Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
==oo0oo==
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. SƠ YẾU LÝ LỊCH
Họ và Tên : Cấn Thị Thanh Lý
Ngày tháng năm sinh : 21/10/1981
Năm vào ngành : 2005
Chức vụ và đơn vị công tác : Giáo viên trường THCS Đông Yên - Quốc
Oai - Hà Tây
Trình độ chuyên môn : Cao đẳng sư phạm
Chuyên ngành : Địa - Hoá
Hệ đào tạo : Chính quy
Trình độ chính trị :
Trình độ ngoại ngữ :
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
1
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Tên đề tài: "Sử dụng bản đồ trong dạy học Địa Lí"
2. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của khoa học kỹ thuật
đòi hỏi phải có một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và tự chủ. Do đó trong giáo
dục không ngừng đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học và cải
tiến phương tiện dạy học để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Trong điều
kiện phát triển của các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở
rộng giao lưu, học sinh được tiếp cận nhiều nguồn thông tin đa dạng phong phú
từ nhiều mặt của cuộc sống, có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn.
Trong học tập, họ không thoả mãn với vai trò của người tiếp thu thụ động không
chỉ chấp nhận các giải pháp đã có sẵn được đưa ra. Như vậy, ở lứa tuổi này nảy
sinh một số yêu cầu và cũng là một quá trình: sự lĩnh hội độc lập các tri thức và
phát triển kĩ năng. Nhưng các phương thức học tập tự lập ở học sinh nếu muốn
được hình thành và phát triển một cách có chủ định thì cần thiết phải có sự
hướng dẫn của giáo viên với các phương tiện dạy học trực quan.
Trong số các phương tiện dạy học trực quan của môn địa lí, bản đồ là
phương tiện cần thiết và gần gũi nhất với học sinh. Bản đồ Địa lí là hình vẽ thu
nhỏ toàn bộ bề mặt Trái đất hoặc một số bộ phận của bề mặt Trái đất trên mặt
phẳng dựa vào các phương pháp Toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu
để thể hiện các thông tin về Địa lí. Bản đồ có khả năng phản ánh sự phân bố và
những mối quan hệ của các đối tượng Địa lí trên bề mặt Trái đất một cách cụ
thể mà không một phương tiện nào có thể thay thế được. Do đó, bản đồ vừa là
phương tiện trực quan, vừa là nguồn tri thức quan trọng trong việc dạy học Địa
lí. Bản đồ là cuốn SGK thứ 2 của Địa lí, đồng thời sử dụng bản đồ cũng là một
phương pháp đặc trưng trong dạy học Địa lí. Chính vì vậy, tôi đã nghiên cứu và
viết một số kinh nghiệm về vấn đề “ Sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí”
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
2
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
3. Phạm vi và thời gian thực hiện đề tài:
- Pham vi: học sinh của các lớp 6D, 7D, 8D, 9D trường THCS Đông Yên -
Quốc Oai – Hà tây.
- Thời gian: Năm học 2007 – 2008
III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
A. Khảo sát thực tế:
1. Tình trạng thực tế trước khi thực hiện:
Trong quá trình giảng dạy nhiều năm ở tất cả các khối lớp, tôi nhận thấy:
Trong chương trình Địa lí, ngoài một số bài học về bản đồ ở lớp 6, không có bài
học nào dành riêng cho việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh.
Chính vì vậy mà rất nhiều học sinh dường như không biết cách sử dụng bản đồ
với mỗi bản đồ treo tường trên lớp có nhiều em chưa biết đâu là các hướng
Bắc – Nam – Tây – Đông, các em không biết cách khai thác kiến thức từ bản
đồ. Do vậy kiến thức các em tiếp thu được sau mỗi tiết học là không chắc chắn
hay nói đơn giản là “ học vẹt” nên rất nhanh quên. Đến các bài thực hành phải
làm việc nhiều với bản đồ, thì các em thấy rất khó khăn và lúng túng, nhiều em
chỉ nói và làm theo bạn bè mà không hiểu gì cả.
2. Số liệu điều tra cụ thể trước khi thực hiện đề tài:
Mức độ
Chưa biết sử dụng Biết sử dụng Sử dụng tốt
SL % SL % SL %
6D ( 30hs) 20 66.6 5 16.7 5 16.7
7D (30hs) 18 60 4 13.3 8 26.7
8D (30hs) 15 50 5 16.7 10 33.3
9D (30hs) 15 50 6 20 9 30
B. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Tìm hiểu đối tượng học sinh
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu học sinh tôi nhận thấy: nhìn chung
học sinh rất thích với những tiết học có bản đồ vì các em được tận mắt nhìn thấy
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
3
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
phương hướng, địa điểm, địa hình, sông ngòi…các em học say sưa, hứng thú và
giờ học có kết quả cao. Học sinh được tự mình lên bảng cầm que để xác định,
chỉ trên bản đồ. Sau những giờ học có bản đồ, phần đông học sinh nắm chắc
kiến thức.
2. Tổ chức thực hiện đề tài:
Phương pháp sử dụng bản đồ là phương pháp dạy học truyền thống đặc
trưng cho môn Địa lí ở trường phổ thông. Do bản đồ vừa có chức năng minh
hoạ, vừa có chức năng là nguồn tri thức, nên trong dạy học giáo viên cần phải
biết kết hợp chặt chẽ giữa việc giúp học sinh tìm tòi, lĩnh hội kiến thức với việc
hình thành, phát triển kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh qua từng bài học.
Muốn làm được điều này giáo viên không nên sử dụng bản đồ như một phương
tiện minh hoạ mà phải sử dụng bản đồ như một nguồn tri thức Địa lí quan trọng
để từ đó học sinh khai thác kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Đồng thời, bản đồ phải
được sử dụng thường xuyên trong mọi khâu của quá trình dạy học, từ bài học
mới đến ôn tập, kiểm tra, đánh giá kiến thức kỹ năng.
Để giúp học sinh có khả năng làm việc độc lập với bản đồ, trong quá trình
dạy học, giáo viên phải chú trọng việc hình thành và phát triển ở học sinh một
số kĩ năng sử dụng bản đồ như: xác định phương hướng, tìm và chỉ vị trí các đối
tượng Địa lí trên bản đồ, mô tả một đối tượng Địa lí dựa vào bản đồ …
a. Rèn luyện kỹ năng xác định phương hướng trên bản đồ
- Xác định phương hướng một cách chính xác trên bản đồ là một kỹ năng
cơ bản và rất quan trọng. Việc xác định vị trí Địa lí hoặc mô tả một đối tượng
Địa lí trên bản đồ, sẽ trở nên khó khăn hoặc sai lệch nếu không nắm chắc được
cách xác định phương hướng trên bản đồ.
- Muốn hình thành và phát triển kỹ năng xác định phương hướng cho học
sinh, công việc đầu tiên giáo viên phải làm là yêu cầu học sinh thuộc và nhớ các
quy định về phương hướng trên bản đồ. Với những bản đồ tỉ lệ lớn, người ta
thường quy ước, phía trên bản đồ là hướng Bắc, phía dưới là hướng Nam, bên
phải là hướng Đông, bên trái là hướng Tây. Sau đó giáo viên có thể hướng dẫn
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
4
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
học sinh dựa vào các đường kinh tuyến, vĩ tuyến trên bản đồ để xác định
phương hướng. Giáo viên chỉ cần giới thiệu để học sinh chấp nhận là trên bản
đồ thường có những đường kẻ dọc và kẻ ngang. Đường kẻ dọc là kinh tuyến,
đường kẻ ngang là vĩ tuyến. Đầu phía trên của kinh tuyến là hưóng Bắc, đầu
dưới là hướng Nam. Đầu bên phải của vĩ tuyến là hướng Đông, đầu bên trái của
vĩ tuyến là hướng Tây. Khi đã biết bốn hướng chính thì cũng có thể tìm ra các
hướng phụ khác trên bản đồ, ví dụ: giữa Bắc và Đông là Đông Bắc, giữa Đông
và Nam là Đông Nam…
Để đạt hiệu quả cao trong việc rèn luyện kỹ năng xác định phương hướng
của học sinh, giáo viên nên đưa ra các dạng bài tập dưới nhiều hình thức khác
nhau như điền từ vào chỗ trống (…), lựa chọn đúng sai, đi du lịch trên bản đồ
theo một số tuyến nhất định…với nhiều góc độ khác nhau, lặp đi lặp lại nhiều
lần trên cơ sở yêu cầu học sinh quan sát một nd cụ thể. Ngoài ra việc rèn luyện
kỹ năng xác định phương hướng cho học sinh phải đựoc tiến hành thường
xuyên trong quá trình học tập môn Địa lí.
b. Rèn luyện kĩ năng tìm và chỉ cị trí Địa lí của các đối tượng Địa lí trên bản
đồ
- Vị trí Địa lí của một đối tượng nào đó là mối quan hệ không gian của nó
với các đối tượng khác có liên quan nằm ở bên ngoài nó, ví dụ: như một dãy
núi, một con sông…
- Khi hình thành kỹ năng tiùm và chỉ vị trí của các đối tượng Địa lí trên
bản đồ giáo viên chỉ cần đưa ra các bài tập yêu cầu học sinh dựa vào bảng chú
giải và các kí hiệu, chữ viết trên bản đồ để xác định vị trí của một đối tượng nào
đó, ví dụ: dựa vào bản đồ hành chính Việt Nam, hãy tìm và chỉ vị trí của thủ đô
Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Hoặc dựa vào bản đồ tự nhiên Việt Nam hãy tìm và chỉ vị trí của sông
Hồng, dãy núi Hoàng Liên Sơn…
- Điều đáng lưu ý ở đây là giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách chỉ vị
trí một đối tượng trên bản đồ như thế nào cho đúng. Chẳng hạn: khi chỉ vị trí
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
5
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
của một dòng sông, học sinh phải chỉ xuôi theo dòng chảy từ thượng nguồn đến
hạ nguồn chứ không chỉ theo hướng ngựơc lại hoặc chỉ vào một điểm trên sông.
Khi chỉ vị trí của một thành phố, thị xã thì phải chỉ vào kí hiệu thể hiện thành
phố thị xã chứ không chỉ vào chữ ghi tên thành phố, thị xã. Khi chỉ về vùng
lãnh thổ ( một tỉnh, khu vực, quốc gia…) thì phải chỉ theo đường biên giới khép
kín của vùng lãnh thổ đó.
- Một trong những biện pháp nhằm giúp cho học sinh nhanh chóng tìm ra
vị trí của các đối tượng địa lí trên bản đồ là: giáo viên lưu ý học sinh nên chú ý
tới một số dấu hiệu đặc trưng, dễ nhận biết về hình dáng, kích thước của đối
tượng. Ví dụ: lãnh thổ phần đất liền Việt Nam có hình dạng chữ S, đồng bằng
sông Hồng có dạng giống như một tam giác, dãy núi Hymalaya có hình giống
con hươu…ngoài ra, giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh nên dựa vào toàn
bộ khung cảnh để nhận rõ vị trí của đối tượng trong khung cảnh đó; nghĩa là:
học sinh phải nhớ một số đối tượng Địa lí xung quanh làm điểm tựa để nhanh
chóng tìm ra vị trí Địa lí của đối tượng cần tìm. Chẳng hạn muốn tìm vị trí địa lí
của dãy Hoàng Liên Sơn, thì ngoài việc nhớ đặc điểm về độ cao (đây là dãy núi
cao nhất của Việt Nam), học sinh cần nhớ được vị trí của dãy núi này nằm giữa
sông Hồng và sông Đà. Như vậy, muốn tìm vị trí của dãy Hoàng Liên Sơn trên
bản đồ thì học sinh phải tìm được sông Hồng, sông Đà. Ngược lại, nếu biết vị trí
của dãy Hoàng Liên Sơn thì học sinh cũng dễ dàng tìm được vị trí của sông
Hồng, sông Đà trên bản đồ (vì sông Hồng có vị trí nằm ở phía đông Hoàng Liên
Sơn, còn sông Đà có vị trí nằm ở phía Tây Hoàng Liên Sơn ). Một ví dụ khác,
nếu học sinh biết được vị trí của đèo Hải Vân thì học sinh cũng dễ dàng tìm
được vị trí của hai thành phố Hếu và Đà Nẵng ( vì Hếu ở phía bắc và Đà Nẵng ở
phía nam đèo Hải Vân). Tương tự như vậy nếu biết vị trí của Hếu thì cũng tìm
được vị trí của Đà Nẵng.
c. Rèn luyện kĩ năng đọc bản đồ.
Giáo viên cần hiểu: Đọc bản đồ không phải là đọc các chữ ghi trên bản đồ
mà là một quá trình tìm hiểu kiến thức Địa lí chứa đựng trong các kí hiệu trên
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
6
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
bản đồ, ở các mức độ cao, thấp khác nhau, tuỳ theo đối tượng và mục đích sử
dụng.
Đọc bản đồ có 3 mức độ:
- Mức độ 1: Học sinh chỉ cần dựa vào kí hiệu ở bản chú giải, chỉ và đọc
tên các đối tượng địa lí trên bản đồ (đây là Hà Nội, kia là Hải Phòng, đây là
sông Hồng, kia là sông Gâm…)
- Mức độ 2: Học sinh dựa vào bản đồ để tìm ra các đặc điểm của đối
tượng địa lí. Ví dụ: Vị trí của núi ở đâu ? Núi cao hay thấp ? Núi có hướng gì ?
- Mức độ 3: Học sinh vận dụng các kiến thức địa lí đã có xác lập mối
quan hệ địa lí để rút ra những điều mà trên bản đồ không trực tiếp thể hiện; khi
hướng dẫn học sinh sử dụng bản đồ, giáo viên cần giúp học sinh nắm được các
bước tiến hành đọc bản đồ từ đơn giản đến phức tạp.
Chẳng hạn, muốn đọc được bản đồ ở mức độ 1, học sinh cần phải đi theo các
bước sau:
+ Nắm được mục đích của việc làm hay yêu cầu của giáo viên.
Ví dụ: Tìm vị trí của các đồng bằng miền trung trên bản đồ tự nhiên Việt Nam.
+ Đọc bản chú giải để biết kí hiệu của đối tượng cần tìm.
+ Căn cứ vào kí hiệu, chữ viết để tìm vị trí các đối tượng trên bản đồ.
(Ở đây là tìm vị trí các đồng bằng miền trung ).
Sang mức độ 2, học sinh cần thực hiện thêm một bước nữa.
+ Dựa vào bản đồ nhận xét, đối chiếu, so sánh…để tìm ra đặc điểm của
đối tượng ( cụ thể ở ví dụ trên là: so sánh, đối chiếu độ lớn của các đồng bằng
miền trung với các đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu long để nêu đặc
điểm: các đồng bằng miền trung đều nhỏ, hẹp )
Tới mức độ 3, học sinh phải thực hiện tới bước thứ năm; đó là: Xác lập các mối
quan hệ giữa kiến thức địa lí đã có với những kiến thức trên bản đồ để lí giải vì
sao các đồng bằng miền trung đều nhỏ, hẹp. ( Cụ thể, học sinh phải xác lập mối
quan hệ giữa địa hình với sông ngòi để nêu được ý: vì dãy Trường Sơn tiến sát
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
7
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
ra biển, các sông miền trung đều nhỏ, ngắn, ít phù sa, nên các đồng bằng miền
trung có đặc điểm là nhỏ, hẹp)
Trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc bản đồ, giáo viên nên kết hợp
việc rèn luyện kĩ năng mô tả các đối tượng địa lí dựa vào bản đồ như mô tả về
một dãy núi, một dòng sông, một vùng đất…Muốn cho học sinh biết cách mô tả
về một đối tượng địa lí nào đó, giáo viên nên đưa ra dàn ý nói về những nội
dung cần mô tả cho học sinh hiểu. Ví dụ: khi mô tả về một dòng sông, học sinh
phải mô tả lần lượt theo các ý: sông bắt nguồn từ đâu ? Đổ nước ra đâu ? Sông
chảy theo hướng nào ? Sông dài bao nhiêu km? Đây là sông lớn hay nhỏ?
3. Một số điểm cần lưu ý để nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy
học:
- Sử dụng bản đồ thường xuyên trong giờ học, ngay từ những bài học đầu
tiên, luyện tập cho học sinh sử dụng bản đồ tuần tự các bước, từ thấp lên cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó.
- Sử dụng nhiều bản đồ trong một bài học, tiết học, kết hợp với sự chỉ dẫn
cụ thể, tránh rơi vào suy diễn máy móc. Chẳng hạn: nơi màu xanh là đồng bằng
phù xa, nơi màu vàng là núi…
- Không chỉ sử dụng bản đồ trong nghiên cứu bài mới, mà cả trong ôn
tập, kiểm tra, ra bài tập về nhà, bài thực hành, tham quan, ngoại khoá…
- Bản đồ phải có nội dung phù hợp với bài giảng, tránh khập khiễng.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH, ĐỐI CHỨNG.
Qua quá trình nghiên cứu và thực tế áp dụng phương pháp sử dụng bản
đồ trong dạy học địa lí trong năm học 2007 – 2008 ở trường THCS Đông Yên -
Quốc Oai – Hà Tây, tôi đã có kết quả như sau:
Mức độ
Chưa biết sử dụng Biết sử dụng Sử dụng tốt
SL % SL % SL %
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
8
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
6D ( 30hs) 5 16.7 10 33.3 15 50
7D (30hs) 4 13.3 6 20 20 66.7
8D (30hs) 3 10 5 16.7 22 73.3
9D (30hs) 2 6.7 6 20 22 73.3
So sánh với kết quả khi chưa thực hiện đề tài tôi nhận thấy: Nhìn chung ở
cả 4 khối lớp tỷ lệ học sinh biết sử dụng thành thạo bản đồ trong học tập địa lí
tăng lên rõ rệt; số học sinh chưa biết sử dụng còn lại rất ít. Do đó, kết quả học
tập của các em ở học kỳ II cũng cao hơn nhiều so với học kỳ I.
V. NHỮNG KIẾN NGHỊ SAU QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Để giúp giáo viên nhanh chóng có được tờ bản đồ khi lên lớp tôi đề nghị
các nhà trường nên có đội ngũ các bộ thư viện có trình độ chuyên môn sâu hơn
để giúp đỡ giáo viên trong việc chuẩn bị bản đồ. Nhà trường nên đầu tư về cơ sở
vật chất để học sinh có được những tiết thực địa, tham quan, ngoại khoá để học
sinh được hiểu biết sâu và rộng hơn, từ đó thêm yêu thích môn học.
Đông Yên, ngày 10 tháng 5 năm 2008
Tác giả
Cấn Thị Thanh Lý
Cấn Thị Thanh Lý THCS Đông Yên
9