Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đổi mới lãnh đạo và quản lý trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.35 KB, 19 trang )

CHUYÊN ĐỀ 1
ĐỔI MỚI LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
(School Leadership and Management Innovation)
ĐỔI MỚI LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
(School Leadership and Management Innovation)
THỜI LƯỢNG: 10 tiết (4 tiết lý thuyết, 6 tiết thực hành)
MÔ TẢ CHUYÊN ĐỀ
Đổi mới lãnh đạo và quản lý trường phổ thông là chuyên đề nhằm giới thiệu với
học viên:
- Lý do phải đổi mới lãnh đạo và quản lý trường phổ thông;
- Những định hướng chiến lược, các quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục và
lựa chọn mô hình quản lý trường phổ thông;
- Vai trò lãnh đạo, quản lý và những nội dung cơ bản cần thay đổi trong lãnh đạo
và quản lý trường phổ thông trước bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập.
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chuyên đề học viên sẽ:
- Giải thích được tính tất yếu và sự cấp thiết phải đổi mới lãnh đạo, quản lý giáo
dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng trong bối cảnh kinh tế – xã hội toàn cầu
hiện nay;
- Đề xuất được những lĩnh vực cần tạo ra sự thay đổi trong lãnh đạo và quản lý tại
cơ sở đang công tác;
- Có niềm tin và quyết tâm đổi mới lãnh đạo và quản lý các hoạt động giáo dục
trong trường phổ thông.
NỘI DUNG
1. Sự cấp thiết phải đổi mới lãnh đạo và quản lý trường phổ thông trong bối cảnh
toàn cầu hoá và hội nhập
1.1. Sự cấp thiết phải đổi mới lãnh đạo và quản lý trường phổ thông nhìn nhận trên
phương diện lý luận giáo dục và quản lý giáo dục
1) Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển giáo dục với phát triển KT-XH
• Sự nghiệp phát triển giáo dục của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng


phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản:
- Bối cảnh chung của thời đại.
- Trình độ và sự phát triển KH&CN.
- Chế độ chính trị và chính sách quốc gia.
- Mô hình và mức độ phát triển KT-XH.
- Truyền thống và bản sắc văn hoá .
- Truyền thống giáo dục.
• Lịch sử phát triển giáo dục đã chứng tỏ:
- Giáo dục là phương tiện cải biến xã hội, tạo tiền đề về nhân lực có tri thức
cho phát triển KT-XH trong mọi giai đoạn lịch sử phát triển xã hội loài
người.
- KT-XH luôn luôn đặt ra các yêu cầu mới và tạo điều kiện mới cho giáo dục
phát triển đáp ứng được các yêu cầu phát triển KT-XH trong mọi giai đoạn
lịch sử phát triển xã hội loài người.
Từ đó khẳng định phát triển giáo dục và phát triển KT-XH có tính “cân bằng
động”; cho nên giáo dục nói chung và nhà trường nói riêng phải luôn tự điều chỉnh để
nâng mình lên nhằm đáp ứng được các yêu cầu phát triển KT-XH của thời đại và tận
dụng được những điều kiện mới mà KT-XH mang lại cho giáo dục.
2) Các chức năng của nhà trường phổ thông đối với sự phát triển KT-XH
 Nhà trường phổ thông với chức năng chính trị (Political Function)
Nhà trường có những chức năng đối với sự phát triển của thể chế chính trị trong xã
hội ở bình diện khác nhau. Cụ thể:
- Bình diện cá nhân (Individual Level): nhà trường giúp học sinh phát triển ý thức
công dân, nắm vững kỹ năng, kỹ xảo để thực hiện trách nhiệm và quyền lợi của người
công dân.
- Bình diện tổ chức (Institutional Level): nhà trường đưa học sinh vào một chuẩn
mực chính trị, các giá trị xã hội đã được chọn lọc và thừa nhận, đồng thời làm cho họ
được xã hội hoá một cách có hệ thống. Mặt khác, nhà trường là một liên kết chính trị vô
hình nhưng hữu ích giữa các giáo viên, phụ huynh và học sinh nhằm ổn định cơ cấu các
lực lượng chính trị.

- Bình diện vùng dân cư và bình diện xã hội (Community Level and Society Level):
nhà trường nhằm vào nhu cầu chính trị của xã hội, của địa phương để tăng cường độ chấp
nhận quyền lực của chính quyền, duy trì sự ổn định cơ cấu chính trị, nâng cao ý thức dân
chủ, tạo thuận lợi cho sự phát triển và cải thiện chính trị. Nhà trường sẽ chuẩn bị hữu ích
cho học sinh sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước, lợi ích chung của toàn cầu, sự liên kết
quốc tế và phong trào hoà bình; đồng thời xoá bỏ những mâu thuẫn giữa các khu vực, các
dân tộc để tạo ra lợi ích lâu dài của thế giới và sự tin cậy lẫn nhau.
 Nhà trường phổ thông với chức năng kinh tế/ kỹ thuật (Technical/ Economic Function)
Nhà trường có thể cống hiến cho sự phát triển kinh tế đối với cá nhân, tổ chức,
vùng dân cư, xã hội và quốc tế. Cụ thể:
- Trên bình diện cá nhân: nhà trường giúp học sinh có được tri thức và kỹ năng để họ
có thể sinh tồn trong xã hội hiện đại hoặc nền kinh tế cạnh tranh; đồng thời tạo cơ hội cho
giáo viên và nhân viên trong Ngành trưởng thành, thăng tiến.
- Trên bình diện tổ chức: nhà trường là đơn vị cung cấp những dịch vụ chất lượng cao
và cũng là nơi dành cho các giáo viên, nhân viên hữu quan sống và học tập.
- Bình diện vùng dân cư và bình diện xã hội: nhà trường cung cấp nhân lực chất
lượng cao cho hệ thống kinh tế của xã hội bản địa, gây dựng những hành vi kinh tế của các
học sinh, đồng thời duy trì sự phát triển của cơ cấu nhân lực trong hệ thống kinh tế.
- Trên bình diện quốc tế: nhà trường giáo dục sự cạnh tranh và hợp tác quốc tế, bảo
vệ trái đất, cùng sự giao lưu thông tin khoa học kỹ thuật; cung cấp nguồn nhân lực trình
độ cao cho các nhu cầu cần thiết.
 Nhà trường phổ thông với chức năng con người/ xã hội (Human/ Social Function)
Nhà trường có chức năng nhất định trong sự phát triển quan hệ giữa người với
người và quan hệ xã hội ở các bình diện khác nhau. Cụ thể:
- Trên bình diện cá nhân: nhà trường giúp các học sinh phát triển tâm lý, sinh lý,
giao tiếp và triệt để phát huy tiềm năng của họ.
- Trên bình diện tổ chức: nhà trường là một thực thể xã hội (Social Entity) do các
mối quan hệ con người khác nhau hợp thành hoặc là một phần tử của hệ thống xã hội.
Chính vì vậy, nhà trường có chức năng của một tổ chức trong xã hội.
- Bình diện vùng dân cư và bình diện xã hội: Nhà trường phục vụ cho nhu cầu

phát triển bản địa và xã hội, phát huy tác dụng để điều chỉnh hoà nhập cho các phần tử đa
dạng và khác biệt cho xã hội, trợ giúp cho sự chuyển dịch kết cấu giai cấp trong xã hội,
làm cho mọi người có những tiền đề khác nhau cũng đều được sự bình đẳng xã hội, lựa
chọn và phân công con người gánh vác những vị trí quan trọng và tất nhiên sẽ giúp cho
mọi cải tổ và phát triển xã hội về lâu dài.
 Nhà trường phổ thông với chức năng văn hoá (Cultural Function)
Nhà trường có những cống hiến nhất định cho sự truyền tải và phát triển
(Transmission and Development) văn hoá đối với các bình diện khác nhau. Cụ thể:
- Bình diện cá nhân, nhà trường giúp học sinh phát triển sức sáng tạo và cảm thụ
thẩm mỹ, làm cho họ được xã hội hoá các chuẩn mực, giá trị đã được xã hội công nhận.
- Bình diện tổ chức, nhà trường chuyển giao văn hoá cho thế hệ sau một cách có hệ
thống; hoà hợp các nhóm văn hoá (Subcultures) và thẩm thấu vào đó sức sống của văn
hoá truyền thống.
- Bình diện vùng dân cư và bình diện xã hội: nhà trường là đơn vị văn hoá mang
những chuẩn mực và những kỳ vọng của cộng đồng; truyền tải những giá trị quan trọng
của xã hội và vun đắp những giá trị đó cho học sinh; hoà hợp các giá trị cận văn hoá có
cội nguồn khác nhau và làm sống động những sức mạnh văn hoá hiện còn tồn tại, đồng
thời giảm thiểu các mâu thuẫn và bất thuận xuất hiện trong xã hội.
- Bình diện quốc tế: nhà trường cổ vũ học sinh chào đón văn hoá của các dân tộc,
các khu vực và các tầng lớp dân cư khác nhau, tìm hiểu và tiếp nhận các chuẩn mực,
truyền thống và giá trị của các quốc gia, của khu vực; thông qua sự điều hoà văn hoá để
thúc đẩy sự phát triển văn hoá toàn cầu.
 Nhà trường phổ thông với chức năng giáo dục (Education Function)
Nhà trường có chức năng giáo dục ở các cấp độ để phát triển xã hội. Cụ thể:
- Bình diện cá nhân: nhà trường giúp học sinh và giáo viên biết cách phải học và
dạy như thế nào; đồng thời cũng giúp giáo viên phát triển nghề nghiệp, trưởng thành
trong quá trình dạy học tương hỗ.
- Bình diện tổ chức: nhà trường là địa điểm để học, để dạy và để truyền bá tri thức
có hệ thống; đồng thời cũng là trung tâm để thực nghiệm, thực thi những cải cách nâng
cấp giáo dục một cách có hệ thống.

- Bình diện vùng dân cư và bình diện xã hội: nhà trường cung cấp những dịch vụ
cho nhu cầu giáo dục khác nhau của vùng dân cư để giúp cho sự phát triển của ngành
giáo dục và các cơ quan giáo dục, để chuyển giao các thông tin tri thức cho thế hệ sau và
để giúp cho xã hội trở thành một xã hội học tập (Learning Society).
- Bình diện quốc tế: nhà trường cổ vũ cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc,
hiệp trợ với thế hệ trẻ xây dựng một “đại gia đình toàn cầu” hoặc “mái nhà chung”
(Global Village), nhà trường có thể dồn sức lực của mình cho các giao lưu giáo dục toàn
cầu (Global Education) và giáo dục quốc tế (Internationnal Education), cống hiến cho sự
nghiệp giáo dục toàn thế giới.
Kết luận: Trước sự thay đổi không ngừng của xã hội thì mọi cá nhân, tổ chức, cộng
đồng và xã hội luôn luôn có những yêu cầu mới đối với các hoạt động giáo dục của nhà
trường; dẫn đến nhà trường phải có sự thay đổi để thực hiện được các chức năng chính trị,
kinh tế, con người/ xã hội, văn hoá và cả chức năng giáo dục.
1.2. Sự cấp thiết phải đổi mới lãnh đạo và quản lý trường phổ thông nhìn nhận trên
phương diện thực tiễn phát triển giáo dục toàn cầu
1) Kinh tế tri thức, sự phát triển KH&CN, xu thế hội nhập và cơ chế thị
trường là đặc trưng chủ yếu của thời đại
Các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang có sự chuyển đổi
nhanh từ nền văn minh vật chất sang nền văn minh tinh thần, từ nền kinh tế hậu công nghiệp
sang nền kinh tế tri thức với sự phát triển như vũ bão của KH&CN, đặc biệt là xu thế toàn
cầu hoá và cơ chế thị trường đã tạo ra một số đặc trưng mới của thời đại ngày nay:
 Giá trị của tài sản trí tuệ.
Hiện nay tài sản hữu hình (bất động sản, máy móc, thiết bị, ) chỉ chiếm một tỷ lệ
nhỏ so với tài sản vô hình (tư tưởng, tri thức, bí quyết, tài năng, sáng tạo, sự độc đáo,
danh tiếng, thương hiệu, ); trong đó tài sản trí tuệ và tài sản tri thức đóng vai trò chủ
yếu. Từ đó nhiều nước phát triển trên thế giới coi trọng sở hữu trí tuệ và điều này vừa
khuyến khích việc sáng tạo ra các giá trị tinh thần, lại vừa nới rộng khoảng cách giầu và
nghèo giữa các nước.
 Sự phát triển như vũ bão của KH&CN.
KH&CN sinh học, công nghệ điện tử phát triển mạnh và đặc biệt là sự phát triển quá

nhanh chóng của mạng thông tin toàn cầu nhờ công cụ Internet đã tạo nên sự thịnh vượng
của mọi quốc gia và con người phụ thuộc nhiều vào nó. Thương mại điện tử được coi trọng
và phát triển làm giảm thiểu tối đa các hình thức thương mại khác. Các ưu việt của kinh
doanh tri thức tạo cho cả nhân loại tập trung vào thương mại tri thức.
 Xu thế toàn cầu hoá.
Xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi phải phát triển công nghệ thông tin nhằm gắn kết tất cả
cộng đồng người và các quốc gia với nhau. Sự lưu chuyển các nguồn vốn, thông tin và tri
thức đang diễn ra trong phạm vi toàn cầu với tốc độ chóng mặt và không còn biên giới.
 Sự hình thành các trung tâm kinh tế, khoa học trên thế giới.
Trung tâm kinh tế khoa học của thế giới sẽ ở những quốc gia có hệ thống cơ sở hạ
tầng và truyền thông phát triển. Những nước này sẽ có lợi thế xây dựng một nền kinh tế
năng động và phát triển hơn hẳn các nước khác.
 Sự thay đổi trong lao động xã hội.
Sự thay đổi trong lao động xã hội thể hiện mỗi ngày một rõ hơn. Lực lương lao
động mới là những người không làm ra sản phẩm vật chất cụ thể mà lại làm ra các giá trị
tinh thần và trí tuệ, xuất hiện ngày một nhiều hơn; đồng thời họ lại được trả lương cao
hơn. Tất nhiên không loại bỏ việc chế tạo ra máy móc và những robot mỗi ngày một tinh
vi hơn, nhưng muốn thành đạt trong nền kinh tế mới, thì mọi người cần được đào tạo cơ
bản và phải có trình độ học vấn cao.
 Sự hợp tác và lòng tin là hai nhân tố cấu thành sự thành công trong phát triển
KT-XH ở mọi quốc gia.
Sự hợp tác và lòng tin là hai nhân tố cấu thành sự thành công trong phát triển KT -
XH ở mọi quốc gia. Nhiều tác giả còn đặt tên cho hai yếu tố trên là “tư bản xã hội” và
cho rằng muốn đổi mới sản phẩm, biến các ý tưởng sáng tạo thành hiện thực phải có sự
hợp tác của nhiều chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau trên một nguyên tắc không thể
thiếu lòng tin.
 Sự mạo hiểm là vấn đề quan trọng của nền kinh tế tri thức.
Sự mạo hiểm là vấn đề quan trọng của nền kinh tế tri thức. Cần có sự đầu tư các
nguồn vốn cho các hoạt động có độ rủi ro cao như đầu tư cho kinh doanh tri thức. Tuy vậy,
kết quả của sự đầu tư đó sẽ mang lại hiệu quả gấp rất nhiều lần.

 Tính đổi mới và sáng tạo là một dạng tài sản quý giá nhất.
Tính đổi mới và sáng tạo là một dạng tài sản quý giá nhất của bất kỳ một doanh
nghiệp cũng như của một quốc gia nào. Trong nền kinh tế tri thức, đổi mới và sáng tạo là
nguồn vốn phi vật chất, nhưng lại có vai trò quan trọng hơn hẳn vốn vật chất như tiền, đất
đai, sức lao động thủ công.
Tóm lại: Từ những đặc điểm chủ yếu của những biến đổi của thế giới nêu trên,
cho thấy nhìn chung xu thế phát triển KT-XH của thời đại ngày nay đã đặt ra cho hoạt
động giáo dục phải xây dựng được những nhân cách thích ứng với:
- Một thế giới phát triển tri thức;
- Một thế giới hoà nhập xã hội;
- Một thế giới mà mỗi con người luôn luôn phải bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hoá của dân tộc, nhưng lại bị ảnh hưởng của sự giao lưu văn hoá, khoa học và công
nghệ giữa các cộng đồng, các dân tộc, các quốc gia;
- Một thế giới đang có nguy cơ khủng hoảng về giá trị con người, về bùng nổ
dân số và về ô nhiễm môi trường.
2) Những cơ hội và thách thức đối với phát triển KT-XH và phát triển giáo
dục toàn cầu
Hiện nay, KT-XH (trong đó có giáo dục) ở mọi quốc gia trên thế giới đang đứng
trước những cơ hội phát triển và các thách thức phải vượt qua. Đó là phải giải quyết có hiệu
quả các mối quan hệ chủ yếu mang tính thời đại như:
 Giữa toàn cầu và cục bộ.
Con người trở thành công dân toàn cầu, thích ứng được những biến đổi không
ngừng và mang tính hội nhập cao; nhưng không được “mất gốc” của mình trong việc
mang lại lợi ích cho quốc gia và cộng đồng của mình.
 Giữa phổ biến và riêng lẻ.
Văn hoá không ngừng bị toàn cầu hoá, song mới chỉ ở mức từng bộ phận. Tuy vậy
nếu không thực sự cảnh giác thì không thể bảo tồn được những vấn đề giữa truyền thống
và bản sắc văn hoá với những xu hướng phát triển hiện thời.
 Giữa truyền thống và hiện đại.
Truyền thống và hiện đại là hai mặt của cùng một vấn đề đang đặt ra. Đó là làm thế

nào để thích ứng với hiện đại mà không tự mình quay lưng lại với quá khứ; làm thế nào
để tiếp thu nhanh chóng với công nghệ mới mà không lãng quyên những gì cao đẹp được
coi là truyền thống tinh hoa mà ông cha, của dân tộc và của cộng đồng mỗi người đang
sinh sống.
 Giữa dài hạn và ngắn hạn.
Đó là việc giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa cái tạm thời và cái tức thời trong
cái thế giới quá nhiều thông tin và xúc cảm không vì ngày mai, chỉ vì cái trước mắt. Thực
hiện những ước muốn trước mắt là cần thiết, nhưng không được không nghĩ tới tương lai
của chính bản thân mỗi người và mọi người; không thể không nghĩ cộng đồng, dân tộc,
quốc gia và nói rộng ra là cả trái đất này sẽ được phát triển hay bị kìm hãm, huỷ hoại đến
mức độ nào do việc chỉ tập trung vào thực hiện các mục tiêu trước mắt của mỗi cá nhân,
của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc và của mỗi quốc gia.
 Giữa sự cần thiết cạnh tranh và bình đẳng về cơ may.
Đó là mối quan hệ mang tính muôn thủa được xuất hiện mang tính khách quan của
quy luật phát triển xã hội. Mối quan hệ này thể hiện ở sự hoà hợp được các mặt: sự cạnh
tranh lành mạnh có tính khuyến khích phát triển; sự hợp tác mang lại tính tăng cường và
sự đoàn kết mang lại tính gắn bó và đồng thuận; thực hiện được triết lý “dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đối với mọi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân
tộc và mọi quốc gia.
 Giữa trình độ phát triển phi thường về kiến thức và khả năng con người tiếp thu
nó.
Tốc độ và thành quả phát triển của KH&CN dẫn đến ý tưởng phải tìm cách trang bị
gấp rút và tăng nhiều nội dung tri thức mới cho mọi người trong xã hội. Nhưng sự quá tải
nội dung tri thức khổng lồ và sức ép của sự phát triển như vũ bão của KH&CN sẽ tổn hại
đến sức khoẻ thể chất và tinh thần của con người; đồng thời ảnh hưởng không ít đến cả vấn
đề môi trường thiên nhiên. Từ đó đi đến việc lựa chọn nội dung chương trình, phương pháp
và hình thức tổ chức truyền thụ tri thức nhân loại như thế nào cho phù hợp với khả năng
nhận thức của con người là thách thức mà các nhà nghiên cứu giáo dục và quản lý giáo dục
phải biết cách vượt qua.
 Giữa trí tuệ và vật chất.

Đây là một vấn đề khó và lâu nay thiếu nhận thức ra nó vì nó thuộc phạm trù đạo
đức (các giá trị tinh thần được xây dựng trên cơ sở có trí tuệ và cái vật chất được thụ
hưởng như thế nào nhờ vào trí tuệ của mỗi người). Yêu cầu của việc truyền thụ tri thức
nhân loại là phải làm cho người học tự nhận ra và tự giải quyết được vấn đề mối quan hệ
giữa mức độ trí tuệ của bản thân với sự thụ hưởng tương xứng về vật chất và tinh thần
không những của bản thân họ mà còn của cả cộng đồng, xã hội. Nói rộng ra cho một tổ
chức là phải biết giải quyết mối quan hệ giữa năng lực trí tuệ của tổ chức mình với những
mức độ hưởng thụ vật chất và tinh thần của tổ chức đó; đồng thời không quên đến lợi ích
vật chất và tinh thần của cộng đồng và xã hội.
3) Xu hướng đổi mới và phát triển giáo dục toàn cầu
 Quá trình giáo dục phải hướng tới người học
- Tính cá thể người học được đề cao.
- Coi trọng trong mối quan hệ giữa lợi ích của người học với mục tiêu phát triển xã
hội và mục tiêu phát triển cộng đồng, xã hội.
- Nội dung giáo dục phải sáng tạo, theo nhu cầu người học.
- Phương pháp giáo dục là cộng tác, hợp tác giữa người dạy và người học, công
nghệ hoá và sử dụng tối đa tác dụng của công nghệ thông tin.
- Hình thức tổ chức giáo dục đa dạng, linh hoạt phù hợp với kỷ nguyên thông tin và
nền kinh tế tri thức nhằm tạo khả năng tối ưu cho người học lựa chọn hình thức học.
- Đánh giá kết quả học tập trong trường học phải đổi mới để thực sự có những phán
quyết chính xác về kiến thức, kỹ năng và thái độ người học.
 Thực hiện có hiệu quả các trụ cột của giáo dục và thực hiện được triết lý học
suốt đời
i) Học để biết
Giáo dục trong nhà trường như thế nào để người học tiếp cận ngay được những
thay đổi nhanh chóng do sự tiến bộ không ngừng của KH&CN và sự biến đổi mới của
các hình thức hoạt động KT-XH. Biết căn nguyên vấn đề, biết vận dụng tri thức vào việc
tạo ra việc làm và làm việc, biết cách ứng xử trong cuộc sống để cùng chung sống trong
xã hội (nói chung là môi trường xã hội) luôn luôn biến động.
ii) Học để làm

Giáo dục trong nhà trường như thế nào để ngoài việc người học học được một
nghề để có việc làm nhưng có thêm năng lực giúp họ xử lý được nhiều tình huống cụ
thể mà thường không thể thấy trước được; đồng thời giúp cho người học thích ứng với
các biến đổi của thời đại. Vấn đề này phương pháp dạy học hiện nay chú ý chưa đúng
mức và chỉ có thể thực hiện được khi mà dạy học đi đôi với hoạt động tập thể, lao động
gắn với cuộc sống thực tiễn. Như vậy hoạt động dạy học trong trường phổ thông phải
được tiến hành trong một nền giáo dục đủ rộng (học nhiều môn học với nhiều hình
thức) nhằm tạo được cho người học khả năng làm việc có kỹ năng và kỹ xảo với một
nghề chọn lọc; nhưng biết thêm phương pháp tư duy để biết được và thích ứng sự thay
đổi nghề trong tương lai.
iii) Học để chung sống (học để sống với người khác)
Giáo dục trong nhà trường như thế nào để con người (công dân của thế giới) hiểu
biết nhau về: kế mưu sinh, về lịch sử - văn hoá, về truyền thống và các giá trị tinh thần
của người khác, của cộng đồng khác và của dân tộc khác. Từ đó người học biết được cái
riêng trong cái chung, biết bảo vệ cái riêng, nhưng cũng biết tôn trọng và xây dựng cái
chung của toàn nhân loại; đồng thời biết hoà nhập vào cái chung (giá trị chung của nhân
loại) để cùng phát triển bền vững.
iv) Học để làm người
Giáo dục trong nhà trường như thế nào để cho mỗi con người trong thế kỷ XXI có
năng lực tự chủ và xét đoán cao hơn nhằm gắn bó giữa cá nhân với nỗ lực đạt được cái
chung. Làm sao không để một tài năng nào (như một năng lực tiềm ẩn trong từng con
người) là không được khai thác. Cụ thể là trí nhớ, sự lập luận, trí tưởng tượng, khả năng thể
lực, thẩm mỹ, thái độ giao tiếp với những người khác, uy tín của mỗi con người, đều
được phát huy. Hiện nay “xã hội thông tin” đang phát triển làm cho những cơ hội tiếp cận
những dữ liệu và sự kiện được gia tăng, nên dạy học cần giúp cho mọi người sử dụng được
thông tin; biết thu thập, chọn lọc, sắp xếp, quản lý và sử dụng nó. Có như vậy con người
thời đại ngày nay mới “làm người” một cách đúng ý nghĩa của nó.
v) Học suốt đời
Triết lý học suốt đời được xem như những chiếc chìa khoá mở cửa cho mọi người
tiếp tục đi đến và cập nhật được các thành tựu khoa học, công nghệ; những nét mới của sự

phát triển văn hoá. Nó vượt quá sự phân biệt giữa truyền thống giáo dục ban đầu và giáo
dục liên tục. Nó tạo ra một xã hội học tập, ở đó tất cả mọi người đều có cơ hội học tập và
phát huy tiềm năng của mỗi người; đồng thời mở ra những khả năng học tập cho mỗi
người. Như vậy giáo dục trong nhà trường thời nay phải đạt được mục tiêu kép:
+ Trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ cho người học để sau thời gian học
ban đầu có thể tiếp tục học lên cao hơn để có nghề chuyên sâu.
+ Trang bị các năng lực cần thiết trong thời gian học ban đầu để người học
có thể hoà nhập ngay vào thị trường lao động, chờ cơ hội tiếp tục học lên và thực hiện
học tập suốt đời.
 Xu hướng chung về đổi mới quản lý giáo dục và đổi mới quản lý nhà trường của
một số nước phát triển
Với quan điểm Giáo dục cho tất cả - Tất cả cho giáo dục (Education for All - All
for Education); các quốc gia phát triển trên thế giới luôn luôn thực hiện cải cách giáo dục
khi mà nền KT-XH có sự chuyển đổi. Thực tiễn cải cách giáo dục (trong đó có đổi mới
quản lý giáo dục và đổi mới quản lý nhà trường) ở một số quốc gia phát triển cho thấy
giáo dục của họ thực chất đã đáp ứng được yêu cầu phát triển KT-XH. Đó là việc thực
hiện đổi mới về tư duy, phương thức và cơ chế quản lý giáo dục và quản lý nhà trường.
Cụ thể:
- Đổi mới về tư duy quản lý giáo dục: chuyển từ tư tưởng quản lý mệnh lệnh hành
chính sang quản lý chủ yếu bằng pháp luật.
- Đổi mới phương thức quản lý giáo dục: chuyển từ một chiều, từ trên xuống sang
tương tác, lấy đơn vị cơ sở làm trung tâm.
- Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục: chuyển từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang
phân cấp, dân chủ, tự chủ và tự chịu trách nhiệm;
Như vậy, bản chất của sự đổi mới quản lý nhà trường là ở chỗ quản lý lấy nhà trường
làm cơ sở (School - Based Management). Đây là một xu thế tất yếu của sự đổi mới quản lý
nhà trường và xu thế này đang xuất hiện các thách thức chủ yếu sau:
- Quản lý lấy nhà trường làm cơ sở đòi hỏi CBQL nhà trường phải có năng lực ra
quyết định phù hợp với quyền tự chủ về nhân sự và tài chính; đòi hỏi đội ngũ nhà giáo
phải có năng lực làm việc tập thể, giải quyết vấn đề, hoạch định kế hoạch phát triển; đòi

hỏi tập thể giáo viên, cán bộ, nhân viên nhà trường phải có năng lực đóng góp và tham
gia vào công tác quản lý.
- Quản lý lấy nhà trường làm cơ sở đòi hỏi mọi thành viên nhà trường dành thêm
thời gian hàng ngày cho công việc nhà trường. Điều này là một thách thức không nhỏ,
nhất là đối với giáo viên khi họ đã phải chịu gánh nặng về thời gian do yêu cầu đổi mới
nội dung, chương trình và phương pháp.
- Quản lý lấy nhà trường làm cơ sở đòi hỏi cơ chế phối hợp mới, trong đó cơ quan
quản lý giáo dục cấp trên cần giảm bớt tính chỉ đạo một chiều để tăng cường tính khuyến
khích, hỗ trợ, động viên, tạo điều kiện cho nhà trường phát huy vai trò chủ động trong
quản lý, điều hành các hoạt động của mình.
4) Khái quát về thực trạng giáo dục Việt Nam (học viên tham khảo thêm các
tài liệu: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc khoá X của Đảng Cộng sản Việt Nam;
Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục đến năn 2020 của Bộ GD&ĐT).
 Những thành tựu
- Hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất, đa dạng đã được
hình thành;
- Quy mô giáo dục tăng nhanh, bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội;
- Chất lượng giáo dục trong các cấp học và trình độ đào tạo đã có chuyển biến
bước đầu;
- Công tác xã hội hóa đã đem lại những kết quả bước đầu;
- Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện.
Nguyên nhân
- Truyền thống hiếu học của dân tộc;
- Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và sự
quan tâm của xã hội;
- Sự ổn định chính trị và những thành quả phát triển kinh tế;
- Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước tăng;
- Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề và sự tận tụy, nỗ lực của đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục.
 Những yếu kém

- Chất lượng giáo dục đại trà còn thấp;
- Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền còn mất cân đối;
- Đội ngũ giáo viên vừa thừa vừa thiếu, chưa đồng bộ;
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu;
- Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại
hóa;
- Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả.
Nguyên nhân
- Tư duy giáo dục chậm đổi mới;
- Cơ chế quản lý giáo dục chưa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước;
- Nhân lực và quản lý nhân lực giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo
dục;
- Đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng với mong muốn về yêu cầu chất lượng và
chưa có hiệu quả cao;
- Phương pháp và hình thức giáo dục chưa thực sự phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và kỹ năng sống của người học.
 Những so sánh với quốc tế
Những nguyên nhân trên gây nên sản phẩm giáo dục (nhân cách người lao động) của
chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT-XH nước nhà. Nếu so sánh với một số
nước trong khu vực thì thấy có sự thua kém.
Các dẫn chứng dưới đây phần nào minh chứng được tác dụng và giá trị của giáo dục
của chúng ta với sự phát triển KT-XH nước nhà.
i) Chỉ số phát triển EDI (Educationl for Development Index) trong một số
năm gần đây của Việt Nam còn thua kém nhiều nước trong khu vực như: Thái Lan,
Trung Quốc, Hàn quốc, và xếp hạng thấp so với nhiều nước trên thế giới;
ii) Xếp hạng theo chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người) trong một số năm
gần đây của Việt Nam còn thua kém nhiều nước trong khu vực như: Thái Lan, Trung
Quốc, Hàn quốc , Singapore, Philippin, Inđônexia, Malayxia, và xếp hạng thấp so với
nhiều nước trên thế giới;

iii) Do giáo dục chưa thực sự phát triển nên ảnh hưởng đến sự nghiệp phát
triển KT-XH. Cụ thể về xếp hạng chỉ số GDP của Việt Nam trong một số năm gần đây
tuy có nhích lên, nhưng so với một số nước trong khu vực còn thấp và đứng khoảng 100
trên 177 nước trên thế giới.
Kết luận phần 1
- Cuộc cách mạng KH&CN đang phát triển với những bước tiến nhảy vọt nhằm đưa
thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế
tri thức.
- Vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vừa tạo ra quá trình hợp tác để phát triển
và vừa là quá trình đấu tranh gay gắt của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích quốc
gia, bảo tồn bản sắc văn hoá và truyền thống của các dân tộc.
- Những xu thế chung nêu trên đã tạo ra những yêu cầu mới và tạo ra sự biến đổi
nhanh chóng, sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội toàn cầu, trong đó có giáo
dục. Từ các yêu cầu mới về phát triển KT-XH toàn cầu, dẫn đến những yêu cầu mới về
mẫu hình nhân cách người lao động mới (người công dân toàn cầu), tiếp tục dẫn đến
những yêu cầu mới về chất lượng và hiệu quả giáo dục.
- Trách nhiệm đối với các yêu cầu của thời đại về lực lượng lao động phần lớn thuộc
về giáo dục, bởi lẽ giáo dục giữ vai trò trọng trách trong việc xây dựng và phát triển nhân
cách người lao động không những cho mỗi cộng đồng, cho từng quốc gia mà còn cả trên
bình diện quốc tế. Nói cách khác là phải đổi mới giáo dục thì mới nâng cao được chất
lượng và hiệu quả giáo dục; từ đó mới có được những mẫu hình nhân cách đáp ứng được
với những biến đổi toàn diện của xã hội hiện nay. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
đóng vai trò định hướng, là một trong những yếu tố mang tính đột phá và quyết định đến
chất lượng và hiệu quả giáo dục. Vì vậy, đổi mới lãnh đạo và quản lý giáo dục nói chung
và nhà trường nói riêng (trong đó có nhà trường phổ thông) là một tất yếu khách quan và
cũng là sự đòi hỏi sự cấp thiết của xã hội trong giai đoạn hiện nay; nhất là trong bối cảnh
nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
2. Định hướng chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam đến năm 2020
(Trích Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020)
2.1. Quan điểm chỉ đạo

1) Phát triển giáo dục là nhằm tạo lập nền tảng và động lực CNH, HĐH đất nước, bảo
đảm để Việt Nam có đủ năng lực hợp tác và cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa.
2) Phát triển nền giáo dục của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng đầu, là nhiệm
vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước trong cơ chế thị trường định hướng XHCN.
3) Giáo dục vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi
người.
4) Hội nhập quốc tế về giáo dục phải được đẩy mạnh dựa trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc để xây dựng một nền giáo dục giàu tính nhân văn, tiên tiến, hiện đại.
5) Xã hội hóa giáo dục là phương thức phát triển giáo dục tiến đến một xã hội học
tập.
6) Phát triển dịch vụ giáo dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống giáo
dục là một trong các động lực phát triển giáo dục.
7) Giáo dục phải đảm bảo chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí còn hạn hẹp.
2.2. Mục tiêu phát triển giáo dục
1) Mục tiêu tổng thể phát triển giáo dục đến năm 2020
Xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, làm nền tảng cho
sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển bền vững của đất nước; thích ứng với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo cơ hội học tập cho mọi người và có khả năng hội
nhập với nền giáo dục thế giới; đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước bao
gồm những người lao động Việt Nam có phẩm chất đạo đức, kiến thức và kỹ năng nghề
nghiệp của thời đại, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, có ý thức làm chủ và tinh thần
trách nhiệm.
Nâng cao vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng thế giới, đến năm 2020, số năm đi
học bình quân của Việt Nam là khoảng 13, chỉ số giáo dục của Việt Nam (EI) đạt mức
khoảng 0,900, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức khoảng 0,800.
2) Các mục tiêu cụ thể về phát triển giáo dục
1) Quy mô giáo dục được phát triển hợp lý chuẩn bị nguồn nhân lực cho đất
nước thời kỳ CNH, HĐH và tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người dân.
2) Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo được nâng cao, tiếp cận được
với chất lượng giáo dục của khu vực và quốc tế.

3) Các nguồn lực cho giáo dục được huy động đủ, phân bổ và sử dụng có
hiệu quả để đảm bảo điều kiện phát triển giáo dục
3) Mục tiêu phát triển giáo dục phổ thông
- Tỷ lệ trẻ đi học đúng độ tuổi được nâng cao và duy trì. Đến 2020 có 98% trẻ
trong độ tuổi tiểu học, 95% trẻ trong độ tuổi THCS và 70% trẻ khuyết tật được đến
trường.
- Đến năm 2010 có 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn về phổ cập giáo dục 9 năm.
Đến 2020 có 80% thanh niên Việt Nam trong độ tuổi đạt trình độ học vấn tương đương
trung học phổ thông.
- Mạng lưới trường phổ thông được phát triển khắp toàn quốc. Củng cố và mở
rộng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú. Phát triển giáo dục hoà nhập trẻ khuyết
tật trong phạm vi toàn quốc.
2.3. Các giải pháp phát triển giáo dục
1) Giải pháp đổi mới quản lý giáo dục;
2) Giải pháp xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
3) Nhóm pháp về chương trình và tài liệu giáo dục;
4) Giải pháp về đổi mới PPDH, kiểm tra đánh giá kết quả học tập;
5) Giải pháp về kiểm định và đánh giá các cơ sở giáo dục;
6) Giải pháp xã hội hóa giáo dục;
7) Giải pháp tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục;
8) Giải pháp gắn đào tạo với nhu cầu xã hội;
9) Nhóm giải pháp hỗ trợ đối với các vùng miền và người học;
Kết luận phần 2
- Đảng và Nhà nước nhận thức rõ tính tất yếu và sự cần thiết phải đổi mới giáo dục
nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng.
- Đảng và Nhà nước đã quyết tâm đổi mới giáo dục và sự đổi mới đó thể hiện không
những ở các quan điểm chỉ đạo mà còn thể hiện tại các mục tiêu và đặc biệt là các giải
pháp phát triển giáo dục;
- Từ các nội dung của Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020, Hiệu trưởng
trường phổ thông đã có tầm nhìn tổng thể về phát triển giáo dục, phát triển giáo dục phổ

thông, có các điều kiện để đảm bảo cho tiến trình đổi mới lãnh đạo và quản lý nhà
trường.
3. Hiệu trưởng trường phổ thông: người lãnh đạo và quản lý nhà trường
3.1. Nhìn nhận từ các quan điểm và mô hình mới về quản lý nhà trường
3.1.1. Lựa chọn mô hình quản lý
 So sánh hai quan điểm về quản lý nhà trường
Quan điểm cũ Quan điểm mới
1. Quản lý bằng mệnh lệnh hành chính 1. Quản lý bằng pháp luật
2. Cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp
3. Phương thức 1 chiều, từ trên xuống
2. Cơ chế phân cấp, dân chủ, tự chủ tự
chịu trách nhiệm
3. Phương thức tương tác, lấy nhà trường
làm trung tâm
 So sánh hai mô hình quản lý nhà trường
Mô hình cũ Mô hình mới
Ít chú ý đến khía cạnh lãnh đạo để
thay đổi nhà trường.
- Tập trung nhiều hơn vào lãnh đạo thay đổi để
phát triển nhà trường.
Chưa xây dựng rõ tầm nhìn, sứ mạng,
các giá trị và các chương trình hành
động.
- Nhà trường là nơi quyết định: tầm nhìn, sứ
mạng, tạo giá trị, xây dựng và thực hiện các
chương trình hành động phát triển nhà trường.
Quản lý nhà trường chưa chú ý đến
phát triển năng lực, động lực của giáo
viên, học sinh. Chưa thực sự chú ý đến
kỹ năng nhận thức và kĩ năng xã hội

của người học.
- Học sinh là ưu tiên hàng đầu, giáo viên là nhân
tố hàng đầu. Chú ý đến rèn luyện tư duy,
phương pháp giải quyết vấn đề và giáo dục kỹ
năng nhận thức và kỹ năng xã hội.
Chờ đợi sự chỉ đạo từ cơ quan quản lý
cấp trên.
- Tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội về các vấn đề
cơ bản: tổ chức & nhân sự, dạy học & giáo dục,
tài chính & tài sản, huy động cộng đồng.
Truyền đạt một chiều, mục tiêu kế
hoạch có tính áp đặt.
Đa chiều, nhiều luồng thông tin, tự xây dựng
các mục tiêu kế hoạch.
3.1.2. Nhận định về quan điểm và mô hình quản lý mới :
- Việt Nam cùng với nhiều nước khác trên thế giới đã nhận thức được phải đổi
mới quan điểm và phải thực hiện một mô hình quản lý mới đối với các nhà trường .
- Quan điểm mới về quản lý nhà trường là quan điểm hiện đại và phù hợp với
thực tiễn phát triển KT-XH và phát triển giáo dục trong thời đại hội nhập, kinh tế tri thức
và phát triển KH&CN.
- Mô hình mới thể hiện rõ hơn các vai trò của hiệu trưởng là tập trung vào lãnh
đạo để phát triển nhà trường, quan tâm đến tầm nhìn sứ mạng, tạo giá trị, xây dựng và
thực hiện các chương trình hành động phát triển nhà trường, phải tự chủ và chịu trách
nhiệm xã hội về các vấn đề cơ bản: tự xây dựng các mục tiêu kế hoạch, tổ chức & nhân
sự, dạy học & giáo dục, tài chính & tài sản, huy động cộng đồng với luồng thông tin đa
chiều, nhiều luồng.
3.1.3. Xây dựng mô hình trường học thân thiện và học sinh tích cực
- 2 mục tiêu xây dựng mô hình trường học thân thiện và học sinh tích cực.
- 5 yêu cầu xây dựng mô hình trường học thân thiện và học sinh tích cực.
- 5 nội dung xây dựng mô hình trường học thân thiện và học sinh tích cực.

3.2. Nhìn nhận từ căn cứ pháp lý và chính sách phát triển KT-XH và phát triển
giáo dục
- Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đã định hướng rõ như: Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam; Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 – 2010 và Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020 (Dự thảo).
- Cơ sở pháp lý khác:
+ Các Luật mà Quốc hội đã thông qua;
+ Luật Giáo dục 2005: Điều 14 & Điều 58
+ Nghị định 43/2006/NĐ-CP (ngày 25 tháng 4 năm 2006 quy định quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập);
- Cơ chế mới về quản lý KT-XH nước nhà và các hiệp ước quốc tế có liên quan.
Các căn cứ pháp lý chủ yếu trên đều định hướng cho người hiệu trưởng trường phổ
thông vừa có trách nhiệm lãnh đạo và vừa có trách nhiệm quản lý để phát triển nhà
trường.
3.3. Các vai trò lãnh đạo và quản lý của người hiệu trưởng trường phổ thông
Trong quản lý trường phổ thông, để thực hiện hiệu quả các chức năng cơ bản của
quản lý (kế hoach hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra) thì người Hiệu trưởng phải thể hiện
được các vai trò chủ yếu:
+ Đại diện cho chính quyền về mặt thực thi pháp luật chính sách, điều lệ, quy
chế giáo dục và thực hiện các quy định về mục tiêu, nội dung, chương trình, phương
pháp, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông.
+ Hạt nhân thiết lập bộ máy tổ chức, phát triển, điều hành đội ngũ nhân lực,
hỗ trợ sư phạm và hỗ trợ quản lý cho đội ngũ nhân lực giáo dục của nhà trường để mọi
hoạt động của trường thực hiện đúng tính chất, nguyên lý, mục tiêu, nội dung, chương
trình, phương pháp giáo dục.
+ Người chủ chốt trong việc tổ chức huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực vật chất nhằm đáp ứng các hoạt động giáo dục và dạy học của nhà trường .
+ Tác nhân xây dựng mối quan hệ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia
đình và xã hội nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của nhà trường trong một môi trường

lành mạnh; đồng thời tổ chức vận hành hệ thống thông tin quản lý giáo dục (Educational
Managenent Information System - EMIS) và ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt
động giáo dục và quản lý giáo dục của nhà trường.
Nhưng người hiệu trưởng cũng không thể thiếu được các vai trò lãnh đạo:
+ Chỉ đường và hoạch định: vạch ra tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu và các giá
trị nhà trường (xây dựng chiến lược phát triển nhà trường);
+ Đề xướng sự

thay đổi: chỉ ra những lĩnh vực cần thay đổi để phát triển nhà
trường theo đường lối và chính sách phát triển GD&ĐT của Đảng và Nhà nước.
+ Thu hút, dẫn dắt: tập hợp, thu hút, huy động và phát triển các nguồn lực để
tạo ra sự thay đổi, lập kế hoạch chiến lược phát triển, phát triển đội ngũ, nhằm phát
triển toàn diện học sinh.
+ Thúc đẩy phát triển:

đánh giá, uốn nắn, khuyến kích, phát huy thành tích,
tạo các giá trị mới cho nhà trường.
Từ đó nhận thấy, ngoài vai trò là một nhà giáo, hiệu trưởng trường phổ thông có vai
trò kép: nhà lãnh đạo và nhà quản lý !
Kết luận phần 3
Phải khẳng định rằng người hiệu trưởng trường phổ thông có vai trò kép là lãnh đạo
và quản lý. Trong đó:
- Lãnh đạo để luôn có được sự thay đổi và phát triển bền vững.
- Quản lý để các hoạt động có sự ổn định nhằm đạt tới mục tiêu.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã đặc biệt quan tâm đến vai trò lãnh đạo
của người hiệu trưởng và tập trung vào lãnh đạo sự thay đổi trong nhà trường.
4. Những vấn đề then chốt trong đổi mới lãnh đạo và quản lý nhà trường phổ
thông
4.1. Lãnh đạo và quản lý sự thay đổi ở trường phổ thông
- Một số vấn đề về sự thay đổi (Thay đổi là gì?, Vì sao có sự thay đổi đối với

trường phổ thông, );
- Hoạch định sự thay đổi ở trường phổ thông (dự báo sự thay đổi ở trường phổ
thông, xác định các mục tiêu thay đổi, xác định những khoảng cách, Xác định nhu
cầu thay đổi;
- Tổ chức thực hiện sự thay đổi;
- Củng cố sự thay đổi.
4.2. Lập kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường phổ thông
- Khái niệm kế hoạch chiến lược và các khái niệm liên quan (tầm nhìn, sứ mạng,
giá trị, mục tiêu và giải pháp chiến lược);
- Cấu trúc của bản kế hoạch chiến lược trường phổ thông;
- Vai trò của Hiệu trưởng trong xây dựng kế hoạch chiến lược nhà trường;
- Quy trình xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường phổ thông.
4.3. Phát triển đội ngũ nhà trường phổ thông
- Vai trò của đội ngũ đối với sự thay đổi nhà trường.
- Thực trạng đội ngũ và thực trạng phát triển đội ngũ nhà trường phổ thông.
- Yêu cầu mới về chất lượng đội ngũ nhà trường phổ thông.
- Lãnh đạo đạo phát triển đội ngũ trường phổ thông (Xây dựng kế hoạch, thu hút
đội ngũ có chất lượng, hỗ trợ phát triển chuyên môn và nhân cách, xây dựng nhà
trường thành tổ chức học tập, tạo động lực cho đội ngũ).
4.4. Xây dựng và phát triển văn hoá nhà trường phổ thông
- Vai trò, tầm quan trọng của việc vun trồng văn hóa nhà trường.
- Vai trò lãnh đạo phát triển văn hóa nhà trường của hiệu trưởng.
- Định hình hệ thống các giá trị cốt lõi để phát triển văn hoá nhà trường.
- Các mối quan hệ giao tiếp ứng xử.
- Chia sẻ kinh nghiệm xây dựng, phát triển văn hoá nhà trường lành mạnh, tích cực.
4.5. Huy động nguồn lực giáo dục
- Tổng quan về nguồn lực giáo dục.
- Vai trò của Hiệu trưởng trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực phát
triển trường phổ thông.
- Một số giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực giáo dục.

- Thực hành đề án huy động và sử dụng các nguồn lực phát triển nhà trường phổ
thông.
4.6. Phát triển giáo dục toàn diện học sinh
- Quan niệm về phát triển giáo dục toàn diện học sinh phổ thông.
- Lãnh đạo và quản lý hoạt động dạy học.
- Lãnh đạo và quản lý hoạt động giáo dục.
- Phát triển năng lực lãnh đạo.
- Xây dựng nhà trường hiệu quả góp phần phát triển giáo dục toàn diện học sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Giáo dục (2005)
2. Chính phủ Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nghị định 43/2006/ND-CP
(ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập);
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục đến 2020.
4. Học viện Quản lý giáo dục (Nhóm biên soạn chuẩn hiệu trưởng trường THPT và
THCS, 2008): Chuẩn hiệu trưởng trường phổ thông trung học
5. Đặng Quốc Bảo, Nhà trường - một góc nhìn từ truyền thống đến hiện đại và việc
đào tạo, bồi dưỡng người hiệu trưởng nhà trường thời đại mới (Hội thảo “Giải pháp bồi
dưỡng Hiệu trưởng và cán bộ quản lý trường phổ thông, Học viện Quản lý giáo dục,
2008).
6. Phạm Đỗ Nhật Tiến, Bài toán Hiệu trưởng trong đổi mới quản lý trường phổ thông
(Hội thảo “Giải pháp bồi dưỡng Hiệu trưởng và cán bộ quản lý trường phổ thông” của
Học viện Quản lý giáo dục, 2008).
7. National Institute Education (NIE): Singapore’s School Excellence Model
8. Training course for national trainers on developping and delivering school on the
cooperation of Vietnam and Singapore 2008, Supported by Temasek Foundation
(Singapore) and SREM (MOET – Vietnam): Supported by Temasek Foundation
(Singapore) and SREM (MOET – Vietnam).

×