Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Kiến thức về thuốc và sức khỏe (Kỳ 3) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.91 KB, 8 trang )

Kiến thức về thuốc và sức khỏe (Kỳ 3):

Không tự ý dùng disulfiram cai rượu
Disulfiram không phải là thuốc chữa nghiện rượu mà chỉ dùng để hỗ
trợ điều trị nghiện rượu mạn tính. Liệu pháp này chỉ giới hạn cho những
người bệnh chọn lọc có ý chí cao kết hợp với liệu pháp tâm thần hỗ trợ.
Bản thân disulfiram là một chất tương đối không độc, nhưng thuốc làm thay
đổi rõ rệt chuyển hóa trung gian của rượu và làm tăng nồng độ acetaldehyd trong
máu gấp 5-10 lần so với mức đạt được ở người uống rượu không dùng disulfiram
trước. Vì vậy, nếu một người đang dùng disulfiram mà tiếp tục uống rượu sẽ gây
hội chứng acetaldehyd. Trong vòng 5-10 phút, mặt cảm thấy nóng và ngay sau đó
đỏ bừng. Tiếp theo có cảm giác mạch đập ở đầu, cổ và phát triển nhức đầu mạch
đập. Người bệnh thấy khó thở, buồn nôn, ra mồ hôi, khát, đau ngực, hạ huyết áp,
ngất thế đứng, yếu ớt, chóng mặt, nhìn mờ và lú lẫn. Mặt đỏ bừng chuyển sang tái
xanh và huyết áp có thể hạ tới mức sốc. Chỉ 7ml rượu có thể gây triệu chứng nhẹ
ở người nhạy cảm và tác dụng này khi xảy ra, kéo dài 30 phút đến nhiều giờ. Khi
những triệu chứng hết, người bệnh mệt lả và có thể ngủ thiếp trong nhiều giờ.
Chính vì hội chứng chuyển hóa này mà người bệnh sợ uống rượu, khi dùng
disulfiram phải cảnh báo cho người bệnh tránh dùng sirô ho, nước sốt, giấm, rượu
ngọt và những chế phẩm khác có chứa rượu. Dùng ngoài các thuốc xoa hoặc
thuốc rửa có cồn kể cả nước thơm dùng sau khi cạo râu... cũng có thể đủ để gây
phản ứng disulfiram - rượu. Phản ứng này có thể xảy ra nhiều tuần sau khi đã
ngừng dùng disulfiram.
Do những nguy cơ trên nên bệnh nhân không tự ý sử dụng thuốc này. Bệnh
nhân chỉ được dùng khi có chỉ định và sự theo dõi của bác sĩa và thường bắt đầu
điều trị tại bệnh viện. Người dùng disulfiram phải được thông báo đầy đủ về nguy
cơ của liệu pháp, hướng dẫn gia đình người bệnh về nguy cơ của phản ứng
disulfiram - rượu và cho họ biết không được dùng disulfiram để điều trị ngộ độc
rượu cấp tính ở người bệnh
Atapulgit - Chất hấp thụ chống tiêu chảy sử dụng như thế nào?
Atapulgit là hydrat nhôm magnesi silicat chủ yếu là một loại đất sét vô cơ


có thành phần và lý tính tương tự như kaolin. Thuốc có tác dụng bao phủ mạnh và
bảo vệ niêm mạc ruột bằng cách trải thành một màng đồng đều trên khắp bề mặt
niêm mạc ruột, được dùng điều trị triệu chứng các bệnh đại tràng không đặc hiệu
cấp và mạn tính có tiêu chảy, đặc biệt tiêu chảy kèm trướng bụng; hội chứng kích
ứng ruột. Ngoài ra, có thể thụt để điều trị hỗ trợ trong viêm loét đại tràng.
Trong hầu hết các chế phẩm có trên thị trường là atapulgit đã được hoạt hóa
(được đốt nóng) để tăng khả năng hấp phụ. Chính sự hấp phụ này của thuốc lại cản
trở tới sự hấp thu một số thuốc ở đường ruột (cần chú ý khi dùng phối hợp với các
thuốc khác, nên uống các thuốc khác cách atapulgit khoảng 2-3 giờ).
Không dùng quá 2 ngày hoặc khi tiêu chảy kèm sốt, tiêu chảy phân có máu
và chất nhày, sốt cao. Nếu sau khi sử dụng quá 2 ngày vẫn tiêu chảy cần hỏi ý kiến
bác sĩ điều trị. Trong trường hợp trẻ bị tiêu chảy kèm theo mất nước cũng không
dùng thuốc này mà trước tiên cần bồi phụ nước và điện giải bằng đường uống. Đối
với trẻ em dưới 6 tuổi cũng không nên dùng trừ trường hợp có sự theo dõi của bác
sĩ vì nguy cơ mất nước do tiêu chảy. Với người bệnh đái tháo đường khi dùng
thuốc cần quan tâm đến hàm lượng glucose có trong một gói thuốc.
Tôi có thể gây độc cho tai
Amikacin - tôi là một kháng sinh bán tổng hợp thuộc họ aminoglycosid và
chỉ có ở dạng tiêm. Khi vào cơ thể tôi nhanh chóng tìm nơi ẩn nấp của vi khuẩn để
diệt bằng cách gắn hẳn vào tiểu đơn vị 30S của ribosom vi khuẩn và ngăn chặn sự
tổng hợp protein của vi khuẩn. Sau khi nồng độ thuốc trong huyết thanh đã xuống
dưới nồng độ ức chế tối thiểu nhưng hoạt tính diệt khuẩn của tôi vẫn còn. Người ta
gọi đó là tác dụng hậu kháng sinh. Điều này có thể giải thích hiệu quả của tôi có
thể dùng một lần trong ngày.
Hoạt tính kháng khuẩn của tôi chủ yếu chống các trực khuẩn gram âm ưa
khí mà không có tác dụng chống các vi khuẩn kỵ khí và không tác dụng trong môi
trường acid hoặc có áp suất oxygen thấp. Đối với các vi khuẩn gram dương thì tôi
lại rất khiêm tốn.
Tôi được dùng điều trị nhiễm khuẩn nặng, đe dọa tính mạng, đặc biệt chưa
biết nguyên nhân hoặc nhiễm khuẩn máu nghi do trực khuẩn gram âm. Trong điều

trị tùy thuộc vào loại nhiễm khuẩn mà tôi được dùng phối hợp với các kháng sinh
khác như cephalosporin, penicillin... để tăng sức mạnh điều trị. Các tác dụng
không mong muốn của tôi phụ thuộc vào liều dùng. Thường gặp như chóng mặt,
protein niệu, giảm khả năng nghe, độc với hệ tiền đình như buồn nôn và mất thăng
bằng. Ngoài ra các bạn có thể bị nhức đầu, nhược cơ, đau khớp thậm chí bị điếc
nữa. Các thuốc lợi tiểu tác dụng nhanh như forosemid tăng nguy cơ độc với thính
giác và thận. Vì vậy, nếu người bệnh trước đó đã điều trị với các thuốc có nguy cơ
độc với tai hoặc thận như các aminoglycosid khác thì phải chú ý đến sự nguy hiểm
do tích lũy thuốc. Cần phải tránh dùng đồng thời hoặc nối tiếp với các thuốc khác
có độc tính cho thính giác hoặc thận (cả dùng toàn thân và tại chỗ).
Cũng do nguy cơ độc cho tai và thận này mà phải giám sát chức năng thính
giác và chức năng thận khi dùng tôi, đặc biệt đối với người cao tuổi và trẻ nhỏ.
Không dùng tôi kéo dài và/ hoặc lặp lại.
Đối với người rối loạn hoạt động cơ như nhược cơ, hoặc Parkinson cũng
cần thận trọng vì tôi làm yếu cơ trầm trọng. Giống như các kháng sinh khác, dùng
tôi có thể gây tăng sinh các vi sinh vật không nhạy cảm. Nếu xuất hiện điều đó,
phải tiến hành điều trị thích hợp. Khi dùng không được trộn lẫn tôi với các thuốc
khác, đặc biệt là với khánh sinh beta-lactam để tránh tương kỵ thuốc.

×