Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

MỐI QUAN HỆ TAM GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ QUỐC GIA ĐỘC LẬP THỜI LÝ TRẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.88 KB, 7 trang )








Đề tài triết học


MỐI QUAN HỆ TAM GIÁO TRONG SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
QUỐC GIA ĐỘC LẬP THỜI LÝ - TRẦN








MỐI QUAN HỆ TAM GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO
VỆ QUỐC GIA ĐỘC LẬP THỜI LÝ - TRẦN


BÙI THANH PHƯƠNG*
Bài viết góp phần luận chứng một hiện tượng độc đáo, có một không hai trong
lịch sử của dân tộc, đó là mối quan hệ tam giáo trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ quốc gia độc lập dưới thời Lý – Trần. Theo tác giả, cả Phật giáo, Nho
giáo và Đạo giáo đều được Nhà nước phong kiến sử dụng và khuyến khích phát
triển; tam giáo này không chỉ ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, mà còn cạnh


tranh với nhau để giành vị trí hàng đầu.
Sau hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, với chiến thắng Bạch
Đằng năm 938, nước ta đã bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc.
Từ năm 938 đến đầu thế kỷ XI là thời kỳ đất nước ta đạt được sự ổn định về
kinh tế, chính trị, văn hoá và thống nhất dân tộc - những tiền đề quan trọng tạo
nên sự phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện sức
sống của dân tộc trong thời kỳ Lý - Trần.
Trong thời kỳ này, vấn đề phát triển kinh tế được nhà nước phong kiến đặc biệt
quan tâm, vì đó là cơ sở để ổn định tình hình chính trị - xã hội. Bằng các chính
sách khác nhau, nông nghiệp được đưa lên vị trí hàng đầu. Nông nghiệp phát
triển kéo theo sự phát triển của thủ công nghiệp, nhiều nghề của nước ta được
hình thành và phát triển, như đồ gốm, dệt gấm, kiến trúc Từ đó, hình thành
những trung tâm buôn bán lớn trong nước và ngoài nước, như Thăng Long, Vân

Đồn. Trong giai đoạn này, "có thể nói, bộ mặt kinh tế của nước Đại Việt đã phát
triển với một sinh lực dồi dào và đạt đến trình độ khá cao"(1).
Nhà nước trong thời kỳ này được tổ chức theo chế độ phong kiến trung ương tập
quyền và quản lý nhà nước đã có sự phát triển về chất. Nhà Lý rồi nhà Trần đều
ban bố các bộ luật. Thời kỳ này, tăng lữ quý tộc là một tầng lớp đông đảo và có
quyền lực đáng kể trong triều đình. Mặt khác, do yêu cầu của lịch sử, của thực
tiễn đòi hỏi phải có một đội ngũ trí thức liên tục được bổ sung từ những người
ngoài tông tộc để xây dựng chính quyền, tầng lớp nho sinh ngày càng có vai trò
quan trọng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, đến năm 1267, những người văn học
bắt đầu giữ quyền bính từ đây. Như vậy, tới thời Trần đã có sự phân hoá trong
giai cấp thống trị: một bên là tôn thất nhà vua, tăng lữ có thế lực, có sản nghiệp,
có khuynh hướng ủng hộ Phật giáo; một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí
tuệ. Nói cách khác, bắt đầu có mâu thuẫn trong hệ tư tưởng phong kiến giữa một
bên ủng hộ, đề cao Phật giáo và một bên đề cao Nho giáo.
Văn hoá tư tưởng Đại Việt thời kỳ này có điều kiện phát triển rực rỡ trong hoàn
cảnh một quốc gia độc lập. Phật giáo thời kỳ này hầu như trở thành quốc giáo,

có vai trò to lớn trong việc đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước và chống ngoại
xâm. Do đó, Phật giáo được nhà nước phong kiến đặc biệt quan tâm cả về cơ sở
vật chất lẫn giáo lý, đội ngũ sư sãi: có lần xây tới 950 ngôi chùa một lúc, nhiều
lần xuống chiếu viết kinh Tam Tạng, cho in lại các sách Phật giáo phổ biến
trong thiên hạ và cấp độ điệp cho nhân dân trong nước làm tăng(2). Chính nhờ
sự quan tâm lớn của nhà nước phong kiến nên các dòng Thiền vào Việt Nam lúc
này được dịp phát triển độc lập và mang bản sắc riêng của Việt Nam, đóng vai
trò quan trọng trong hệ tư tưởng của các triều đại, như phái Thảo Đường thời
Lý, phái Trúc Lâm thời Trần. Tuy nhiên, việc đề cao Phật giáo quá mức cũng
dẫn đến những hệ quả khôn lường: "Phật giáo tràn lan khắp nơi, bên cạnh cái tốt
cái hay, đã xuất hiện cái dở cái xấu"(3). Năm 1344 là năm mất mùa đói kém

nhưng nhiều người lại đi tu, thậm chí "số sư sãi ngang gần với số phu dịch"(4).
Những vấn đề trên đã ảnh hưởng đến sức sản xuất và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
cũng như sự phát triển của xã hội. Bởi vậy, nhà nước phong kiến lúc đó đã buộc
phải đưa ra nhiều biện pháp hạn chế: sa thải các tăng đạo chưa đến năm mươi
tuổi, bắt phải hoàn tục v.v Ngoài những nguyên nhân chủ quan như trên,
nguyên nhân quan trọng nhất làm suy yếu Phật giáo là hệ thống giáo lý của Phật
giáo đã không đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà nước phong kiến trung ương
tập quyền ở nước ta thời kỳ đó.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo, nền giáo dục Nho học đã dần
dần đi vào nề nếp và phát triển, "có ý nghĩa rất to lớn đối với sinh hoạt văn hoá
và tư tưởng của nước Đại Việt"(5) sau này. Tại sao vậy? Vì Phật giáo là học
thuyết về giải thoát con người nhưng lại chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng
một nhà nước phong kiến tập quyền vững mạnh. Trong khi đó, Nho giáo với các
tư tưởng "trung quân”, “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" dường như đáp
ứng được yêu cầu này. Mặt khác, Nho giáo lúc bấy giờ ở phương Bắc tuy có
những hạn chế, nhưng đối với nước ta thì nó vẫn có ý nghĩa tích cực nhất định
trong việc xây dựng đạo đức, lối sống và sự phát triển văn hoá của người Việt.
Vì vậy, sau khi xây dựng Văn Miếu, năm 1075, triều đình phong kiến đã mở

khoa thi Minh Kinh bác học. Sang tới triều Trần, các khoa thi được mở 7 năm
một lần để chọn nhân tài.
Tình hình trên làm cho nền văn hoá Đại Việt có bước phát triển về chất so với
thời kỳ trước đó. Nếu như văn hóa, tư tưởng thời Lý còn chịu ảnh hưởng lớn
của Phật giáo cả về thể loại lẫn ngôn ngữ, trường hợp "Chiếu dời đô", "Nam
quốc sơn hà" chưa rộng khắp, thì sang thời Trần, văn hoá, tư tưởng đã phát triển
nở rộ cả về thể loại lẫn đề tài, v.v Sự ra đời của các tư liệu được viết bằng chữ
Nôm năm 1282 được coi là "cuộc cách mạng thực sự trong văn hoá và nhà nước

nói riêng"(6), nó chứng tỏ rằng chúng ta có quốc gia lãnh thổ độc lập, có văn
hoá và phong tục riêng. Việc phát triển Nho học một cách có ý thức của các
triều đại làm cho Nho giáo dần dần chiếm vị trí quan trọng trong xã hội. Nhưng
khi Nho giáo đã đủ mạnh và Phật giáo đã bộc lộ những nhược điểm thì Nho
giáo tiến hành phê phán Phật giáo để từng bước giành vị trí hệ tư tưởng chủ đạo.
Đạo giáo dưới thời kỳ này vẫn tiếp tục phát triển, song nó kết hợp chặt chẽ với
yếu tố Mật tông của Phật giáo, tín ngưỡng bản địa nên có cơ sở vững chắc trong
dân gian và triều đình. Mức độ chi phối của Đạo giáo về mặt tư tưởng là khá
hạn chế, chủ yếu ảnh hưởng đến tín ngưỡng và mê tín. Các vị vua thời kỳ này
nhiều lần lập đền, dựng đàn cầu đảo mưa, giải hạn… Đại thần Trần Nhật Duật
tỏ ra ưa thích và thông hiểu kinh điển Đạo giáo. Cuối thời Trần, Đạo giáo còn bị
lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị. Hồ Quý Ly cho đạo sĩ vào cung ép
Thuận Tông phải nhường ngôi cho con và tự xưng là Thái thượng Nguyên Quân
Hoàng Đế. Theo Việt điện u linh, các chùa, đền thờ các danh nhân có công với
nước hoặc thờ các thần linh bản địa đều là nơi cầu mưa, cầu tài, cầu lộc. Nhìn
chung, xã hội Việt Nam khá phát triển trong thời kỳ Lý - Trần. Phật giáo, Nho
giáo và Đạo giáo đều được nhà nước phong kiến khuyến khích phát triển và sử
dụng. Có lẽ, đây là thời kỳ quân bình cả ba đạo. Trong điều kiện như vậy, các
đạo không chỉ ảnh hưởng lẫn nhau, vay mượn của nhau, mà còn cạnh tranh với
nhau để giành vị trí hàng đầu.
Chúng ta biết đến mối quan hệ tam giáo trong thời kỳ Bắc thuộc chủ yếu thông

qua những cuộc tranh luận giữa các nhà Nho và sư tăng nhằm khẳng định vai
trò chủ đạo của từng học thuyết. Phật giáo ở Giao Châu được người Việt lựa
chọn làm đối trọng với văn hoá của kẻ thống trị. Mặc dù vậy, đến thời kỳ giành
được độc lập, ở mức độ nhất định, Nho giáo vẫn có vai trò quan trọng. Trước
yêu cầu khách quan cần xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền, các triều
đại đã có chính sách mở rộng nhằm tiếp thu những yếu tố thích hợp của Nho

giáo, biến nó thành công cụ điều hành, quản lý nhà nước và bảo vệ đất nước.
Mặt khác, học thuyết của đạo Lão ở phương diện uyên áo, thần bí vẫn phát huy
tác dụng trong hoàn cảnh niềm tin của nhân dân ta vốn cởi mở do tín ngưỡng đa
thần truyền thống; vì vậy, nó trở thành yếu tố "phụ" trong các mục đích khác
nhau của nhà nước. Có thể nói, mối quan hệ tam giáo trong thời kỳ này được thể
hiện trên tất cả các lĩnh vực, góp phần làm nên bản sắc riêng của văn hoá Đại
Việt, nhất là trong công cuộc bảo vệ đất nước.
Sau khi đất nước giành được độc lập năm 938, một vấn đề quan trọng đặt ra là
cần phải có một chính quyền trung ương tập quyền vững mạnh. Đây là một yêu
cầu khách quan, một xu hướng tất yếu của lịch sử, bởi trong điều kiện cụ thể lúc
đó, chỉ có nhà nước tập quyền mới có khả năng thống nhất được quốc gia, lãnh
đạo việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thời kỳ này, Phật giáo vẫn chiếm ưu thế
và được nhà nước phong kiến đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, với thế giới quan,
nhân sinh quan yếm thế, Phật giáo tỏ ra không phù hợp với yêu cầu xây dựng
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Chỉ trong vòng mấy chục năm đầu
thời kỳ độc lập, đã có tới ba triều đại liên tiếp thay đổi. Đương nhiên, điều này
không phải là do Phật giáo và Đạo giáo được chú trọng, còn Nho giáo thì
không. Vấn đề là ở chỗ, các triều đại lúng túng trước sự lựa chọn mô hình nhà
nước và kèm theo đó là hệ tư tưởng thích hợp với nó. Vì vậy, sang thời kỳ Lý -
Trần, việc vận dụng những tư tưởng của Nho giáo nhằm xây dựng và củng cố
chính quyền nhà nước là một yêu cầu quan trọng. "Ngay từ thời Lý, nhà vua đã
nhiều lần nhấn mạnh trong lời phát ngôn của mình về một khuôn mẫu lý tưởng
của nhà nước phong kiến. Khuôn mẫu đó là cái nhà nước “Tam đại”, “Thang

Võ”, “Đường Ngu Nghiêu Thuấn”"(7). Đào Cam Mộc coi việc lên ngôi của Lý
Công Uẩn là: " trên thuận lòng trời, dưới theo lòng dân". Chiếu dời đô của Lý
Công Uẩn nói lên ý nguyện " mưu chọn ở chính giữa làm kế cho con cháu
muôn đời"(8). Theo tư tưởng Nho giáo, chỉ có đóng đô ở trung tâm mới quản lý
được sự thống nhất của đất nước. Việc củng cố vương quyền của nhà vua cũng

được khẳng định, "vì ngôi chí tôn và quyền hạn tối thượng của nhà vua có ý
nghĩa quyết định sự hưng vong của một nhà nước phong kiến"(9). Bài thơ Thần
được cất lên trong cuộc kháng chiến chống Tống ở bến sông Như Nguyệt đã
khẳng định chủ quyền độc lập của đất nước:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhất đẳng hành khan thủ bại hư"
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)(10)
Sang tới thời Trần, mặc dù có tư tưởng độc lập và khẳng định "Nam Bắc không
phải noi nhau"(11), nhưng Hịch tướng sĩ vẫn lấy chính những điển tích của Nho
giáo để kích động tinh thần yêu nước. Các kỳ thi vẫn được tổ chức thường
xuyên nhằm tìm nhân tài cho đất nước. Nếu nhà Lý mở khoa thi đầu tiên vào
năm 1075 với nội dung là những kiến thức của tam giáo, thì nhà Trần tổ chức kỳ
thi đều đặn hơn, cứ 7 năm một kỳ. Những tư tưởng về trách nhiệm của nhà cầm
quyền đối với dân được thể hiện khá rõ, như "Trẫm là cha mẹ dân, nếu thấy dân
lầm than thì phải cứu ngay há nên so đo khó dễ, lợi hại"(12). Như vậy, đứng
trước yêu cầu xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, tư
tưởng Nho giáo từng bước được vận dụng vào thực tiễn và đã phát huy tác dụng

×