn giải trên đều dựa vào hoạt động của người tiêu thụ
và các nhà đầu tư. Ta cũng có thể giải thích tương tự như thế
dựa vào tiêu chí sản xuất. Giả sử rằng một công ty cổ phần cho
rằng sẽ xãy ra suy thoái diện rộng. Do lưu lượng tiền mặt thu vào
có liên quan trực tiếp đến chu kỳ kinh tế nên các dự án đầu tư
vốn nào ít thu hút hơn. Do vậy, các dự án sẽ bị hoãn lại. Do các
công ty cổ phần thường cố gắn kết kỳ hạn khi đầu tư một dự án
với đời sống của dự án đó, nên làm giảm áp lực cho thị trường
trái phiếu của công ty (nghĩa là trái phiếu dài hạn của công ty ít
được thả nổi hơn). Điều này làm giảm các mức lãi suất dài hạn.
Đồng thời nếu các công ty đều tập trung vào các dự án đầu tư
ngắn hạn thì sẽ tạo nên một áp lực tích cực cho lãi suất ngắn
hạn. Hoặc cả hai hoặc từng nguyên nhân này đều làm giảm độ
dốc của đường lãi suất.
Trong bài nghiên cứu lần trước, tôi có chỉ ra rằng các phương
pháp toán kinh tế phức tạp (và tốn kém) không thể cho ta các dự
báo như phương pháp hệ thống dữ liệu đơn giản này được. Tôi
đã thử nghiệm phương pháp này để dự báo nền kinh tế Mỹ và
các nước G-7 khác.
Ghi nhận các hoạt động từ lịch sử
Các giai đoạn suy thoái được phân loại bởi Cục Nghiên Cứu Kinh
Tế Quốc Gia (NBER). Suy thoái xãy ra trong khoản thời gian kinh

tế ở điểm cao nhất và điểm thấp nhất. Uỷ ban xác lập chu kỳ kinh
tế của NBER đã quả quyết cho rằng hầu hết khủng hoảng xãy từ
tháng 7 năm 1990 (khi kinh tế ở đỉnh cao) và kết thúc vào cuối
tháng 3 năm 1991 (điểm thấp nhất) thời gian xãy ra khủng
hoảng khoảng 3 quý.
Xét các ghi nhận hệ thống các dũ liệu trong 25 năm qua:
1. Khủng hoảng 69Q-70Q4 [Tổng GDP giảm 0.1%]: hệ thống
dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển trong 68Q3 đưa ra dự báo
một cách chính xác nguy cơ suy thoái trước 4 quý.
2. Khủng hoảng 73Q4-75Q1 [Tổng GDP giảm 4.2%]: hệ thống
dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển trong 72Q2 đưa ra dự báo
một cách chính xác cuộc suy thoái trong hai quý
3. Khủng hoảng 80Q1-80Q3 [Tổng GDP giảm 2.6%]: hệ thống
dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển trong 78Q4 đưa ra dự báo
chính xác suy thoái kéo dài 5 quý
4. Khủng hoảng 81Q3-82Q4 [Tổng GDP giảm 2.7%]: hệ thống
dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển trong 80Q4 dự báo khủng
hoảng trước 4 quý. Lưu ý rằng hệ thống này rất chính xác
khi đưa ra dự báo về "suy thoái đôi" trong chu kỳ kinh tế.
Cuộc suy thoái gần đây
Khủng hoảng 90Q3-91Q1 [Tổng GDP giảm 1.8%]: hệ thống dữ
liệu nghịch chuyển trong ba quý liên tiếp từ 89Q2-89Q4 đưa ra
dự báo dự báo khủng hoảng trong 4 quý.
Nghịch chuyển trong 89Q2-89Q4 xem ra ở mức độ nhẹ hơn so
với trong các quý khác. Ví dụ như, trong 89Q3 mức độ nghịch
chuyển là 30 điểm cơ bản (mức lãi suất thấp dài hạn thấp hơn
mức lãi suất ngắn hạn là 0.3%). Ngược lại, mức độ chuyển đổi
trong 80Q4 là 340 điểm cơ bản hay 3.4%.
Mức độ chuyển đổi càng nhiều thì suy thoái càng nghiêm trọng.
Hệ thống dữ liệu dự báo vào đầu năm 1980 một cuộc suy thoái

bắt đầu từ giữa năm 1981. Và dự báo này rất chính xác.
Theo sự chuyển đổi vào mùa hè năm 1989, tôi dự báo trước rằng
sự tăng trưởng kinh tế đang suy giảm. Tuy nhiên, một sự chuyển
đổi nhỏ cho thấy rằng suy giảm đó không nghiêm trọng bằng ba
cuộc suy thoái trước đó. Phương pháp của tôi cũng dự báo chính
xác thời điểm cuộc suy thoái chấm dứt. Tôi trích dẫn bài của
Leonard Silk gần đây, (tờ New York Times ra ngày 20 tháng 7
năm 1990), "Phương pháp Harvey …hiện tại dự báo rằng …nền
kinh tế dường như sẽ trì trệ cho đến giữa năm 1991 và sau đó sẽ
tăng trưởng lại"
Nhìn chung, phương pháp này cho ta một dự báo khủng hoảng
trước 5 quý vào tháng 7 năm 1990. Thêm vào đó, phương pháp
này cũng dự báo tăng trưởng. Cuộc suy thoái này kéo dài 3 quý
và hệ thống dữ liệu bị chuyển đổi cũng kéo dài trong ba quý.
Phương pháp này cũng đã dự báo rằng cuộc suy thoái sẽ ít
nghiêm trọng như ba cuộc suy thoái trước đó. Tất cả các dự báo
đều có ý nghĩa đối với mẫu ngoài
1995-1996
Trong đầu năm 1995, hệ thống dữ liệu bắt đầu chuyển đổi. Trong
thời báo Business Week ra ngày 16 tháng giêng năm 1995,
người ta có trích dẫn câu tôi nói "những đường lãi suất nghịch
đảo là những điềm báo chính xác về một cuộc suy thoái". Tuy
nhiên , theo như đường lãi suất đó không nghịch chuyển thì
"Harvey chỉ dựa vào mức tăng trưởng khá điều độ" trong năm
1995. Dự báo này ít nhiều cũng có ảnh hưởng. Chúng ta cũng đã
biết đến mức tăng trưởng khá chậm vào năm 1995 - nhưng
chẳng có bằng chứng nào cho cuộc suy thoái.
Những đánh giá về mức tăng trưởng GDP gần đây
Những đánh giá bằng phương trình hồi quy gần đây (in trong bài
báo năm 1989 của tôi dùng phương pháp đánh giá theo Tổng

Sản Phẩm Quốc Nội (GDP) chính xác hơn dùng GNP) cho thấy
rằng cách dùng này vẫn mang một ý nghĩa khá quan trọng trong
hầu hết các dữ liệu. Phương trình dự báo cơ bản là:

Sử dụng trái phiếu với mức lãi suất chênh lệch giữa kỳ hạn 3
năm với kỳ hạn 90 ngày, thì khả năng giải thích trong giai đoạn
1960:1-1995:1 là 30% (với alpha là 2.077 và theta là 1.390).
Trong giai đoạn 1970:1-1995:1, thì năng lực giải thích là 47% (với
alpha là 1.48 và theta là 1.55). Trong giai đoạn 1980:1-1995:1, thì
phương pháp R-bình phương là 48% (với alpha là 1.446 và theta
là 1.321)
Phân tích các mẫu dự báo
Với hình vẽ bên dưới ta có thể hình dung ra cách thức hoạt động
của phương pháp hệ thống dữ liệu

Cũng giống với bất kỳ phương pháp nào khác, chuỗi các mức lãi
suất cũng không phải là một phương pháp dùng để dự báo mức
tăng trưởng kinh tế một cách hoàn hảo. Mặc dù phương pháp đã
dự báo khá chính xác hầu hết các điểm gần đây, nhưng những
dự báo về mức tăng trưởng có vẻ cao hơn so với mức tăng
trưởng thực.
Phương pháp này được phát triển qua nhiều bước đơn giản.
Phần mặt phẳng bị chắn - alpha- là phần thể hiện mức độ bất ổn
định của các chu kỳ kinh tế và mức lãi suất. Nếu tồn tại một sự
bất ổn định về mặt thời gian, thì mặt phẳng bị chắn sẽ thay đổi.
Trong phần lý thuyết phát triển phương pháp này, chu kỳ kinh tế
thực được kết hợp với hệ thống dữ liệu về các mức lãi suất thực.
Các mức lãi suất thực này thì không có sẵn. Tôi cho là lãi suất
chênh lệch giữa các mức lãi suất danh nghĩa là xấp xỉ bằng với
lãi suất chênh lệch giữa các mức lãi suất thực.

Điều này liên quan đến hai giả định về hai mức độ lam phát sau.
Thứ nhất, tỷ suất thực kỳ vọng được cho là mức chênh lệch giữa
mức lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phám kỳ vọng. Nó được gọi
là "hiệu ứng Fisher". Nó thực sự là không chính xác lắm. Phí bảo
hiểm rủi ro được tính vào khoảng giữa mức lãi suất thực và mức
lãi suất danh nghĩa đã giảm phát theo tỷ lệ lạm phát kỳ vọng.
Thứ hai, tôi cho rằng chuỗi các mức lãi suất của tỷ lệ lạm phát kỳ
vọng là một đường thẳng. Nghĩa là thành phần của tỷ lệ lạm phát
kỳ vọng hàng năm đối vói trái phiếu kỳ hạn 3 tháng cũng một
phần nào đó giống với loại kỳ hạn 3 năm.
Giả thuyết này thực chất chính là để giải thích cho một số sai sót
của phương pháp này. Thật vậy, người ta có thể cho rằng hệ
thống dữ liệu của tỷ lệ lạm phát kỳ vọng hơi nghiên về phía cực
dương trong hai năm cuối. CPI chỉ tăng 2.6% vào năm 1992.
Theo như các trái phiếu dài hạn có lãi suất cao hơn mức 7%, thì
hầu như người ta tin rằng mức lạm phát dài hạn kỳ vọng sẽ vượt
cao hơn so với mức lạm phát ngắn hạn kỳ vọng.
Hệ thống dữ liệu lạm phát kỳ vọng dương có thể giải thích tại sao
sự chuyển đổi trong hệ thống dữ liệu vào mùa hè năm 1989 khá
ít và đồ thị của nó lại hướng lên lại kể từ lúc đó. Khi kết hợp với
hệ thống dữ liệu mức lạm phát thì có thể làm cho các dự báo trở
nên chính xác hơn.
Công việc kế đến
Vẫn còn nhiều hứa hẹn cho những chỉ dẫn khác cho việc nghiên
cứu sau này. Tôi đã xuất bản rất nhiều sách mà tôi đã ghi chép lại
những công việc của tôi làm ở nhiều quốc gia. Ở một số nơi, hệ
thống dữ liệu có thể dùng để nắm bắt được mức tăng trưởng
GDP. Còn ở một số nước khác, dùng như thế lại không được.
Thật thú vị là, sự khác biệt giữa hệ thống dữ liệu về mức lãi suất
tại địa phương của một nước nào đó và của nước Mỹ lại có thể

dự báo một phần nào đó mức tăng trưởng kinh tế không liên
quan đến mức tăng trưởng của "thế giới", tức là mức tăng trưởng
thực của một quốc gia riêng biệt nào đó.
Một số quốc gia như: Canada, Đức, Anh, Pháp, Ý, Nhật.

×