Khoá luận tốt nghiệp
Lu n v n t t nghi pậ ă ố ệ
Đề tài: Phân tích và định lượng thành phần hóa
học của tinh dầu thân rễ nghệ vàng ở Thanh Hóa
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
1
Khoá luận tốt nghiệp
Lời cảm ơn
Để hoàn thành đề tài này, tôi xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Hường
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Hoá học - khoa Khoa học tự
nhiên - trường Đại học Hồng Đức đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài.
Cảm ơn trung tâm giáo dục và phát triển sắc ký Việt Nam (EDC Việt Nam)
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài này.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
2
Khoá luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
Trang
Phần A: Mở đầu. 5
I. Lý do chọn đề tài
5
II. Mục đích nghiên cứu 6
III. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
IV. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 7
V. Giả thuyết khoa học 7
VI. Phương pháp nghiên cứu 7
VII. Tính mới mẻ của đề tài 7
Phần B: Nội dung 9
Chương I: Tổng quan 9
1. Sơ lược về thực vật, thành phần hoá học và ứng dụng của tinh dầu
họ Gừng 9
1.1. Phân loại khoa học 10
1.2. Hệ thống phân loại 10
1.3. Sơ lược về các cây thuộc họ Gừng ở nước ta 10
2. Vài nét chung về thực vật và thành phần thân rễ cây nghệ vàng 20
2.1. Vài nét chung về thực vật cây nghệ vàng 20
2.2. Thành phần hoá học thân rễ cây nghệ vàng 21
3. Vài nét chung về tinh dầu 22
3.1. Phân loại tinh dầu 22
3.2. Trạng thái thiên nhiên và phân bố 23
3.3. Tính chất vật lý của tinh dầu 23
3.4. Thành phần hóa học của tinh dầu 24
4. Một số nét cơ bản về lý thuyết sắc ký và phương pháp khôí phổ 25
4.1. Lý thuyết cơ bản về sắc ký 25
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
3
Khoá luận tốt nghiệp
4.2. Lý thuyết sắc kí phân giải cao 27
4.3. Một số nét cơ bản về phương pháp phổ khối lượng 29
5. Xác định thành phần tinh dầu theo phương pháp dược điển Việt Nam 34
5.1. Phương pháp thu hái và bảo quản mẫu 34
5.2. Định lượng tinh dầu 34
6. Phương pháp xác định thành phần hoá học của tinh dầu 35
6.1. Phân tích trên máy sắc ký PACKARD – 428 35
6.2. Phương pháp sắc ký khí khối phổ ký liên hợp 36
Chương II. Thực nghiệm 37
1. Lấy mẫu 37
1.1. Địa điểm và điều kiện lấy mẫu 37
1.2. Cách bảo quản và chưng cất 37
2. Chưng cất tinh dầu 38
3. Chiết và bảo quản tinh dầu 38
4. Nghiên cứu thành phần hoá học tinh dầu bằng phương pháp sắc ký
phân giải cao GC – MS 39
Chương III: Kết quả và thảo luận 40
I. Kết quả chưng cất tinh dầu thân rễ nghệ vàng 40
II. Thành phần hoá học của tinh dầu thân rễ nghệ vàng 43
Phần C: Kết luận 57
Tài liệu tham khảo 58
Phụ lục
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
4
Khoá luận tốt nghiệp
Phần A: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Khí hậu Việt Nam thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây
thuốc. Cho tới nay có khoảng 12000 loài thực vật được phát hiện, trong đó các
loài được sử dụng làm thuốc chiếm khoảng 26-30%. Từ các chất có hoạt sinh
học có nguồn gốc thiên nhiên, người ta tìm cách biến đổi cấu trúc hóa học của
chúng thành các chất có hoạt tính sinh học mới cao hơn, ưu việt hơn những loại
thuốc sản xuất hoàn toàn bằng con đường tổng hợp. Vì vậy, việc nghiên cứu các
hợp chất tự nhiên rất quan trọng trong đánh giá tài nguyên thiên nhiên nhằm sử
dụng chúng một cách có hiệu quả.
Cây nghệ vàng có tên khoa học là Curcuma longa Linn, thuộc họ Gừng
(Zingiberaceae) là một trong các loài cây cỏ có nhiều tác dụng. Không chỉ là
một loại gia vị quen thuộc trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình mà nó còn
được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh. Trong dân gian, nghệ đã được tin dùng
như phương thuốc hữu hiêụ để trị tụ huyết, máu cam, làm cao dán nhọt, thoa
chống vết thương tụ máu, làm mau lành vết sẹo, trị viêm gan, vàng da, đau dạ
dày, ghẻ lở, mụn nhọt… Trong Đông y, thân rễ nghệ gọi là khương hoàng, rễ
con gọi là uất kim thường dùng trị phong hàn, chậm có kinh, băng huyết, trị đau
bao tử do thiếu axit, trị loét dạ dày…Gần đây, các nhà khoa học còn phát hiện ra
nghệ có thể làm giảm tỉ lệ mắc ung thư như ung thư tuyến tiền liệt, phổi và ruột
kết nếu chế độ dinh dưỡng có nhiều chất nghệ. Tác dụng chống khối u có được
nhờ đặc tính chống oxi hóa của curcumin trong nghệ. Do đó nghiên cứu loài cây
này là rất cần thiết cho ngành công nghiệp dược. Ngoài ra, màu vàng của nghệ là
chất màu thiên nhiên được Dược điển công nhận với mã số E100 để nhuộm màu
thực phẩm, dược phẩm thay thế những chất màu tổng hợp.
Trên thế giới cây nghệ vàng đã được nghiên cứu từ lâu. Ở nước ta, cây nghệ
vàng cũng đã được nghiên cứu nhưng các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc
nghiên cứu hoạt chất curcumin trong thân rễ nghệ vàng. Tinh dầu nghệ cũng đã
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
5
Khoá luận tốt nghiệp
được nghiên cứu về thành phần hóa học. Tuy nhiên qua tham khảo các tài liệu
thì ở Thanh Hóa chưa có nghiên cứu nào về tinh dầu nghệ. Vì vậy, tôi đã lựa
chọn nghiên cứu đề tài: "Phân tích và định lượng thành phần hóa học của tinh
dầu thân rễ nghệ vàng ở Thanh Hóa" nhằm phân tích thành phần hóa học tinh
dầu thân rễ cây nghệ vàng và so sánh thành phần hóa học tinh dầu thân rễ cây
nghệ vàng ở các vùng miền, các mùa trong năm để góp phần vào việc nghiên
cứu và khai thác có hiệu quả cây nghệ vàng phục vụ cho ngành công nghiệp
dược phẩm, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
II. Mục đích nghiên cứu
1. Tìm hiểu cơ sở lí luận về tinh dầu.
2. Tìm hiểu các phương pháp xác định thành phần tinh dầu trong cây nghệ vàng.
3. Xác định thành phần tinh dầu thân rễ cây nghệ vàng trong địa bàn các huyện
Thọ Xuân, Triệu Sơn của tỉnh Thanh Hóa.
4. So sánh hàm lượng, thành phần tinh dầu trong thân rễ nghệ vàng ở các địa
phương và tìm ra nguyên nhân, giải pháp để tăng hàm lượng tinh dầu của thân rễ
cây nghệ vàng.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về tinh dầu: khái niệm, tính chất vật lý, tính chất
hóa học và thành phần hóa học của tinh dầu.
2. Nghiên cứu cơ sở lý luận về tinh dầu thân rễ cây nghệ vàng: đặc điểm và sự
phân bố của cây nghệ vàng, thành phần hóa học của tinh dầu thân rễ cây nghệ
vàng ở các vùng khác nhau.
3. Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp xác định thành phần hóa học
của tinh dầu.
4. Xác định thành phần tinh dầu thân rễ cây nghệ vàng ở các huyện Thọ Xuân,
Triệu Sơn ở tỉnh Thanh Hóa. So sánh hàm lượng và thành phần tinh dầu trong
thân rễ cây nghệ vàng ở các địa phương và tìm ra nguyên nhân giải pháp để tăng
hàm lượng tinh dầu của thân rễ cây nghệ vàng.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
6
Khoá luận tốt nghiệp
IV. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
1. Khách thể nghiên cứu:
Tinh dầu thân rễ cây nghệ vàng.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Thành phần tinh dầu thân rễ cây nghệ vàng ở các huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn
của tỉnh Thanh Hóa.
V. Giả thuyết khoa học
Thành phần hóa học của tinh dầu ở các huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn của tỉnh
Thanh Hóa giống nhau nhưng tỉ lệ % tinh dầu trong thân rễ cây nghệ vàng thì
khác nhau.
VI. Phương pháp nghiên cứu
1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Tôi sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu này để nghiên cứu tài liệu về cây
nghệ vàng, sơ lược về tinh dầu, các phương pháp xác định thành phần tinh
dầu… nhằm giải quyết nhiệm vụ của đề tài.
2. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Sử dụng phương pháp này, tôi thu thập ý kiến khoa học của các giảng viên
của trường đại học Hồng Đức, các ý kiến trên các trang webside hóa học để bổ
trợ thêm cho đề tài nghiên cứu.
3. Phương pháp toán học
Sử dụng phương pháp này để xử lý kết quả thực nghiệm, tăng độ tin cậy của
các kết quả nghiên cứu.
4. Phương pháp sắc ký phổ
Tôi sử dụng phương pháp này nhằm phân tích mẫu thực nghiệm thu được tìm
ra được thành phần hóa học của tinh dầu nhằm giải quyết nhiệm vụ của đề tài.
VII. Tính mới mẻ của đề tài
So sánh hàm lượng thành phần tinh dầu trong thân rễ cây nghệ vàng ở các
huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn ở tỉnh Thanh Hóa và tìm ra nguyên nhân giải
pháp để tăng hàm lượng tinh dầu của thân rễ cây nghệ vàng.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
7
Khoá luận tốt nghiệp
Phần B: NỘI DUNG
Chương I. TỔNG QUAN
1. Sơ lược về thực vật, thành phần hoá học và ứng dụng của tinh dầu họ
Gừng (Zingiberaceae)
Họ Gừng (danh pháp khoa học: Zingiberaceae), là một họ của thảo mộc
sống lâu năm với các thân rễ bò ngang hay tạo củ thuộc loài thực vật một lá
mầm. Họ Gừng theo các định nghĩa khác nhau bao gồm 46 - 52 chi và khoảng
trên 1.000 loài. Theo dữ liệu của vườn quốc gia Kew mà APG III trích dẫn, họ
này chỉ chứa 49 chi. Họ này phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yêú
ở Nam và Đông Nam châu Á. Chi điển hình là Zingiber. Ở Việt Nam hiện biết
khoảng 24 chi với hơn 115 loài khác nhau, trong đó nhiều loài có giá trị. Nhiều
loài là các loại cây cảnh, cây gia vị, hay cây thuốc quan trọng. Hiện nay có
nhiều loài được nhập từ nước ngoài về để phục vụ ngành hoa kiểng. Các thành
viên quan trọng nhất của họ này bao gồm gừng, nghệ, riềng, đậu khấu và sa
nhân.
Các loài trong họ này là thực vật tự dưỡng hay biểu sinh. Thân rễ lớn,
thường phân nhánh, chứa nhiều chất dự trữ. Lá có các bẹ dài ôm lấy nhau làm
thành thân giả, cuống ngắn và phiến lớn, giữa cuống và bẹ lá có phần phụ gọi là
lưỡi bẹ (ligule). Thân lá thường có mùi thơm. Ở nhiều loài thân khí sinh chỉ xuất
hiện khi cây ra hoa, mọc lên từ thân rễ, xuyên qua thân giả ra ngoài mang ở phần
cuối 1 cụm hoa (chi Alpinia), nhưng có loài cụm hoa nằm ngay trên thân rễ ở sát
mặt đất. Hoa không đều, đài hình ống, màu lục, tràng hình ống, phía trên chia 3
thùy, thùy giữa lớn hơn hai thùy bên. Chỉ có một nhị sinh sản (ở vòng trong) với
2 bao phấn lớn nứt phía trong. Một cánh môi hình bản lớn, màu sặc sỡ, do 3 nhị
dính với nhau và biến đổi thành, nằm đối diện với nhị sinh sản. Hai nhị còn lại
biến thành hai nhị lép (vô sinh) nhỏ nằm 2 bên bao phấn (nhiều khi giảm chỉ còn
lại những vảy nhỏ, hoặc mất hẳn). Bầu dưới có 3 ô, mỗi ô chứa nhiều noãn. Vòi
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
8
Khoá luận tốt nghiệp
nhụy chui qua khe hở giữa 2 bao phấn và thò ra ngoài. Quả nang, đôi khi là quả
mọng. Hạt có nội nhũ và cả ngoại nhũ. Mô của các loại cây trong họ này tiết ra
tinh dầu có mùi đặc trưng.
1.1. Phân loại khoa học
Giới (regnum):
Plantae
(không phân hạng): Angiosperms
(không phân hạng) Monocots
(không phân hạng) Commelinids
Bộ (ordo): Zingiberales
Họ (familia):
Zingiberaceae
1.2. Hệ thống phân loại
Gồm các phân họ sau:
- Phân họ Siphonochiloideae: 1 chi Siphonochilus.
- Phân họ Tamijioideae: 1 chi Tamijia.
- Phân họ Alpinioideae: 20 chi, trong đó đáng chú ý là chi Alpinia- riềng, chi
Amomum -đậu khấu và chi Elettaria - (tiểu) đậu khấu.
- Phân họ Zingiberoideae: 30 chi, trong đó đáng chú ý là chi Curcuma -
nghệ và chi Zingiber - gừng.
1.3.Sơ lược về các cây thuộc họ Gừng ở nước ta
1.3.1.Cây gừng vàng
- Mô tả:
Gừng vàng còn có tên là khương, tên khoa học là Zingiber oficinale Rosc, tên
nước ngoài: Zingiber (Anh), Gingembre, Amome des Indes (Pháp). Gừng được
xếp vào nhóm cây thường niên, thân thảo. Thông thường, cây cao 0,6 -1 m, thân
ngầm phình to chứa dưỡng chất gọi là củ, xung quanh có các rễ tơ; củ và rễ chỉ
phát triển tập trung ở lớp đất mặt (sâu 0 -15 cm).
Lá màu xanh đậm dài 15 -20 cm, rộng 2 cm, chỉ có bẹ mà không có cuống, mọc
thẳng và so le, mặt nhẵn bóng, độ che phủ của tán lá thấp.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
9
Khoá luận tốt nghiệp
Cây gừng ít khi ra hoa, trục hoa mọc ra từ gốc, dài 15 -20 cm; hoa màu vàng
xanh dài tới 5 cm, rộng 2 -3 cm, có 3 cánh hoa dài khoảng 2 cm, mép cánh hoa
và nhị hoa có màu tím.
- Nơi sống và thu hái:
Chi Zingiber ở châu Á có khoảng 45 loài, Việt Nam có 11 loài. Gừng là loại
cây gia vị cổ điển được trồng ở nhiều nước trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới, từ Đông Á đến Đông Nam Á và Nam Á. Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản là
những nước trồng Gừng nhiều nhất thế giới. Ở Việt Nam, cây được trồng ở khắp
các địa phương, từ vùng núi cao đến đồng bằng và ngoài các hải đảo. Cây ưa
ẩm, ưa sáng. Cây trồng thường có hoa năm thứ 2. Chưa thấy cây có quả và hạt.
Gừng trồng sau 1 năm nếu không thu hoạch sẽ có hiện tượng tàn lụi (phần trên
mặt đất) qua đông. Thời gian sinh trưởng mạnh của cây trùng với mùa hè-thu
nóng và ẩm. Gừng tái sinh dễ dàng bằng những đoạn thân rễ có nhú mầm, có thể
trồng quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa xuân. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.
Thân rễ (Rhizoma Zingiberis) thu hái vào mùa thu đông, dùng tươi là sinh
khương, phơi hoặc sấy khô là can khương. Còn dùng tiêu khương (gừng khô thái
lát dày, sao sém vàng, đang nóng, vẩy vào ít nước, đậy kín, để nguội); bào
khương (gừng khô đã bào chế); thán khương (gừng khô thái lát dày, sao cháy
đen tồn tính).
- Thành phần hóa học:
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
10
Khoá luận tốt nghiệp
Gừng chứa 2-3% tinh dầu với thành phần chủ yếu là các hợp chất
hydrocarbon sesquiterpenic: β-zingiberen (35%), ar-curcumenen (17%), β-
farnesen (10%) và một lượng nhỏ các hợp chất alcol monoterpenic như geraniol,
linalol, borneol.
Nhựa dầu chứa 20-25% tinh dầu và 20-30% các chất cay. Thành phần chủ yếu
của nhóm chất cay là zingeron, shogaol và zingerol, trong đó gingerol chiếm tỷ
lệ cao nhất. Ngoài ra, trong tinh dầu Gừng còn chứa α-camphen, β-phelandren,
eucalyptol và các gingerol. Cineol trong Gừng có tác dụng kích thích khi sử
dụng tại chỗ và có tác dụng diệt khuẩn trên nhiều vi khuẩn.
- Tác dụng: Gừng vàng đã được các thầy thuốc phương Đông dùng làm thuốc
từ hơn 2.000 năm nay. Trong Đông y, cây gừng cho các vị thuốc sau:
+ Sinh khương: Gừng sống, vị cay, tính hơi ôn, có tác dụng tán hàn giải
biểu, ấm dạ dày, cầm mửa, tiêu nước, dịu ho. Sinh khương được xếp vào nhóm
thuốc phát tán phong hàn.
+ Tiên khương: Gừng tươi.
+ Khương bì: Vỏ gừng tươi, vị cay mát, có tác dụng hành thủy (dẫn nước)
chủ trị các chứng phù.
+ Ổi khương: Gừng sống vùi nhẹ lửa cho chín (hoặc nướng chín), có tác
dụng ấm bụng, trừ hàn.
+ Can khương: Thân rễ phơi sấy khô của cây gừng vàng, khai thác vào
mùa đông. Can khương vị cay, tính ôn, có tác dụng ôn trung (ấm cơ thể) trừ hàn,
hồi dương, thông mạch, dịu ho, cầm tả, cầm mửa, cầm máu; được xếp vào nhóm
thuốc trừ hàn.
+ Bào khương: Can khương thái phiến, đem sao cho phồng rộp rồi phun
nước cho nguội.
+ Thán khương: Còn gọi là hắc khương hoặc gừng cháy. Đây là can
khương thái phiến dày, sao cho cháy đen bên ngoài nhưng bên trong còn màu
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
11
Khoá luận tốt nghiệp
hồng sẫm (gọi là đốt tồn tính). Có tác dụng cầm máu trong các bài thuốc trị băng
huyết, thổ huyết, tiêu ra máu, tiểu ra máu, lỵ ra máu
1.3.2. Cây gừng gió
- Mô tả:
Gừng gió còn có tên khác: riềng gió, ngải xanh, ngải mặt trời, riềng dại;
khuhet phtu, brateal, vong atic (Campuchia); ginembrefou (Pháp), phong
khương, khinh keng (Tày), gừng dại, gừng giềng. Tên khoa học: Zingber
zerumber (L) sm, thuộc họ gừng: Zingiberaceae. Cây cao từ 1 - 1,3m, thân rễ
dạng củ phân nhiều nhánh, lúc củ non có màu vàng thơm. Củ càng già càng to,
chắc; trong ruột có màu vàng, có mùi thơm ngọt, dễ chịu. Lá mọc xếp lớp,
không cuống, thuôn dài đầu nhọn, phía trên màu xanh lục, hơi nhạt ở phía dưới;
bẹ nhẵn, trừ phía trên có lông ; cụm hoa dài 30 - 60 cm, phủ đầy vẩy, mép có
mang lông hoa hình trứng mọc thẳng từ thân rễ thường có màu lục, khi già màu
hồng đỏ đài và tràng màu trắng cánh môi màu vàng nhạt. Quả nang hình bầu
dục, hạt màu đen, có áo hạt mềm màu trắng, mùa có hoa vào tháng 5 - 6.
- Nơi sống và thu hái:
Cây gừng gió mọc hoang ở khắp nơi, chịu đất ẩm ướt - mát, bìa rừng, ven
suối, đất núi rậm. Có thể trồng trong chậu kiểng để nơi râm mát ở gia đình,
thuộc loại cây cảnh đẹp. Bộ phận dùng: thân rễ.
- Thành phần hoá học:
Trong gừng gió có nhiều tinh dầu, dầu béo và nhựa. Tinh dầu có 13% các
monoterpen và nhiều sesquiterpen, trong đó humulen chiếm 27%, monocylic
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
12
Khoá luận tốt nghiệp
sesquiterpen xeton, zerumbon 37,5%. Các monoterpen gồm pinen, camphen,
limonen, cineol và campho.
- Tính vị và tác dụng:
Gừng gió có vị đắng, cay, tính ấm, có tác dụng tán phong hàn, giảm đau, trị ứ
huyết chữa trúng gió, đau bụng, đau nhức sưng tấy.
1.3.3. Cây địa liền
- Mô tả:
Cây địa liền còn có tên là Sơn nại (TQ) – Tam mai – Sa khương – Faux
galanga (Pháp) – Galanga ResurrectionilyRhizome (Anh). Tên khoa học l à
Kaempferia galanga L. Cây địa liền là một cây cỏ nhỏ, sống lâu năm, quanh năm
xanh tốt. Thân rễ nhỏ hình trứng. Lá khá rộng, độ 2 hoặc 3 chiếc, mọc sát mặt
đất, nên có tên là địa liền, phiền lá hình trứng tròn, đầu hơi nhọn, mặt trên xanh
lục, nhẵn, mặt dưới có lông mịn. Hoa tự mọc ở giữa, không cuống, gồm 8-10
hoa màu trắng có những điểm tím nằm ở giữa. Mùa hoa tháng 8 - 9.
- Nơi sống và thu hái:
Vùng đồi núi ta có nhiều địa liền mọc hoang (Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên
Quang ) Có trồng nhiều ở Thái Bình, Nam Hà. Thu hái vào mùa đông (tháng
11-2). Khi thân lá bắt đầu khô héo, đào lấy củ, rửa sạch đất cát, cắt bỏ rễ con,
thái vát thành phiến mỏng 2-3 mm, rồi phơi nắng hoặc sấy nhẹ đến thật khô.
Tuyệt đối không được sấy than, củ sẽ bị đen, kém thơm.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
13
Khoá luận tốt nghiệp
- Thành phần hoá học:
Trong địa liền có tinh dầu thơm, trong đó thành phần chủ yếu là borneol,
metyl p.coumaric, acid etyl este, cinnamic acid etyl, cineol, cinnamic aldehyd
- Bộ phận dùng:
Thân rễ (thường vẫn gọi là củ) của cây địa liền (Rhizoma Kaempferiae) thái
mỏng, phơi hay sấy khô. Đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1983), và dược
điển Trung Quốc (1963), (1997).
-Tính vị và tác dụng:
Theo Đông y, địa liền vị cay, tính ấm, vào 2 kinh Tỳ, Vị. Có tác dụng ấm dạ
dày, giúp tiêu hoá, trừ lạnh, trừ thấp, trừ mùi ô uế. Dùng chữa các chứng bệnh
đau bụng, tức ngực do lạnh, đau răng. Dùng ngoài da ngâm rượu xoa bóp, chữa
tê thấp đau nhức.
1.3.4. Cây riềng
- Mô tả:
Cây riềng có tên khoa học là: Alpinia officinarum Hance - họ Gừng
(Zingiberaceae). Còn có tên khác là tiểu lương khương, cao lương khương (TQ),
Galanga (Pháp), Galanga, Chinese ginger (Anh), Lesser Galanga rhizome (Anh).
Riềng là một loại thảo, sống lâu năm mọc thẳng, cao 0,8-1,5m, thân rễ phát triển
ngang, chia thành nhiều khúc không đều, hơi hình trụ, đường kính 1,2-2 m, mầu
đỏ nâu, có phủ nhiều vảy. Lá không cuống, có bẹ, phiến lá hình mác dài 20-
40cm, rộng 1,5-2,5 cm. Hoa màu trắng, thành chùm ở ngọn. Quả hình cầu, có
lông, hạt có áo hạt.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
14
Khoá luận tốt nghiệp
Mùa hoa quả: tháng 5-11.
- Nơi sống và thu hái:
Cây riềng mọc hoang và được trồng nhiều nơi ở nước ta lấy “củ” làm gia vị
và thuốc. Trồng bằng các đoạn thân rễ vào mùa xuân. Miền Nam Trung Quốc có
nhiều riềng (Quảng Đông, Quảng Tây). Có thể thu hoạch “củ” riềng quanh năm,
nhưng vào thời gian thu đông thì hơn. Đào những đoạn củ già (ở những cây đã
trồng trên 2 năm) rửa sạch, cắt bỏ rễ con, cắt thành những đoạn 5-6cm, phơi
khô. Cũng có thể đồ qua bằng hơi nước rồi mới phơi, sấy cho khô tránh mọt.
- Thành phần hoá học: Trong “củ” riềng có 0,5-1% tinh dầu, trong đó chủ
yếu là cineol và methycinnamat. Ngoài ra, còn có chất dầu, vị cay là galangol,
một số dẫn chất của flavon ở dạng tinh thể: galangin C
15
H
10
O
5,
alpinin C
17
H
12
O
4,
kaempferit C
16
H
12
O
6.
- Tính vị và tác dụng: Theo Đông y, riềng vị cay, tính ấm vào các kinh Tỳ,
Vị. Có tác dụng ôn trung (ấm phần giữa bụng giúp tiêu hoá), trừ hàn giảm đau,
trừ gió, chống nôn mửa. Chữa các chứng bệnh: Đau bụng do lạnh, đau bụng
dưới, nôn mửa trong, đau loét dạ dày – hành tá tràng, (trừ khi xuất huyết nặng).
1.3.5. Cây sa nhân.
- Mô tả:
Cây sa nhân có tên khoa học là Amomun achinosphaera. Sa nhân là một loài
thuộc chi Amomun Roxb. Cây thân thảo, sống lâu năm dưới tán rừng. Thân cây
làm bằng lá, cao khoảng 1-2m, có cây 5m. Lá hình mác, không cuống, không
lông. Dài 37-40 cm, rộng 8 cm. Thân ngầm: Dài 0,3-1m Rễ chùm phân bố lớp
đất mặt 20 cm. Hoa lưỡng tính, tỷ lệ kết quả < 30%. Sa nhân mọc thành khóm
nhiều cây, cây nọ cách cây kia 10 cm. Sau khi trồng 2-3 năm, mỗi nhánh có từ
30-50 cây và bắt đầu có quả. Hoa màu trắng đốm tía. Mỗi gốc 3-6 chùm hoa.
Mỗi chùm 4-6 hoa. Ra hoa tháng 4-5. Quả chín tháng 7-8.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
15
Khoá luận tốt nghiệp
- Nơi sống và thu hái:
Sa nhân có phân bố ở hầu hết các nước Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. ở
nước ta, Sa nhân phân bố ở hầu hết các tỉnh vùng núi Bắc và Trung Bộ có
khoảng 30 loài trong đó có gần 30 loài mang tên Sa nhân , trong đó 23 loài đã
được xác định chắc chắn. Sa nhân thường trồng vào vụ xuân thu, thu hoạch qủa
tháng 7 – 8. Cây xanh tươi nhiều quả, cây lá vàng không có quả. 4 kg quả tươi
cho 1 kg quả khô.
- Tính vị và tác dụng:
Từ lâu đời nhân dân ta đã biết tìm kiếm và khai thác sa nhân để làm thức ăn,
thuốc chữa bệnh và coi là một dược liệu quý, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên
thế giới. Bước đầu đã thống kê được trên 60 đơn thuốc có vị Sa Nhân dùng
trong các trường hợp ăn không tiêu, kiết lỵ, đau dạ dày, phong tê thấp, sốt rét,
đau răng, phù thũng… Ngoài ra, sa nhân còn dùng trong sản xuất hương liệu để
sản xuất xà phòng, nước gội đầu.
1.3.6. Cây thảo quả
- Mô tả:
Thảo quả tên khoa học là Elettaria cardamomum, là loại cây thảo, sống lâu
năm, cao chừng 2,5-3m. Thân rễ mọc ngang, có đốt, đường kính chừng 2,5-4cm,
giữa có màu trắng nhạt, phía ngoài màu hồng, mùi thơm. Lá mọc so le, có lá có
cuống, có lá không cuống, bẹ lá có khía dọc, phiến lá dài 60-70cm, rộng tới
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
16
Khoá luận tốt nghiệp
20cm, mặt trên phiến lá màu xanh thẫm, mặt dưới hơi mờ, mép lá nguyên. Cụm
hoa bông, mọc từ gốc, dài chừng 13-20cm, hoa màu đỏ nhạt, mỗi bông nhiều
quả, khi chín quả màu đỏ nâu, dài 2,5-4cm, rộng 1,5-2cm. Vỏ quả ngoài dầy
5mm, quả chia làm 3 ô, mỗi ô có độ 7-8 hạt rất thơm, có áo hạt hình tháp, ép vào
nhau.
- Nơi sống và thu hái:
Thảo quả mọc hoang và được trồng ở các tỉnh miền núi như Hoàng Liên Sơn,
Hà Tuyên, Tây Bắc. Lựa quả chưa chín, hái về phơi hoặc sấy nhẹ lửa cho khô
(thường 3-4 ngày). Quả khô sẽ ngả mầu xám nâu nhạt, nhiều nếp nhăn dọc và
thường phủ 1 lớp phấn trắng. Khi nào dùng mới bóc vỏ ngoài lấy hạt, nếu bóc
ngay sẽ mất mùi thơm.
- Bộ phận dùng: Quả.
- Thành phần hoá học:
Trong thảo quả có tinh dầu chừng 1-3%. Tinh dầu mầu vàng nhạt mùi thơm,
ngọt, vị nóng cay, dễ chịu.
- Công dụng:
Thảo quả được sử dụng làm gia vị và làm thuốc, được khai thác để xuất khẩu.
1.3.7. Bạch đậu khấu
- Mô tả:
Bạch đậu khấu có tên khác là Bà khấu, Bạch khấu nhân, Bạch khấu xác, Đa
khấu, Đới xác khấu (TQ dược học đại từ điển), Đậu khấu, Đông ba khấu, Khấu
nhân, Tử đậu khấu (Đông dược học thiết yếu), Xác khấu (Bản thảo cương mục).
Tên khoa học là Amomum Repens Sonner.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
17
Khoá luận tốt nghiệp
Bạch đậu khấu là loại cây thảo cao khoảng 2-3m. Thân rễ nằm ngang to bằng
ngón tay, lá hình dải, mũi mác, nhọn 2 đầu, dài tới 55cm, rộng 6cm mặt trên
nhẵn, dưới có vài lông rải rác bẹ lá nhẵn, có khía, lưỡi bẹ rất ngắn. Cụm hoa
mọc ở gốc của thân mang lá, mọc bò, dài khoảng 40cm, mảnh, nhẵn, bao bởi
nhiều vảy chuyển dần thành lá bắc ở phía trên, lá bắc mau rụng. Cuống chung
của cụm hoa ngắn, mang 3-5 hoa, ở nách những lá bắc nhỏ hình trái soan. Hoa
màu trắng tím, có cuống ngắn, đài hình ống nhẵn, có 3 răng ngắn. Tràng hình
ống nhẵn, dài hơn đài 2 lần, thùy hình trái xoan tù, thùy giữa hơi dài rộng hơn,
lõm hơn. Cánh môi hình thoi. Quả nang hình trứng, bao bởi đài tồn tại, có khi
lớn đến 4cm.
-Nơi sống và thu hái:
Cây mọc hoang dại ở vùng thượng du bắc bộ (Cao Bằng, Lào Cai) Việt Nam
và Cam pu chia. Cây này Việt Nam còn phải nhập. Thu hái vào mùa thu, hái cây
trên 3 năm, hái quả còn giai đoạn xanh chuyển sang vàng xanh. Hái về phơi
trong râm cho khô, có khi phơi khô xong bỏ cuống rồi xông diêm sinh cho vỏ
trắng cất dùng, khi dùng bóc vỏ lấy hạt.
- Phần dùng làm thuốc: Hạt quả và hoa.
-Tính vị quy kinh:
+ Vị cay, the, mùi thơm, tính nóng, vào kinh Phế, Tỳ, Vị (Trung Quốc Dược
Học Đại Từ Điển).
+ Vị cay, tính ấm, vào kinh Phế, Tỳ, Vị (Đông dược học thiết yếu).
- Tác dụng, chủ trị:
+ Hành khí, hóa thấp, chỉ ẩu. Trị nôn mửa, dạ dầy đau, đầy hơi, Tỳ Vị có thấp
trệ (Trung Quốc dược học đại từ điển).
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
18
Khoá luận tốt nghiệp
+ Hành khí, làm ấm Vị. Trị phản vị, phiên vị, vị quản trướng đau, bụng đầy, ợ
hơi do hàn tà ngưng tụ và khí trệ gây ra (Đông Dược Học Thiết Yếu).
2. Vài nét về thực vật và thành phần của thân rễ cây nghệ vàng
2.1. Vài nét về thực vật cây nghệ vàng
2.1.1. Mô tả cây
- Nghệ vàng có tên khoa học: Curcuma longa L.,hay là Curcuma Dosestica
Lour., họ Gừng (Zingiberaceae). Tên khác: Khương hoàng (Trung Quốc),
Turmeric (Anh), Safran du Indes, Curry (Pháp), Khá lằng (H’mông).
- Nghệ vàng là một loại cỏ cao 0,6m đến 1m. Thân rễ thành củ hình trụ hoặc
hơi dẹt, khi bẻ hoặc cắt ngang có màu vàng cam sẫm. Lá hình trái xoan thon
nhọn ở hai đầu, hai mặt đều nhẵn dài tới 45cm, rộng tới 18cm. Cuống lá có bẹ.
Cụm hoa mọc từ giữa các lá lên, thành hình nón thưa, lá bắc hữu thụ khum hình
máng rộng, đầu tròn màu xanh lục nhạt, lá bắc bất thụ hẹp hơn, màu hơi tím
nhạt. Tràng có phiến, cánh hoa ngoài màu xanh lục vàng nhạt, chia thành 3 thuỳ,
thuỳ trên to hơn, phiến cánh hoa trong cũng chia 3 thuỳ, 2 thuỳ bên đứng và
phẳng, thuỳ dưới hõm thành máng sâu. Quả nang 3 ngăn, mở bằng 3 van. Hạt có
áo hạt.
2.1.2. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây nghệ vàng được trồng khắp nơi trong nước ta để làm gia vị và làm thuốc.
Còn mọc và được trồng ở các nước Ấn Độ, Inđônêxia, Campuchia, Lào, Trung
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
19
Khoá luận tốt nghiệp
Quốc và các nước nhiệt đới. Ta dùng thân rễ cây nghệ gọi là khương hoàng
(Rhizoma Curcumae longae) và rễ củ gọi là uất kim (Radix Curcumae longae).
Nghệ được thu hoạch vào mùa thu. Cắt bỏ hết rễ để riêng, thân rễ để riêng.
Muốn để được lâu phải đồ hoặc hấp trong 6-8 giờ, sau đem phơi nắng hoặc sấy
khô.
2.2. Thành phần hoá học thân rễ cây nghệ vàng
Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi xuất bản
năm 2006, trong củ nghệ có:
- Chất màu curcumin 0,3%, tinh thể nâu đỏ, ánh tím, không tan trong nước,
tan trong rượu, ête, clorofoc, dung dịch có huỳnh quang màu xanh lục, tan trong
axit (màu đỏ tươi), trong kiềm (màu đỏ máu rồi ngả tím), trong chất béo (dùng
để nhuộm chất béo).
- Tinh dầu 1-5% màu vàng nhạt thơm. Trong tinh dầu có curcumen C
15
H
24
một cacbon không no, 5% paratolylmetyl cacbinol v à 1% long não hữu tuyến.
Hai chất sau chỉ có trong tinh dầu Curcuma xanthorriza Roxb.
- Ngoài ra còn có tinh bột, canxi oxalat, chất béo.
Theo R.R.Paris và H.Moyse, củ nghệ chứa 8-10% nước, 6-8% chất vô cơ,
40-50% tinh bột nhựa. Hoạt chất của nghệ gồm:
- Tinh dầu 3-5% gồm 25% cacbua terpenic, chủ yếu là zingiberen và 65%
xeton sesquiterpenic, các chất turmeron.
- Các chất màu vàng gọi là curcumin, gồm curcumin I chiếm 60% đây là
xeton đối xứng không no, có thể coi là diferulolyl metan (axit ferulic là axit
hydroxy- 4 - metoxy -3- xinamic); curcumin II hay là monodesmetoxy-
curcumin chiếm 24%; curcumin III hay là didesmetoxy- curcumin chiếm 14%
trong đó có 1 hay 2 axit hidroxycinamic thay cho axit ferulic.
Theo E.Gildmerster và F.R.Hoffman trong tinh dầu nghệ có 53,1% xeton
anfa- beta etylenic ở từ mạch nhánh gắn vào nhân (bao gồm 29,5% turmeron và
23,6% arylturmeron).
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
20
Khoá luận tốt nghiệp
3. Vài nét chung về tinh dầu:
Tinh dầu còn gọi là Dầu thơm, Tinh du hay hương du là những hợp chất có
mùi thơm hay khó chịu, có một số tính chất lí học chung thường gặp trong cây
hay trong động vật.
Ví dụ: Tinh dầu bạc hà, tinh dầu khuynh diệp, tinh dầu quế, tinh dầu hoa hồng,
tinh dầu con hươu xạ…
Tinh dầu có vai trò quan trọng trong đời sống: ngành thực phẩm (làm gia vị,
chế biến rượu mùi…), công nghiệp hương liệu và mỹ phẩm, công nghiệp sơn,
công nghiệp chế biến hóa chất, y học (làm thuốc sát trùng, tiêu hóa…)…
3.1. Phân loại tinh dầu:
Dựa vào thành phần của tinh dầu người ta chia tinh dầu thành những loại sau:
- Tinh dầu chứa cacbua như pinen (tinh dầu thông), limonen (tinh dầu
chanh)…
- Tinh dầu chứa rượu như geraniol, xitronelol (tinh dầu hoa hồng, sả, hương
diệp); chứa linalol (tinh dầu hoa cải, tinh dầu quả mùi); chứa metol (tinh dầu bạc
hà).
- Tinh dầu chứa andehit như xitral (tinh dầu chanh, màng tang).
- Tinh dầu chứa xeton như xineol (tinh dầu bạch đàn, khuynh diệp), anetol
(tinh dầu tiểu hồi, đại hồi)…
3.2. Trạng thái thiên nhiên và phân bố:
Tinh dầu ở hai trạng thái: tự do và tiềm tàng.
Tinh dầu ở trạng thái tự do trong cây có thể được tạo thành tập trung ở
những tế bào trông giống như những tế bào khác của cây họ lớn hơn, nhưng
thường tinh dầu tự do được tập trung ở cơ quan bài tiết của cây như: lông bài tiết
của cây họ Hoa môi (Labiatae); họ Cúc (Compositae) ở dưới lớp cutin; túi bài
tiết trong họ Xim (Myrtaceae)…
Tinh dầu ở trạng thái tiềm tàng vốn không phải là những thành phần bình
thường của cây mà chỉ xuất hiện trong những điều kiện nhất định tương ứng với
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
21
Khoá luận tốt nghiệp
sự chết của một số bộ phận. Ví dụ: tinh dầu trong nhân hạt mơ, hạt đào, hạt cải
và củ tỏi. Tinh dầu hạt mơ, hạt đào (Andehyt bezoic) xuất hiện do tác dụng của
men emulsin trên một heterozit gọi là amygdalin. Tinh dầu hạt cải (bạch đới tử)
xuất hiện do tác dụng của men myrosin trên một heterozit gọi là grozit. Tinh dầu
củ tỏi xuất hiện do tác dụng của men alliinnaza trên một chất không phải eterozit
mà là một axit amin chứa sunfua là allinin cho một sunfoxyt gọi là allixin để cho
chất đisunfua allyl.
Về mặt phân bố, tinh dầu có trong toàn bộ giới thực vật nhưng đặc biệt nhiều
trong một số như họ Thông (Coniferae), họ Cam (Rutace), họ Hoa tán
(Umbelliferae), họ Xim (Myrtaceae)…
Điều đặc biệt là trong cùng một, thành phần tinh dầu của những bộ phận khác
nhau có thể khác nhau và tuỳ theo điều kiện sinh sống, thu hái.
3.3. Tính chất vật lí của tinh dầu:
Tinh dầu thường ở thể lỏng ở nhiệt độ thường, mùi thơm, ít khi có màu trừ
tinh dầu chứa azulen có màu xanh.
Tinh dầu có tỉ trọng thấp so với nước. Chỉ số khúc xạ cao và có năng suất
quay cực.
Tinh dầu bay hơi được và kéo được bằng hơn nước. Tinh dầu ít tan trong
nước nhưng làm cho nước có mùi thơm. Tinh dầu tan trong cồn, ete, phần lớn
dung môi hữu cơ và trong chất béo.
Một số tinh dầu có phần đặc và một phần lỏng như tinh dầu bạc hà, tinh dầu
long não…
Tinh dầu là hỗn hợp nên không có nhiệt độ sôi nhất định. Khi đun nóng có
thể lấy riêng được các thành phần khác nhau trong tinh dầu.
Tinh dầu cháy với ngọn lửa nhiều khói.
3.4. Thành phần hóa học của tinh dầu:
Tinh dầu là hỗn hợp của nhiều hoạt chất với tỉ lệ thay đổi; thành phần quan
trọng nhất về phương diện thơm có khi lại chiếm tỉ lệ thấp.
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
22
Khoá luận tốt nghiệp
Thành phần trong tinh dầu bao gồm các hiđrocacbua, ancol tự do hay dưới
dạng các este, hợp chất chứa N, hợp chất chứa S, hợp chất halogen…Các
hiđrocacbon béo thường ít đại diện, phần nhiều là cacbua thơm hoặc nhóm
cacbua tecpennic. Trong các thành phần trên, thường este chiếm tỉ lệ cao nhất
rồi đến các rượu và andehit.
Sau đây là một số hợp phần chính hay gặp trong thành phần tinh dầu:
* Hiđrocacbua bao gồm:
- Cacbua tecpennic (chiếm nhiều nhất): limonen, pinen, camphen, caryophyllen,
sylvestren.
- Cacbua no: heptan, parafin.
* Ancol: Ancol metylic, ancol etylic, ancol xinamic, xitronellol, geraniol,
linalol, bocneol, tecpineol, mentol, santalol, xineol.
* Phenol và ete phenolic: anetol, eugenol, safrol, apiol, tymol.
* Andehit: andehit benzoic, xinamic, salyxilic, xitral, xitronellal.
* Xeton: menton, campho, thuyon.
* Axit (dưới dạng este): axit axetic, butiric, valerianic, benzoic, namic, salyxilic,
fomic.
* Những hợp chất chứa sunfua, nitơ, halogen: các tinh dầu có sunfua trong
các cây thuộc họ chữ Thập (Cruciferae) có một kiến trúc đặc biệt gọi là senevol
tức là este của axit isosunfoxianic.
* Cumarin: becgapten, ombelliferon.
4. Một số nét cơ bản về lí thuyết sắc kí và phương pháp khối phổ:
4.1. Lý thuyết cơ bản về sắc kí:
Khi tách các chất với hỗn hợp sẽ dễ dàng nếu như các cấu tử cần tách nằm ở
các pha khác nhau. Nhưng việc tách sẽ rất khó khăn nếu như các cấu tử nằm
cùng một pha. Do vậy nếu có một tác động nào đó làm thay đổi trạng thái của
tập hợp, chất trong các pha sẽ làm cho việc tách các chất thuận lợi hơn. Trong
các phương pháp vật lí ứng dụng trong hóa học thì tách sắc kí là phương pháp
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
23
Khoá luận tốt nghiệp
quan trọng thường được sử dụng để tách các chất có tính chất gần giống nhau.
Dùng phương pháp sắc ký có thể tách được các cấu tử vô cơ và hữu cơ khác
nhau có trong hỗn hợp các cấu tử riêng rẽ, tách và cô lập các sắc tố động và thực
vật…Phương pháp sắc ký khí tách các chất dựa vào các hiện tượng động học
hoặc cân bằng pha.
4.1.1. Khái niệm:
Khi tách các cấu tử trong cùng một tướng ta cho tướng này liên tục tiếp xúc
với nhiều thành phần mới của tướng thứ hai. Do hệ số phân bố khác nhau của
các cấu tử phân tích ở hai tướng nên khi đi qua cột các cấu tử sẽ bị giữ lại. Ở
những vùng khác nhau trên cột, nếu các cấu tử có màu khác nhau trong hỗn hợp
thì ta sẽ thu được những vùng màu khác nhau trên cột tượng trưng cho từng cấu
tử có trong hỗn hợp. Phương pháp tách như vậy gọi là phương pháp tách sắc ký.
4.1.2. Phân loại:
Để phân loại các phương pháp tách sắc ký thường dùng một số nguyên tắc
sau:
- Dựa trên cơ sở tách tức là dựa trên đặc điểm tương tác các cấu tử của hỗn hợp
phải tách với tướng động hoặc tướng tĩnh, gồm:
Sắc ký hấp thụ, sắc ký phân bố, sắc ký trao đổi ion, sắc ký kết tủa, sắc ký
oxi hóa - khử…
- Dựa trên trạng thái kết hợp của hệ cần tiến hành tách, gồm:
Sắc ký khí, sắc ký lỏng, sắc ký khí lỏng.
- Dựa trên hình thức tiến hành sắc ký, gồm:
Sắc khí trao đổi ion, sắc ký giấy…
Trong đó sắc ký khí là phương pháp hiện đại có hiệu lực cao được áp dụng vào
hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng như đời sống sản xuất. Trong
hóa học hữu cơ khoảng 80% các hợp chất được phân tích bằng sắc ký khí.
4.1.3. Bản chất của phương pháp sắc ký khí:
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
24
Khoá luận tốt nghiệp
Cơ chế của quá trình tách là dựa vào sự thay đổi phân bố khác nhau của các
chất giữa tướng lỏng và một khí trơ. Việc vận chuyển chất được tiến hành trong
tướng khí (sắc ký phân bố khí - lỏng).
Nếu đưa vào cột một hỗn hợp chất nào đó, muốn đạt được mức tách hoàn
toàn, trước hết bề mặt tiếp xúc của hai pha phải lớn và bề dày lớp tiếp xúc của
hai pha phải đủ nhỏ (do quá trình khuếch tán làm giảm hiệu quả tách) và sau
cùng sự dịch chuyển có hướng của pha động so với pha tĩnh phải để mỗi cấu tử
trong hỗn hợp được phân bố giữa hai pha phù hợp với tính chất hấp phụ hoặc
hoà tan của nó. Do pha động chuyển dịch liên tục nên ngoài nhiệm vụ đưa các
chất phân tích lên bề mặt pha tĩnh, pha động còn có nhiệm vụ tiếp nhận các phân
tử, chất phân tích đã bị hấp thụ trước đó bị giải hấp phụ tới tương tác với các
thành phần khác của pha tĩnh. Nói cách khác, đó là quá trình chuyển chất từ đĩa
lí thuyết này tới đĩa lí thuyết khác mà ở đó tồn tại cân bằng nhiệt và chất.
Quá trình chuyển chất trên các đĩa diễn ra liên tục giữa pha tĩnh và pha động,
chuyển từ đầu cột đến cuối cột, dẫn tới sự phân vùng riêng biệt các chất trong
cột sắc ký. Ghi lai từng chất này khi nó đi ra khỏi cột ta sẽ thu được sắc đồ tách
chất của cột sắc ký.
* Mô tả quá trình tách chất trên cột sắc ký:
A+ B
B
Chất hiện E Chất tách được B Chất tách được A
4.2. Lý thuyết sắc ký phân giải cao:
Lê Thị Tú K1 ĐHSP Lý - Hoá
25
A
A
B
B
A
B + E
A + E