Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Nho sĩ thanh chương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước từ năm 1802 đến năm 1919

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.98 KB, 63 trang )

Mục lục
Mở đầu
1.
Lí do chọn đề tài.
2.
Lịch sử, vấn đề.
3.
Đối tợng, phạm vi nghiên cứu.
4.
Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu.
5.
Đóng góp của khoá luận.
6.
Bố cục của khoá luận.
Nội dung

Trang
3
3
4
5
6
6
7
8

Chơng 1: Khái quát điều kiện hình thành truyền thống yêu nớc và khoa bảng của nhân dân Thanh Chơng.
8

1.1 Điều kiện địa lý _ tự nhiên.
1.2 Điều kiện lịch sử _ văn hoá.


1.2.1
Điều kiện lịch sử.
1.2.2
Điều kiện văn hoá.

8
12
12
13

Chơng 2: Đóng góp của nho sĩ Thanh Chơng, trong sự nghiệp
16
xây dựng quê hơng, Đất nớc từ năm 1802 đến năm 1919.

2.1 Nho sĩ Thanh Chơng tiếp bớc truyền thống khoa cư cđa cha anh.
2.2 Nho sÜ Thanh Ch¬ng trong sự nghiệp chính trị, văn hoá, t tởng.
2.3 Một số nho sĩ tiêu biểu.
2.3.1
Đinh Nhật Thận.
2.3.2
Đặng Nguyên Cẩn.
2.3.3
Đặng Thúc Hứa.
2.4 Một vài nhận xét.

16
23
32
32
40

41
45

Chơng 3: Nho sĩ Thanh Chơng trong phong trào yêu nớc chống
46
Pháp từ 1858 1919.

3.1 Nho sĩ Thanh Chơng trong khởi nghĩa Giáp Tuất(1874).
3.1.1 Quá trình chuẩn bị.
3.1.2 Nho sĩ Thanh Chơng trong khởi nghĩa Giáp Tuất(1874).
3.2 Nho sĩ Thanh Chơng trong phong trào Cần Vơng chống Pháp (1885
- 1896).
3.2.1 Phong trào Cần Vơng bùng nổ.
3.2.2 Nho sĩ Thanh Chơng hởng ứng chiếu Cần Vơng chống Pháp.

3.3 Nhận xét về phong trào đấu tranh của nho sĩ Thanh Chơng trong giai
đoạn nửa sau TK XIX.
3.4 Nho sĩ Thanh Chơng trong phong trào dân tộc đầu thế kỷ XX.
3.4.1 Nho sĩ Thanh Chơng với phong trào Đông Du.
3.4.2 Nho sĩ Thanh Chơng với phong trào xuất dơng trong
những năm đầu thế kỷ XX.
Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham kh¶o.

1

47
47
50

57
57
57
59
60
60
61
64
66
75


2


Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
1.1 Thanh Chơng là mét hun miỊn nói n»m ë phÝa t©y nam tØnh Nghệ
An. Đây là vùng đất mang trong mình truyền thống văn hoá lâu đời của dân
tộc Việt Nam. Truyền thống ấy đà và đang đợc nhân dân Thanh Chơng gìn
giữ từ đời này sang đời khác. Trong suốt tiến trình phát triển của dân tộc,
nhân dân Thanh Chơng đà đem hết sức mình góp phần xây dựng và bảo vệ
quê hơng đất nớc, trong đó có tầng lớp trí thức nho sĩ luôn là lực lợng đi
đầu.
Nho sĩ Thanh Chơng không chỉ nổi tiếng về thông minh mà còn nổi
tiếng về tinh thần hiếu học,hiếu học,, hiếu học,khổ học,, nơi đây đà cống hiến cho đất nớc
nhiều nhân tài. Không những vậy, nho sĩ Thanh Chơng còn mang trong
mình tình yêu quê hơng đất nớc tha thiết, nồng nàn, sẵn sàng xông pha trận
mạc đánh đuổi quân thù xâm lợc, giữ yên bờ cõi. Khi thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, sĩ tử Thanh Chơng đà sát cánh cùng với sĩ phu và nhân dân cả nớc đánh đuổi thực dân xâm lợc, bảo vệ nền độc lập dân tộc, tiêu biểu là
cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874) dới ngọn cờ của các sĩ phu nh Trần Tấn,

Đặng Quang Vinh, Trần Hớng, Hay khi phong trào Cần VHay khi phong trào Cần Vơng bùng nổ
thì nhân dân Thanh Chơng dới sự lÃnh đạo của các sĩ phu đà đứng lên hởng
ứng mạnh mẽ.
Tìm hiểu những hoạt động của tầng líp nho sÜ Thanh Ch¬ng 18021919 Nh»m thÊy râ h¬n về những đóng góp của họ trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ quê hơng đất nớc, thấy đợc vai trò tổ chức và lÃnh đạo
kháng chiến, huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân của họ là việc làm
hết sức có ý nghĩa và đúng đắn.
Thông qua khoá luận tác giả giới thiệu với bạn đọc những tấm gơng
cụ thể: Trần Tấn, Đặng Nh Mai, Đinh Nhật Thận, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng
Thúc HứaHay khi phong trào Cần V Nhằm làm bật lên một Thanh Chơng - vùng đất hiếu học,Địa linh
nhân kiệt,, không những nổi tiếng về tinh thần hiếu học mà còn là vùng đất
gan góc với những nho sĩ tiêu biểu hết lòng vì dân vì nớc, luôn đứng về phía
nhân dân chống lại sự xâm lợc của thực dân. Bên cạnh đó, đây còn là t liệu
giúp ích cho việc giáo dục truyền thống yêu nớc của địa phơng, của dân tộc.

3


1.2 Từ những mục đích trên cùng với niềm tự hào về quê hơng Thanh
Chơng, tôi mạnh dạn chon đề tài hiếu học,Nho sĩ Thanh Chơng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ quê hơng đất nớc từ năm 1802 đến năm 1919, làm đề
tài khoá luận tốt nghiệp đại học.
2 . Lịch sử vấn đề:
Vai trò của tầng lớp sĩ phu nho học ở Thanh Chơng trong giai đoạn
1802_1919 đà đợc đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu, qua một
số sách báo cụ thể nh :
Khi viết về đặc điểm địa lý, lịch sử trong đó cũng nói đến chế độ giáo
dục khoa cử Thanh Chơng có các tác giả, tác phẩm nh Bùi Dơng Lịch trong
“hiÕu häc”,NghÖ An Ký”, (1993), Ninh ViÕt Giao trong “hiÕu học,Hơng Ước Nghệ
An,(1984). . .

Viết về truyền thống hiếu học, khoa bảng có tác phẩm : hiếu học,Những Ông
Nghè, Ông Cống Triều Nguyễn,(1995) của các tác giả Bùi Hạnh Cẩn,
Nguyễn Loan, Lan Phơng; Ngô Đức Thọ trong cuốn hiếu học, Khoa B¶ng ViƯt
Nam”,(1991), hay “hiÕu häc”,Khoa B¶ng NghƯ An”,(1998) cđa Đào Tam Tĩnh, đặc
biệt là khóa luận tốt nghiệp của Phan Thị Hằng. . .
Viết về truyền thống chống giặc ngoại xâm có: Ban chấp hành Đảng
bộ huyện Thanh Chơng hiếu học, Lịch sử Đảng bộ huyện Thanh Chơng, NXB
Chính Trị Quốc Gia (2005), hiếu học,Thanh Chơng Đất Và Ngời, NXB Nghệ An
(2005). . .ĐÃ phác hoạ vị trí của xứ Nghệ xa (Nghệ An _Hà Tĩnh) , luôn có
truyền thống hiếu học với các địa danh hiếu học,Ngọn Bút,, hiếu học,Cồn Nghiên,, trong
đó đà ít nhiều đề cập đến mảnh đất Thanh Chơng nghèo khó mà cần cù,
hiếu học và giàu lòng yêu nớc.
Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách viết về tiểu sử, giai thoại của các
nhà khoa bảng Việt Nam, những khoá luận tốt nghiệp của sinh viên ngành
sử, sách báo, tạp chí chuyên ngành. . . Bên cạnh những đóng góp của các
công trình này thì vẫn còn những hạn chế nh hầu hết các công trình còn
mang tính đánh giá chung chung, tổng quan, cha có một công trình cụ thể
nghiên cứu một cách có hệ thống về những đóng góp của riêng tầng lớp trí
thức Nho sĩ Thanh Chơng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hơng,
đất nớc. Từ đó đặt ra vấn đề cần hệ thống hoá và nghiên cứu một cách đầy
đủ về những đóng góp của tầng lớp nho sĩ Thanh Chơng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ quê hơng đất nớc từ năm 1802 - 1919.

4


3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:
Địa giới hành chính của huyện Thanh Chơng qua các thời kì kịch sử
có nhiều thay đổi ( xem mục1.1). Tuy nhiên, khoá luận này chỉ đi vào tìm
hiểu Thanh Chơng trong địa giới hiện nay, địa giới đó đà đợc ổn định từ

năm 1907.
Là một huyện miền núi của tỉnh Nghệ An, Thanh Chơng là vùng đất
có bề dày truyền thống văn hoá, truyền thống yêu nớc và cách mạng rất
đáng tự hào, nhng nổi bật hơn cả là truyền thống yêu nớc cách mạng. Khoá
luận này tập trung đi sâu tìm hiểu hai truyền thống quý báu đó, qua đó làm
rõ và khẳng định những đóng góp quan trọng của tầng lớp nho sĩ Thanh Chơng đối với quê hơng đất nớc.
Giới hạn phạm vi đề tài đợc tính từ khi triều Nguyễn đợc thiết lập
(1802) cho đến khi kết thúc chế độ khoa cử Nho học (1919). Nhng trong
khoá luận này có những chỗ vợt ra khỏi phạm vi giới hạn đó. Bởi vì có một
số nhân vật và sự kiện mang ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình lịch sử
của dân tộc nên tác giả thấy cần có sự mở rộng thêm để tiện đối chiếu, so
sánh.
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng nh÷ng ngn t liƯu nh : “hiÕu häc”,NghƯ An ký”, của Bùi Dơng
Lịch, hiếu học,Thanh Chơng đất và ngời,của nhiều tác giả; hiếu học,Những ông nghè, ông
cống triều Nguyễn, của các tác giả Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phơng; hiếu học,Khoa bảng Nghệ An, của Đào Tam Tĩnh; hiếu học,Lịch sử Đảng bộ huyện
Thanh Chơng, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Chơng. . .
Các tác phẩm có liên quan ở th viện tỉnh, th viện đại học Vinh Hay khi phong trào Cần V và
qua tìm hiểu thực tế.
Từ những nguồn t liệu đó, tôi đà sử dụng các phơng pháp chuyên
ngành là phơng pháp lịch sử nhằm khôi phục lại bức tranh quá khứ phơng
pháp thống kê, so sánh, phơng pháp lô gíc để đối chiếu xử lí thông tin.
5. Đóng góp của khoá luận:
Khoá luận trình bày một cách có hệ thống hoạt động và vai trò của
tầng lớp nho sĩ Thanh Chơng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hơng
đất nớc, qua đó giúp bạn đọc có cái nhìn toàn diện về đóng góp của nhân
dân Thanh Chơng đối với sự nghiệp chung của đất nớc, vừa rút ra đợc
những đóng góp chủ yếu của các nho sĩ đối với quê hơng đất nớc mà các

5



công trình trớc đây cha có điều kiện làm sáng tỏ một cách đầy đủ. Bên cạnh
đó những ngời con của quê hơng Thanh Chơng có thể tìm thấy ở khoá luận
này tên tuổi của những nhà nho yêu nớc, từng lÃnh đạo nhân dân đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc.
Khoá luận này còn góp phần làm phong phú hơn lịch sử huyện Thanh
Chơng từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỷ XX. Đây sẽ là nguồn tài liệu quan
trọng giúp cho giáo viên các trờng PTTH và THCS biên soạn và giảng dạy
các tiết học lịch sử địa phơng cho học sinh.
6. Bố cục của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, phụ lục, nội dung của khoá luận đợc
trình bày trong ba chơng:
Chơng 1: Khái quát điều kiện hình thành truyền thống yêu nớc và khoa
bảng của nhân dân Thanh Chơng.
Chơng 2: Đóng góp của nho sĩ Thanh Chơng trong sự nghiệp xây dựng quê
hơng, đất nớc từ 1802-1919.
Chơng 3: Nho sĩ Thanh Chơng trong phong trào yêu nớc chống Pháp từ
1858- 1919.

6


Nội dung
Chơng 1: khái quát điều kiện hình thành
truyền thống yêu nớc và khoa bảng
của nhân dân Thanh Chơng.
1.1: Điều kiện địa lý-tự nhiên.
Huyện Thanh Chơng nằm ở phía Tây Nam tØnh NghÖ An, cã diÖn
tÝch 1.127,63km2, xÕp thø 5 trong 19 huyện, thành, thị trong tỉnh, Thanh

Chơng có vị trí địa lý từ 18 034/ đến 18o55/ vĩ độ bắc, và từ104055/ đến
105o30/ kinh độ Đông; phía Bắc giáp huyện Đô Lơng và huyện Anh Sơn;
phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh; phía Đông giáp huyện Nam Đàn; phía Tây và
Tây Nam giáp huyện Anh Sơn và tỉnh Bôlykhămxay(nớc cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào) với đờng biên giới quốc gia dài 53km [2,11].
Địa hình Thanh Chơng rất đa dạng. Tính đa dạng này là kết quả của
một quá trình kiến tạo lâu dài và phức tạp. Núi đồi trung du là địa hình
chiếm phần lớn đất đai của huyện. Núi non hùng vĩ nhất là dÃy Giăng Màn
có đỉnh cao 1.026m, tạo thành giới tự nhiên với tỉnh Bôlykhămxay(Lào),
tiếp đến là đỉnh Nác La cao 838m, đỉnh Vũ Trụ cao 987m, đỉnh Bè Noi cao
509m, đỉnh Đại Can cao 528m, đỉnh Thác Muối cao 328m. Núi đồi tầng
tầng lớp lớp, tạo thành những cánh rừng trùng điệp. Phía hữu ngạn Sông
Lam đồi núi xen kẽ, có dÃy chạy dọc, có dÃy chạy ngang, có dÃy chạy ven
bờ sông, cắt xẻ địa bàn Thanh Chơng ra nhiều mảng, tạo nên những cánh
đồng nhỏ hẹp. Chỉ có vùng Thanh Xuân, Võ Liệt, Thanh Liên là có những
cánh đồng tơng đối rộng. Phía tả ngạn Sông Lam, suốt một dÃi từ núi Cuồi
kéo xuống đến rú Dung, núi đồi liên tiếp nh bát úp, nổi lên có đỉnh Côn
Vinh cao 188m, Rú Nguộc (Ngọc Sơn) cao 109m [1,11-12].
Cũng nh các miền núi khác trong tỉnh, vùng đất Thanh Chơng do
khai thác lâu ®êi, båi tróc kÐm nªn ®Êt ®ai trë nªn c»n cỗi và ong hoá
nhanh, trừ vùng đất phù xa màu mỡ ven Sông Lam và Sông Giăng.
Sông Lam (Tức Sông Cả) bắt nguồn từ Thợng Lào, chạy theo hớng
Tây Bắc- Đông Nam, qua các huyện Kỳ Sơn, Tơng Dơng, Con Cu«ng, Anh

7


Sơn, Đô Lơng, chảy dọc huyện Thanh Chơng, chia huyện ra hai vùng: hữu
ngạn và tả ngạn. Sông lam là một đờng giao thông thuỷ quan trọng. Nó bồi
đắp phù xa màu mỡ ven sông, nhng về mùa ma nó trở nên hung dữ, thờng

gây ngập úng ở vùng thấp. Sông Lam còn có các phụ lu trong địa bàn
Thanh Chơng nh: Sông Giăng, Sông Trai, Sông Rộ, Sông Nậy,Sông Triều và
Sông Đa Cơng (Rào Gang).
Với hệ thống sông ngòi chằng chịt khắp huyện, ngoài tuyến đò dọc,
từ lâu đời, nhân dân còn mở hàng chục bến đò ngang, tạo điều kiện giao
thông vận tải, giao lu giữa các vùng trong huyện.
Do địa thế sông núi hiểm trở nên Thanh Chơng là một vị trí chiến lợc
quan trọng về mặt quân sự. Ngời đời xa đà đánh giá địa thế Thanh Chơng là
hiếu học,tứ tắc,( tức ngăn lấp cả bốn mặt).
Núi non trùng điệp, sông nớc lợn quanh tạo cho Thanh Chơng dáng
vẻ thơ mộng, hiếu học,Sơn thuỷ hữu tình, đẹp nh một bức tranh thuỷ mặc. Một
trong những cảnh đẹp tiêu biểu là Ngọc Sơn. Sách hiếu học, ốc lậu thoại, của Bùi
Dơng Lịch có bài thơ vịnh Ngọc Sơn (Núi Nguộc) nh sau:
Đột ngột lâm trung xuất,
Y hi bút để miêu.
Đính xung thanh hán khoát,
Tỵ tẩm bích ba đao.
Vân đái minh tuyền hoạt,
Xung thiêm quý thảo nhiêu.
ẩn nhiên hùng đại lực,
Vạn cổ trấn giang triều.
Dịch thơ:
giữa rừng đột ngột hiện ra,
Thoạt trông, phảng phất nh là bức tranh.
đầu cao xông tới mây xanh,
Vòi dài thò xuống tận ghềnh nớc khơi.
Dớc mây, tiếng suối reo hoài,
Xuân sang cỏ sọt lại tơi thêm nhiều.
Một vùng hùng vĩ cao siêu,
Muôn năm đứng chặn nớc triều dòng sông,

(Đỗ Ngọc Toại dịch)

8


[29, 147-148]
Thanh Chơng nằm trong vùng tiểu khí hậu Bắc Trung Bộ (nhiệt đới
gió mùa) một năm có đủ bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa Hè có gió
tây nam (giã Lµo) rÊt nãng nùc. Mïa Thu thêng ma nhiỊu, kéo theo bÃo lụt.
Mùa Đông và mùa Xuân có gió đông bắc rét buốt, gây khó khăn cho sản
xuất và sinh hoạt. Mặc dù thời tiết khí hậu khắc nghiệt nh vậy, nhng với
tính cần cù, nhẫn nại, nhân dân Thanh Chơng đà tạo ra đợc những sản vật
đặc trng của từng vùng [1, 13-14].
Ngợc dòng lịch sử, từ trớc Công Nguyên cho tới nay, vùng đất Thanh
Chơng đà trải qua nhiều thay đổi về đơn vị hành chính với nhiều tên gọi
khác nhau.
Năm 111 trớc công nguyên (thời Thuộc Hán) vùng đất này nằm trong
huyện Hàm Hoan, quận Cửu Chân. Từ năm 602 (thời Thuộc Tuỳ), nằm
trong huyện Cửu Đức, quận Nhật Nam. Thời Tiền Lê (980-1009) nằm trong
Châu Hoan. Thêi Lý (thÕ kû XII) n»m trong Ch©u NghƯ An. Thời Trần (thế
kỷ XIII) nằm trong Châu, rồi Trại Nghệ An.
Theo sách hiếu học,Minh Quảng D Ký, thì Nghệ An bÊy giê cã 13 hun
phđ mµ Thỉ Du lµ một huyện. Xem trong sử ký Tiền Lê thì Thái Tổ ( Lê
Lợi) từ Khả Lu thuộc Nam Đờng- nay thuộc Lơng Sơn (tức Anh Sơn ngày
nay) đa quân qua tổng Thổ Hào, thuộc huyện Thổ Du. Lại xét sách hiếu học,Nghệ
An Ký, của Đốc học Nghệ An Bùi Dơng Lịch (1758-1827) thì thời Minh đÃ
có huyện Thổ Du tức là Thanh Chơng. Nhng từ đầu đời Lê đà có Thanh
Giang, còn nh tên huyện Thanh Chơng có từ bao giê th× cha tõng nghe nãi
tíi. Tra cøu mét sè ghi chép vào thời Hồng Đức (1470-1497), nhất là các
sắc chỉ thì thấy rằng địa danh Thanh Chơng cũng nh Thanh Giang đều có

rải rác trong các văn tự chẳng thÊy gièng nhau. Khi xem xÐt s¾c chØ chÐp
trong sư ký Tiền Lê vào năm Quang Thuận thứ nhất (1460) thấy có chỗ ghi
rằng: Viên Trung th tỉnh thị lang nhập thị kinh diên quảng cận thị kỳ hầu
các cục Thợng kỵ đô uý Nguyễn Bá Ký (? -1465) và Hoàng môn thị lang
kiêm Quốc sử viện đồng tu quốc sử Hoàng Sằn Phu (1414-?) khi so sánh
giám định miếu huý (tên huý vua) thi thấy trong tháng Giêng, mùa xuân
năm thứ hai (1429) ban bố miếu huý đại khái rằng: Hiển Tổ đời thứ chín là
Giang. Đến năm thứ bảy (?) lại ban bố là kiêng huý chữ hiếu học,Giang,. Nay tên là

9


Thanh Chơng nếu nói rằng bắt đầu có từ đó không biết đà đúng cha? Muốn
đợc tỏ tờng có lẽ phải đợi khảo cứu thêm.
Lại xét về huyện Thanh Chơng, nguyên cùng với các huyện La Sơn
(nay là Đức Thọ, Hà Tĩnh), Nghi Xuân, Thiền Lộc (nay là Can Lộc, Hà
Tĩnh). Chân Lộc (nay là Nghi Lộc và thành phố Vinh, Nghệ An) đều thuộc
phủ Đức Thọ (trớc gọi là Đức Quang). Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), theo
lệnh đà tách hai huyện Thanh Chơng và Chân Lộc nhập vào phđ Anh S¬n.
Hun Thanh Ch¬ng trùc thc phđ Anh S¬n kể từ đó [20, 36-37].
Thời nhà Nguyễn từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) Thanh Chơng là
một trong 5 huỵên thuộc phủ Anh Sơn.
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840) cắt bốn tổng của huyện Nam Đờng
và một tổng của huyện Thanh Chơng đặt làm huyện Lơng Sơn do phủ Anh
Sơn kiêm lý (huyện Lơng Sơn là đất của huyện Đô Lơng và huyện Anh Sơn
ngày nay).
Đến năm Duy Tân thứ 1(1907), tổng Nam Kim ở phía Đông Nam
huyện Thanh Chơng đợc cắt sang huyện Nam Đàn, đồng thời một dải đất từ
Thanh Khai lên Thanh Hng (ngày nay) đợc cắt từ Nam Đàn nhập sang
Thanh Chơng, và hai tổng Xuân Lâm, Đại Đồng bên này sông khi đó thuộc

Nam Đờng tức Nam Đàn bây giờ thuộc về Thanh Chơng. Nh vậy, trớc cách
mạng Tháng Tám 1945, Thanh Chơng có năm tổng (cấp trung gian giữa
huyện và xÃ) là: Cát Ngạn, Võ Liệt, Bích Hào, Xuân Lâm và Đại Đồng [1,
15-16].
1.2. Điều kiện lịch sử văn hoá. văn hoá.
1.2.1. Điều kiện lịch sử:
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử của mấy nghìn năm
dựng nớc và giữ nớc, lịch sử đó đà hun đúc, bồi đắp nên những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, đó là truyền thống yêu quê hơng đất nớc, truyền thống
chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc, truyền thống tự lực, tự cờng, tinh
thần đoàn kết gắn bó, tơng thân tơng ái, trọng nhân nghĩa, chuộng công lý,
giúp đỡ lẫn nhau, khi xông pha trận mạc thì anh dũng hiên ngang, kiên cờng bất khuất, lúc chịu đựng đau thơng mất mát thì gan góc lầm lì. Truyền
thống đó đà trở thành đặc điểm chung nhất không chỉ ở mỗi địa phơng, mỗi
vùng mà của cả dân tộc Việt Nam.

10


Trong cái nền chung ấy, Thanh Chơng là quê hơng của biết bao vị
anh hùng hào kiệt, biết bao văn thân sĩ phu lỗi lạc, đà có những cống hiến
to lớn cho sự nghiệp xây dựng và giữ vững nền độc lập của nớc nhà. Những
khi tổ quốc lâm nguy, Thanh Chơng lại cùng nhân dân cả nớc đứng lên xả
thân vì nền độc lập tự do của dân tộc, đi đầu trong phong trào đó không ai
khác là tầng lớp trí thức. Trí thức nho sĩ Thanh Chơng không chØ nỉi tiÕng
vỊ trun thèng hiÕu häc, khỉ häc, mµ ở họ còn có một tấm lòng yêu quê hơng đất nớc tha thiết, sẵn sàng xả thân vì nghiệp lớn. Trong suốt chiều dài
lịch sử, thấm nhuần tình yêu quê hơng đất nớc, sĩ phu Thanh Chơng luôn đi
đầu trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ bình yên cho đất nớc, chống cờng quyền, áp bức của giai cấp thống trị. Lịch sử quê hơng đất
nớc vẫn đời đời ghi nhớ công ơn của họ. Với những tấm gơng sáng ngời nh
Phan Đà trong cuộc kháng chiến chống quân Minh; Trần Tấn, Đặng Nh
Mai - Ngời lÃnh đạo cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874); hay nói đến những

con ngời cơng trực nổi lên với tinh thần trung quân ái quốc nh Đinh Nhật
Thận, Phan Sỹ Thục, Nguyễn Hữu Điển. . .Họ là những ngời có một nếp
sống hiếu học,đói sạch, rách thơm,, họ là những ngời con u tú của dân tộc trong
công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Chính vì vậy, mà nơi đây
đà xây dựng nên truyền thống văn hoá riêng của mình.
1.2.2. Điều kiện văn hoá.
Thanh Chơng không đợc thiên nhiên u đÃi nhiều nhng không phải
không có các thứ ngon, vật lạ. D âm của bao dân ca, ca dao cổ vẫn còn vang
vọng trong ta cả một miền trù mật với niềm tự hào, với một tình yêu quê hơng đằm thắm về các sản vật đặc biệt của quê hơng mình. Nhiều câu ca đÃ
giới thiệu các đặc sản đó:
Ai về Cẩm Thái mà coi
Lắm ngô, lắm sắn, lắm khoai, lắm bù.
Ai hay nớc chát măng chua,
Đi qua chợ Chùa thì tới Minh Sơn.
Ai hay mít ngọt, mui bùi,
Có về Cát Ngạn với tôi cùng về.
Ai hay tơng ngọt, nhút chua,
Mời về ó, Nại mà mua ít nhiều.
Thanh Chơng ngon cá sông Giăng

11


Ngon khoai La Mạc, ngon măng Chợ Chùa. . .
Là một huyện vùng núi thấp, đa số c dân Thanh Chơng làm nghề
nông, cấy lúa nớc và trồng tỉa các loại hoa màu nh ngô, khoai, sắn. Ngoài ra
còn có nghề chăn nuôi, nghề khai thác lâm, thổ sản và nhiều nghề thủ công
khác nh trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, trồng bông dệt vải (nh ở Nguyệt Bổng,
Thờng Lang, Rộ, Xuân Lâm, Cẩm Văn), nghề mộc (Ngọc Sơn), nghề đánh
cá, chài lới (Phúc Yên, Xuân Bảng), nghề đan lát, làm tơi nón, chặt củi, đốt

than . . .Từ xa, Thanh Chơng đà có những sản vật nổi tiếng nh Chè Giăng,
và hiếu học,Cơm ba lá, cá sông Giăng, măng chợ Chùa,.
Tuy lao động vất vả, nhng sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của tầng lớp
dân c ở Thanh Chơng vẫn duy trì đợc ở nhiều thế kỷ qua. Văn học dân gian
có các loại truyện cổ tích, truyện trạng thiếu lâm, ca dao, tục ngữ, câu đố,
câu đối, vè. Thanh Chơng có nhiều làng truyền thống sáng tác văn học dân
gian nh Võ Liệt, Hoà Quân, Lơng Điền, Cát Ngạn . . .Đặc biệt là dân ca với
các điệu hò, hát ru, ví dặm . . .
Mê hát dân ca là một bản sắc văn hoá nổi bật của ngời dân xứ Nghệ
nói chung và Thanh Chơng nói riêng:
hiếu học,Hát cho đổ quán xiêu đình,
Cho long lanh nớc, cho rung rinh trời,
Nói nh vậy để ta thấy đợc tinh thần lạc quan của con ngời Thanh Chơng.
Bên cạnh đó thì hiếu học, khổ học đà trở thành truyền thống tốt đẹp
của ngời Thanh Chơng nói riêng, của xứ Nghệ nói chung. Ngay cả tên
làng, tên xà cũng gắn liền với việc học hành thi cử: Nho Lâm, Bút Trận, Bút
Điền . . .(Diễn Châu); Khoa Trờng, Khoa Cử . . .(Nam Đàn); Văn Giai, Kim
Bảng, Khoa Bảng . . .(Thanh Chơng) . . .
Có thể nói tinh thần hiếu học, truyền thống khoa bảng của Thanh Chơng không thua kém bất cứ vùng nào trong tỉnh. Trong các sách hiếu học,Đăng
Khoa Lục,; hiếu học,Liệt Truyện Đăng Khoa Bị Khảo,; hiếu học,Quốc Triều Đăng Khoa
Lục, . . .có ghi tên các làng học nh Võ Liệt, Thổ Hào, Đồng Văn . . . và
những vị đậu đại khoa quê ở Thanh Chơng nh: Nguyễn Sĩ Giáo, Nguyễn
Đình Cổn, Phạm Kinh Vĩ, Nguyễn Tiến Tài, Đinh Nhật Thận, Nguyễn
Phùng Thời, Nguyễn Bá Quýnh, Nguyễn Lâm Thái, Phan Đình Thực . . . Có
những vị tuy đậu Đại Khoa, làm quan to nhng vÉn sèng thanh liªm trong

12


cảnh nghèo, đợc ngời đời ca tụng nh Tiến sĩ Phan sĩ Thục (1822-1891) quê

Võ Liệt, năm Tự Đức thứ 32 (1878) đợc thăng là Trung Phụng đại phu,
Tham Tri Bộ Binh, kiêm phó đô ngự sử viện Đô Sát, Tuần vũ các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị nhng vẫn sống bần bách. Sách Đại Nam Liệt
Truyện có ghi: hiếu học,Sĩ Thục làm quan hơn 40 năm trong cái nhà tranh vách
đất, hũ gạo luôn bị rỗng không mà vẫn thản nhiên,[8,179] . . .Ngoài ra còn
có không ít ngời học rộng tài cao song lại không chịu đi thi, hoặc đi thi nhng không đỗ đạt vì trờng quy ngặt nghÌo . . .Song tµi trÝ cđa hä vÉn khiÕn
ngêi đời phải nể phục.
Sau khi triều Nguyễn đợc thiết lập, các Vua Nguyễn lấy nho học làm
đạo trị nớc, an dân, là phơng tiện giáo hoá con ngời, với chủ trơng độc tôn
nho học, chiêu hiền đÃi sĩ nên việc giáo dục, khoa cử đặc biệt đựơc coi
trọng nhằm đào tạo đội ngũ nhân tài cho đất nớc.

Chơng 2: Đóng góp của nho sĩ Thanh Chơng trong sự
nghiệp xây dựng quê hơng đất nớc từ 1802-1919
Năm 1802, Nguyễn ánh đánh bại vơng triều Tây Sơn lên ngôi hoàng
đế đặt niên hiệu là Gia Long. Nhà Nguyễn chủ trơng độc tôn nho giáo,
chiêu hiền đÃi sĩ nên việc giáo dục, khoa cử đợc các vua Nguyễn đặc biệt
coi trọng nhằm đào tạo đội ngũ nhân tài cho đất nớc.
Cũng nh sĩ tử cả nớc, sĩ tử Thanh Chơng ngày đêm nung nấu kinh sử
chờ ngày ứng thí. Phát huy truyền thống cha anh, sĩ tử Thanh Chơng giai
đoạn 1802-1919 liên tiếp dành đợc nhiều thành tựu, cống hiến cho quê hơng đất nớc nhiều nhân tài trong các lĩnh vực khoa cử, chính trị, văn hoá - t
tởng Hay khi phong trào Cần V

13


2.1

Nho sÜ Thanh Ch¬ng tiÕp bíc trun thèng khoa cư cha anh.
ĐÃ bao đời nay vùng đất Thanh Chơng không chỉ nổi tiếng về cảnh

quan cẩm tú hiếu học,Sơn thuỷ hữu tình, mà còn đợc mệnh danh là xứ sở của truyền
thống hiếu học. Con em Thanh Chơng đến tận bây giờ không chỉ ham học
mà phải luôn luôn vợt lên nghèo đói với đủ bề thiếu thốn để dốc trí học tập.
Với cuộc sống thuần nông giữa một vùng bán sơn địa hiếu học,Nằm kẹp giữa một
bên núi, một bên sông nên đất đai Thanh Chơng đà ít lại cằn cỗi ở nơi ở nơi
cao thì thờng khô hạn, nơi trũng thấp thì thờng lũ lụt thất thờng. Sản vật lại
chẳng có gì đáng kể, [20,61]- nên lam lũ, đói nghèo đối với ngời dân Thanh
Chơng chẳng lấy gì làm lạ. Mặc dù vậy nhng ngay cả đến các triều đại
phong kiến xa cũng coi đây là vùng đất học, là nơi sản sinh ra các bậc anh
tài cho đất nớc:
hiếu học,Tháp Bút, Giăng Màn muôn thủa lẫy lừng, khoa bảng
Dòng Lam Hồ Nại một vùng toả sáng nhân văn,
Khi nho học bắt đầu phát triển, năm 1075 nhà Lý mở khoa thi đầu
tiên đặt nền móng cho nền khoa cử của nớc nhà, thì Nghệ An lúc bấy giờ
còn là một vùng đất hiếu học,trại,. Nhng khoa bảng Nghệ An không vì thế mà kém
cỏi. Ngời mở đầu cho nền khoa bảng xứ Nghệ là Trại Trạng nguyên Bạch
Liêu, ngời Nguyên Xá - Diễn Châu, đỗ khoa Bính Dần(1266), năm Thiệu
Long thứ chín. Và từ đó sĩ tử xứ Nghệ nối tiếp nhau ghi tên bia đá ngàn
năm. Hoà cùng dòng chảy đó sĩ tử Thanh Chơng cũng nỗ lực khai hoa.
Trên mảnh đất Thanh Chơng nghèo khó, khí hậu lại khắc nghiệt, cái
nghèo cái khổ lại đè nặng lên cuộc sống của con ngời nơi đây. Nhng cũng
chính những khó khăn đó đà hun đúc cho họ ý chí học tập để vơn lên thoát
khỏi cái nghèo, cái khổ. Do vậy, mà các gia đình dù khó khăn đến mấy đều
muốn cho con đợc học lấy cái chữ thánh hiền, lo đèn sách chờ ngày ứng thí
rạng đờng công danh:
hiếu học,Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối nghiệp nớc nhà
Trớc là đẹp mặt sau là ấm thân,
Hơn nữa làng xà cũng có những quy định nhằm khuyến khích việc
học hành của con em nh giành một phần ruộng công để làm hiếu học,học điền,,

hiếu học,biếu điền,, miễn lao dịch cho các sĩ tử đang chăm lo đèn sách; quy định
việc đón rớc khi có ngời đỗ đạtHay khi phong trào Cần V những điều đó đợc quy định trong hơng -

14


ớc của một số làng xà [21,52] . Học điền dùng để đài thọ cho những ngời
đang đi học. Còn biếu điền là phần thởng cho những ai đà đỗ đạt. ở Võ Liệt
Thanh Chơng , đem biếu chín sào cho ngời đỗ phó bảngHay khi phong trào Cần V tầng lớp nho sĩ khoa bảng ở làng xà rất đợc trọng vọng. Họ đợc ngời dân coi trọng hơn cả
những vị làm quan có chức tớc mà học vị thấp hiếu học,trọng quan hơn trọng
hoạn,[11,33-34]. Vì vậy mà số ngời đỗ đạt của Thanh Chơng rất nhiều,
điều này đợc thể hiện trong bảng tổng hợp về thành tựu khoa bảng Nghệ An
- Thanh Chơng thời Nguyễn sau:

Stt

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Huyện


Nam Đàn
Thanh Chơng
Diễn Châu
Quỳnh Lu
Nghi Lộc
Yên Thành
Đô Lơng
Hng Nguyên
Vinh
Anh Sơn
Tổng cộng

Cử nhân

Phó
bảng

Tiến sĩ

Tổng số

102
85
79
74
75
29
22
23
22

1
512

14
6
7
9
5
2
1
1

14
4
4
7
5
2
2
1
2
1
42

130
93
90
90
85
33

25
25
23
2
596

45

Nhìn vào bảng ta thấy, trong số 512 Cử nhân của cả tỉnh Nghệ An thì
Nam Đàn chiếm 102 Cử nhân(19%) xếp thứ nhất, Thanh Chơng 85 Cử
nhân(16%) xếp thứ hai, còn Phó bảng và Tiến sĩ thì so với toàn huyện
Thanh Chơng có số lợng là 6 Phó bảng và 4 Tiến sĩ trong đó Nam Đàn
chiếm 14 Phó bảng và 14 Tiến sĩ(33% tiến sĩ của cả tỉnh). Mặc dù Phó
bảng, Tiến sĩ của Thanh Chơng ít hơn các huyện Quỳnh Lu, Diễn Châu nhng Thanh Chơng lại có số lợng Cử nhân nhiều hơn. Trong đó có 3 vị làm
Huấn đạo, 6 vị làm Đốc học, 5 vị làm Giáo thụ Hay khi phong trào Cần V nh vậy có thể nói, Thanh
Chơng không chỉ là vùng đất khoa bảng của cả tỉnh mà còn là nơi phát khoa
của cả nớc.
Sau đây là tiểu sử 10 vị đỗ đại khoa của Thanh Chơng trong triều
Nguyễn (tóm tắt):
1.
Bùi Sĩ Tuyển hay Đình Tuyển (1798-1864): Ngời xà Hà Xá, nay là
xà Thanh Hà- Thanh Chơng , 40 tuổi đậu Tú tài, đợc bổ chức Hồng Lô. Sau
khi dự kỳ thi sát hạch đủ điểm dự thi hội, đậu Phó bảng, ân khoa Mậu

15


Thân- Tự Đức 1(1848). Làm quan: Hàn lâm viên tu soạn, tập hiền viện,
Kinh diên khởi c trú, đốc học Hải Dơng, Lang trung bộ binh, Đốc học
Quảng Nam, Hàn lâm viện thị độc học sĩ, Hồng lô tự khanh, sung sử quán

toản tu, thọ 66 tuổi.
2.
Đặng Nguyên Cẩn (1866-1923) hiệu: Thai Sơn, ngời làng Lơng Điền,
tổng Bích Hào, nay là xà Thanh Xuân huyện Thanh Chơng. Lúc đi thi hơng
lấy tên là Đặng Thai Nhẫn, đậu cử nhân khoa Mậu Tí - Đồng Khánh thứ
3(1888), đỗ phó bảng khoa ất Mùi, niên hiệu Thành Thái thứ bảy(1895),
lúc này mang tên Đặng Nguyên Cẩn. Từng làm giáo thụ phủ Hng Nguyên,
Đốc học Nghệ An, Đốc học Bình Thuận, từng tham giao phong trào chống
thuế ở Trung Kì 1908 bị thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo, bị tù 13 năm,
đến 1921 đợc trả tự do. Thọ 57 tuổi.
3.
Đinh Nhật Thận(1814-1866) ngời xóm Xuân Vinh. Làng Thanh
Liêu, tổng Cát Ngạn, nay là xà Thanh Tiên, huyện Thanh Chơng, đỗ Cử
nhân khoa Đinh Dậu, Minh Mạng thứ 18(1837), đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất,
năm Minh Mạng thứ 19(1838), làm quan tới chức tri phủ, từng đi sứ. Thọ
52 tuổi.
4.
Lê Đình Thức (1818- ?) ngêi x· Thanh La, nay lµ x· Thanh Lĩnh,
Thanh Chơng , 26 tuổi đậu Cử nhân(1834), 31 tuổi đậu Phó bảng, khoa
Mậu thân - Tự Đức 1 (1848). Làm quan Lang Trung, Lang Biện, Thái
Nguyên, mất vì công việc.
5.
Nguyễn Hữu Điển(1825 - ?) ngời xà Đại Đồng nay là xà Thanh Văn,
Thanh Chơng, 24 tuổi đậu Cử nhân(1846). 29 tuổi đậu Đệ Tam Giáp tiến sĩ,
khoa Quý Sửu - Tự Đức 6(1853). Ông là con trai duy nhất của Cử nhân
Nguyễn Hữu Bích - Tri huyện Thân Thi (Hng Yên), và là hậu duệ Đích trởng đời thứ 9 của quận công Nguyễn Hữu Trác từng làm quan trải đến Thợng th Bộ Binh thời hậu Lê. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện của sử
quán triều Nguyễn đà viết về ông, có đoạn: hiếu học,Hữu Điển lúc trẻ chăm học,
thờ mẹ có hiếu,. Tự Đức năm thứ 6 (1853) đỗ tiến sĩ Bổ Hàn Lâm viện biên
tu rồi thăng chủ sự. Năm thứ 9 (1856) thự tri phủ Bình Giang, nhận chức 2
năm, dân rất yên vui. Gặp khi thổ phỉ ở Hng Yên đến cớp bóc trong hạt,

Hữu Điển mang quân đi đánh bắt. Có ngời thấy thế giặc đang mạnh thì
ngăn lại, Hữu Điển nói rằng: hiếu học,Tôi tạm đợc coi giữ đất này, dẹp giặc, yên
dân là phận sự của tôi. Nay giặc hại dân, có thể ngồi nhìn cho giặc thêm

16


đắc chíí ?,. Bèn tiến tới, giặc nhiều không địch nổi bị chúng giết, Ông đợc
truy thụ Hàn Lâm thị độc.
6.
Nguyễn Sĩ ấn (1816-?) ngời xà Xuân Lâm, nay là xà Thanh Lơng,
Thanh Chơng, đậu Cử nhân năm 1843, 28 tuổi đậu Phó bảng, khoa Giáp
Thìn-Thiệu Trị thứ 4(1844), làm quan Thị Giảng học sĩ.
7.
Nguyễn Tài Tuyển (1837-1884): ngời xà Đại Đồng nay là xà Thanh
Văn, Thanh Chơng, 31 tuổi đậu Cử nhân (1867), 41 tuổi đậu Đệ tam giáp
Tiến sĩ, khoa Đinh Sửu- Tự Đức 30 (1877). Làm quan: Tri phủ Tơng Dơng,
Sơn phòng sứ Nghệ An, Tham Biện, ốm mất, đợc truy tặng Hàn Lâm Viện
thị độc.
8.
Phan Đình Thùc (? - ?) Ngêi x· Vị LiƯt, nay lµ xà Võ Liệt- Thanh
Chơng, con của cụ Cử nhân Phan Xuân Đệ, Cử nhân khoa Nhâm Dần
(1842), Phó bảng khoa Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức 4 (1851). Làm quan
Hình bộ biện lý, bị miễn. Sau khi thi đỗ đợc bổ Hàn lâm viện kiểm thảo,
tham gia soạn sách Văn Uyển, sung nội các hành tẩu, sau đợc điều bổ chức
Đồng Tri huyện, hai huyện Thanh Sơn-Thanh Thuỷ, lại đợc điều về kinh
làm thị giảng ở viện tập hiền, sung kinh diên khởi c trú. Sau đó lần lợt nhận
chức Thơng biện Nghệ An, án sát Nam Định, lại đợc triệu về kinh giữ chức
biện lý Hình bộ sự vụ, thăng hàm Hồng Lô thiếu tự khanh, can tội bị sung
đi hiệu lực ở Tam Tuyên quân thứ. Bị ốm về quê rồi mất, thọ 52 tuổi.

Các tác phẩm của ông là: Văn Uyển (văn); Tam Thanh thi văn tập
(văn); Ký trai thi văn tập (văn)
9.
Phan Sĩ Bàng (1889- ? ) Ngêi x· Vị LiƯt, nay lµ x· Vâ LiƯt, Thanh
Chơng, 24 tuổi đậu Cử nhân (1912), 25 tuổi đậu Phó bảng, khoa Quý SửuDuy Tân 7 (1913), làm quan Gi¸o thơ.
10. Phan SÜ Thơc (1822- 1891) Ngêi x· Vị Liệt, nay là xà Võ Liệt,
Thanh Chơng, cha của Phan Tĩnh Kham, Phan Sĩ Ngạc, Phan sĩ Kiều. Ông
sinh năm Nhâm Ngọ, đậu Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846), 28 tuổi đỗ Đệ
tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức 2(1848),
đợc bổ chức Tri huyện huyện Kiến Thuỵ. Thọ 70 tuổi.
Ngời ta biết đến Thanh Chơng không chỉ với những di tích, danh
thắng mà ngời ta còn biết đến bởi nơi đây là một trong những cái nôi của
xứ Nghệ đào tạo không ít nhân tài cho đất nớc. Truyền thống hiếu học,hiếu học,,
hiếu học,khổ học, đà đợc truyền từ đời này sang đời khác trong mỗi gia đình, mỗi

17


dòng họ. Bởi dòng họ nào cũng có nhiều khoa bảng, thì đó là dòng họ
mạnh và rất đợc coi trọng. Vì vậy mà nhiều dòng họ đà biết phát huy thế
mạnh của mình, đề cao ý thức tự tôn, biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong học
tập, trong lao động sản xuất, xứng đáng trở thành những dòng họ có nhiều
khoa bảng, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nh dòng họ
Đặng ở Lơng Điền (Thanh Xuân) Thanh Chơng. Dòng họ Tôn ở xà Võ Liệt
đây là dòng họ nổi tiếng và có truyền thống khoa bảng lại vừa có truyền
thống chống giặc ngoại xâm một dòng họ cha, con, anh, em đều đỗ đạt, một
dòng họ cha, con, anh, em đều làm cách mạng. Ngoài ra còn có một số
dòng họ tiêu biểu: Nguyễn Viết, Nguyễn Nh, Phan Sĩ (Võ Liệt), Hồ Sĩ
(Thái NhÃ)Hay khi phong trào Cần VNh vậy, truyền thống hiếu học, tôn s trọng đạo của mỗi gia
đình, mỗi dòng họ ở Thanh Chơng ®· ®ỵc lu trun tõ bao ®êi nay, ®ỵc bỉ

sung và ngày càng phong phú, để cống hiến cho xà hội, làm rạng danh cho
huyện khoa bảng.
Truyền thống hiếu học của nhân dân Thanh Chơng luôn luôn đợc
nuôi dỡng và phát huy, qua những lời ca điệu hát, của mẹ khi mà các hiếu học,Sĩ tử
tơng lai, vừa mới chào đời, còn bú ẳm, nằm nôi:
hiếu học,Con ơi mẹ dạy con này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
Làm cho ngời đói sạch rách thơm
Công danh là nợ nớc non phải đền,
Dẫu còn nghèo đói nhng nhiều gia đình vẫn chắt chiu từng hạt gạo củ
khoai để nuôi con ăn học nên ngời. Hình ảnh ông Nghè vinh quy bái tổ
hiếu học,Võng anh đi trớc, võng nàng theo sau, là ớc mơ cháy bỏng của mọi sĩ tử,
của cha mẹ và vợ con họ. Họ sẽ đi làm quan không những gia đình đợc ấm
no, mà còn đợc cả làng xóm đón rớc long trọng, làm lễ chúc mừng, thêm
phần kính nể, mà cả họ còn đợc nhờ bởi hiếu học,Một ngời làm quan cả họ đợc
nhờ,. Hình ảnh hiếu học,võng, lọng, cân, đai, giấy, bút, nghiên, mực, rồi hiếu học,bảng hổ
đề danh, (Bảng yết tên ngời đỗ Cử nhân), hiếu học,Bảng vàng, (Bảng yết tên ngời
đậu Tiến sĩ)... dành cho tầng lớp nho sĩ đà in đậm vào tiềm thức của ngời
dân. Chúng đợc tái hiện lại, nhập hồn vào núi, ao, ruộng, vùng đất... của
quê hơng xứ sở.
Hơn nữa, những làng, xà nổi tiếng về khoa bảng đều có xây nhà văn
từ để tôn thờ đạo nho và khắc tên lên bia những ngời thi đậu. ở Tổng Vâ

18


Liệt có bia khắc tên, năm của các vị đậu đại khoa. Ngoài việc xây nhà Văn
Thánh, dựng bia ghi danh, ở nhiều làng, tổng còn có tổ chức các lễ cầu
khoa rất lớn để khuyến khích việc học của các Nho sinh và tởng nhớ, noi gơng các nhà khoa bảng lớp trớc. Nhiều ông Nghè, ông Cống khai hoa cho
làng, xà còn đợc nhân dân lập miếu tôn thờ làm Thành Hoàng, hoặc đợc coi

là phúc thần nh Phạm Kinh Vĩ ở Thanh Giang, Bùi Hữu Nhẫm ở Thanh
Thủ. Cã thĨ nãi, trun thèng “hiÕu häc”,hiÕu häc”, hay có thể gọi là hiếu học,khổ học, và
quyết tâm thi đậu đà thấm vào máu thịt của các sĩ tử, gia đình và của dòng
họ. Nho sĩ Thanh Chơng nổi tiếng học giỏi, thông minh, trọng khí tiết và là
niềm tự hào của ngời dân xứ Nghệ.
2.2 Nho sĩ Thanh Chơng trong sự nghiệp chính trị, văn hoá, t tởng.
Từ thế kỷ XV, Thanh Chơng đà có những nhà khoa bảng nổi danh
nh Thợng Th Đinh Bộ Cơng, đợc ngời đời ca ngợi là hiếu học,Quang Thận chiếu
đầu bút bảng,, đà từng là giám thị khoa thi đình đời Cảnh Thèng(1497 1504).
Sang ®Õn thÕ kû thø XIX díi triỊu Ngun trun thèng “hiÕu häc”,hiÕu häc”,,
“hiÕu häc”,khỉ häc”, cđa con ngêi Thanh Chơng lại càng đợc phát huy, góp phần làm
rạng danh trun thèng khoa b¶ng cđa cha anh nh cã gia đình ở làng Quảng
Xá, cả ba anh em ruột cùng đậu một khoa thi Hơng năm ất Dậu (1875), ngời anh cả là Nguyễn Khắc Nhợng đậu Tú tài, ngời em thứ hai là Nguyễn
Thành Hiến đậu Cử nhân và ngời em út là Nguyễn Huy Phiên cũng đậu Cử
nhân.
Thầy dạy chữ ở Thanh Chơng cũng xuất thân từ tầng lớp nho sĩ
nghèo mà nên, cũng nổi tiếng chịu khó, chịu khổ, mở trờng dạy học không
phải để làm giàu, mà cốt để lại tiếng thơm cho đời. Mỗi trờng học xa đều có
sách ghi tên những học trò thi đậu, làm tiếng thơm cho trờng. Trờng càng
nhiều học trò đậu thì thầy càng đợc trọng vọng. Có thầy học trò đông,
không có nhà để mở lớp, phải đa trò lên núi học ngay ở ngoài trời, dùng các
viên đá làm giấy viết chữ lên để học, thế mà thầy nổi tiếng dạy giỏi, trò nổi
tiếng đậu cao. Nhiều làng Thanh Chơng tuy nghèo nhng vẫn cố gắng mời
thầy mở lớp dạy chữ nho. Năm 1904, nhân dân làng Võ Liệt đà xuống làng
Kim Liên, Nam Đàn mời ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho
con em trong làng, lúc bấy giờ, cả hai anh em Tất Đạt, Tất Thành cũng theo
cha tới Thanh Chơng. ở Võ Liệt một xà có 400 đinh, có tới 44 viên môc,

19



trong đó 30 Sinh đồ (Tú tài) Thì số ngời cã ch÷ tíi møc dù tun qua tam
trêng, Ýt cịng tới trên 100 thí sinh và số ngời đi học phải chiếm nửa số dân
sinh, chỉ tiếc cha có đại khoa. Trong dân gian truyền tụng câu chuyện: Xa,
các cụ Võ Liệt thấy khoa hoạn các xà miền hạ huyện phát đạt hơn xà mình,
lên mời thầy phong thuỷ về chỉ cho việc san đắp tạo địa thế thành những
ngọn bút, nghiên son, đĩa mực, tô điểm cảnh sắc thiên nhiên, tạo nên những
hồ sen tuyệt đẹp, nhằm qui tụ và giữ gìn sinh khí, mong mở đờng khoa
hoạn tới quê hơng. H thực cha rõ, nhng đó là khát vọng khả kính của một
làng hiếu học.
Cảnh sắc thiên nhiên, khí thiêng sông núi hun đúc chí khí cho vùng
quê vốn đà tôn sùng đạo học - Sự tôn sùng ấy đợc thể hiện trong thể chế
hoá trong cả luật lệ dân đinh. Dới chế độ hà khắc 5 đinh 1 lính, em về thì
anh thay, trong xà ngời này trốn ngời khác phải thay mà vẫn giữ chế độ u
tiên cho Sinh đồ (Tú tài). Họ đợc miễn đăng lính và phu sai tạp dịch. Sự tôn
sùng ấy đà đợc đền đáp, tạo nên bớc phát triển mới trên ®êng khoa cư cđa
x· Vâ LiƯt, më ®Çu tõ Phan Sỹ Thục, khai khoa đậu Tiến sĩ năm Tự Đức thứ
2-1849, từ đấy tới 1919, trong 8 Đại khoa của huyện Thanh Chơng thì Võ
Liệt 3, Đại Đồng 1, Bích Hào 1, Cát Ngạn 1, Xuân Lâm 1. Và trong 85 Cử
nhân triều Nguyễn của Thanh Chơng thì Võ Liệt 33, Đại Đồng 27, Bích
Hào 11, Cát Ngạn 9, Xuân Lâm 4. [11,101].
Trên lĩnh vực văn hoá - t tởng nho sÜ Thanh Ch¬ng cịng rÊt nỉi danh
víi mét sè tác giả tác phẩm tiêu biểu: Đinh Nhật Thận có tác phẩm hiếu học,Thu
Dạ Lữ Hoài, viết bằng chữ Hán đợc xem nh một chinh phụ ngâm thứ hai,
hay Đặng Nguyễn Cẩn với các tác phẩm của ông đợc su tập trong hiếu học,Đặng
Thai Sơn Tiên Sinh Duy Tác,, một phần đà đợc Huỳnh Thúc Kháng ghi và
dịch trong hiếu học,Thi từ tùng thoại, và hiếu học,Thi tùng thảo,. Một số đợc công bố trong
thơ văn yêu nớc đầu thế kỉ XX: hiếu học,Cảm tác,, hiếu học,Tiến Phan sào Nam Nam
Du,, hiếu học,Khấp Ng Hải Đặng Thái Thân,,,Cổ động tân học,,,Đặng Lam
thành hoài cổ Phủ Thành,. Ngoài ra còn có nhiều tác giả, tác phẩm có giá

trị khác.
Ngày nay khi lËt gië tõng trang vỊ khoa cư nho häc triỊu Nguyễn,
con em Thanh Chơng không khỏi tự hào về truyền thống hiếu học, tôn s
trọng đạo với tinh thần chịu khó học tập của những ngời đi trớc.

20



×