Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.21 KB, 6 trang )
NGUYÊN TẮC CHỌN HUYỆT
(Kỳ 3)
2. Phương pháp sử dụng du - mộ huyệt:
- Nhóm huyệt du mộ được chỉ định trong các bệnh lý của các cơ quan nội
tạng (bệnh của tạng phủ) và thường dùng trong các bệnh được chẩn đoán hư theo
YHCT.
- Cách sử dụng khi có chỉ định là phối hợp cả du huyệt và mộ huyệt của
kinh tương ứng với tạng phủ có bệnh.
- Ví dụ: chọn huyệt Trung phủ (mộ của Phế) và Phế du (du huyệt của Phế)
để điều trị bệnh lý Phế hư.
- Tuy nhiên, trong thực tế lâm sàng việc sử dụng đồng thời cả du và mộ
huyệt có lúc khó khăn, do đó du - mộ huyệt còn được sử dụng theo luật “dương
dẫn âm, âm dẫn dương”, nghĩa là bệnh của tạng (thuộc âm) thì sử dụng bối du
huyệt (ở lưng, thuộc dương); và ngược lại bệnh của phủ (thuộc dương) thì sử dụng
mộ huyệt (ở bụng, thuộc âm), ví dụ: bệnh lý phế hư (thuộc âm) chọn huyệt phế du
(thuộc dương); bệnh lý phủ Vị (thuộc dương) chọn huyệt Trung quản (thuộc âm).
C. CHỌN HUYỆT NGŨ DU
1. Ngũ du huyệt:
Ngũ du huyệt là một nhóm huyệt trong những huyệt đặc trị của 12 đường
kinh. Nó được phân bố từ khuỷu tay trở ra và đầu gối trở xuống.
Người xưa dựa vào sự vận hành của khí huyết trong kinh mạch, dùng hiện
tượng nước chảy tự nhiên để minh họa (khí hành từ nhỏ đến lớn, từ nông đến sâu).
Để phân biệt, người ta dùng 5 tên gọi: tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp với những tác
dụng riêng để biểu hiện sự lưu hành của khí qua mỗi huyệt trong kinh mạch.
- Nơi nước đầu nguồn, chỗ xuất của khí là tỉnh.
- Nơi nước chảy nhẹ, chỗ lưu của khí là vinh (huỳnh).
- Nơi nước dồn lại để lưu hành, chỗ chú của khí là du.
- Nơi nước đi qua, chỗ hành của khí là kinh.
- Nơi nước tụ lại, chỗ nhập của khí là hợp.
Tác dụng của ngũ du huyệt: