Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đặc điểm cơ bản của thiên nhiên VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.19 KB, 16 trang )

ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA THIÊN NHIÊN VIỆT NAM
Đặc điểm của thiên nhiên một đất nước được quy định bởi vị trí địa lí (bao gồm toạ độ địa lí và mối
quan hệ với các lãnh thổ lân cận) và lịch sử phát triển lãnh thổ của đất nước đó.
Với vị trí địa lí nằm ở vĩ độ từ 8
0
34

B đến 23
0
23

B và kinh độ từ 102
0
08’Đ đến 109
0
28

Đ, ở rìa phía
Đông của bán đảo Đông Dương và ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là nước thuộc vòng
nội chí tuyến, vừa gắn với lục địa châu Á rộng lớn (đường biên giới chung với 3 nước Trung Quốc, Lào,
Cămpuchia dài 4510km), vừa thông rộng ra các đại dương qua biển Đông (phần vùng biển thuộc chủ quyền
lãnh thổ trên 1 triệu km
2
với đường bờ biển dài khoảng 3260km). Các điều kiện vị trí địa lí đó quy định
thiên nhiên Việt Nam chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt đới, ẩm và của hoàn lưu gió mùa Đông Nam Á. Vị
trí ấy còn quy định lịch sử hình thành lãnh thổ Việt Nam nằm trong lịch sử kiến tạo chung của khu vực
Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng của các đơn vị kiến tạo xứ nền Hoa Nam và xứ địa máng Đông Dương trong
quan hệ với hệ địa máng Tây Vân Nam. Chính mối quan hệ về mặt kiến tạo này đã khiến cho ở nước ta cảnh
quan thiên nhiên đồi núi chiếm ưu thế và thiên nhiên có sự phân hoá đa dạng, phức tạp.
Sự phân tích trên cho thấy thiên nhiên Việt Nam có bốn đặc điểm cơ bản là:
- Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa


- Thiên nhiên mang tính bán đảo, chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển
- Cảnh quan thiên nhiên đồi núi chiếm ưu thế
- Thiên nhiên phân hoá đa dạng.
I. THIÊN NHIÊN NHIỆT ĐỚI ẨM GIÓ MÙA
1. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
Tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm của thiên nhiên Việt Nam biểu hiện rõ rệt nhất và trực tiếp nhất ở khí
hậu qua các yếu tố nhiệt độ, chế độ gió và lượng mưa ẩm.
1.1. Nền nhiệt độ cao
Tính chất nhiệt đới của khí hậu được quy định bởi vị trí nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến. Hằng
năm, nước ta nhận được một lượng bức xạ mặt trời lớn do trong năm mặt trời luôn đứng cao trên đường
chân trời và qua thiên đỉnh hai lần. Trên toàn quốc, tổng xạ nói chung đều vượt 130 kcal/cm
2
/năm. Cân bằng
bức xạ vượt trên 75 kcal/cm
2
/năm. Tổng bức xạ lớn, cân bằng bức xạ dương quanh năm khiến cho tổng
nhiệt độ và nhiệt độ trung bình năm đều cao, vượt tiêu chuẩn khí hậu nhiệt đới. Tổng nhiệt độ trong năm đạt
8000 - 9000
0
C, nhiệt độ trung bình năm từ 22 - 27
0
C, tổng số giờ nắng tuỳ nơi từ 1400 - 3000 giờ.
Bảng 3. Nhiệt độ trung bình năm và tổng nhiệt độ năm tại một số địa phương
Địa điểm
Nhiệt độ
trung bình năm
Tổng nhiệt độ năm
Lạng Sơn
Hà Nội
Vinh

Huế
Quy Nhơn
T.P Hồ Chí Minh
21
0
6C
23
0
4C
23
0
9C
25
0
1C
26
0
4C
26
0
9C
7881
0
C
8555
0
C
8747
0
C

9161
0
C
9636
0
C
9818
0
C
Lưu ý:
- Tiêu chuẩn khí hậu nhiệt đới :
+ Nhiệt độ trung bình năm: >21
0
C
+ Cân bằng bức xạ: > 75 kcal/cm
2
/năm
+ Tổng nhiệt độ năm: 7500 - 9500
0
- Tiêu chuẩn khí hậu xích đạo:
+ Tổng nhiệt độ năm: > 9500
0
+ Cân bằng bức xạ R = ( Q + q ).( 1 - A) - E
Trong đó: Q: Bức xạ trực tiếp, q: Bức xạ khuếch tán
A: Anbêđô của mặt đất, E: Bức xạ hữu hiệu của mặt đất
Như vậy, từ Quy Nhơn trở vào, xét về tổng nhiệt độ năm đã đạt tiêu chuẩn khí hậu xích đạo.
1.2. Khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa
Lãnh thổ Việt Nam nằm gần trung tâm của khu vực gió mùa châu Á, là nơi giao nhau của các khối khí
hoạt động theo mùa tín phong. Loại gió thường xuyên phát sinh từ khối khí cao áp cận chí tuyến di chuyển
về hạ áp xích đạo, được coi là thuộc tính của vùng nội chí tuyến, thì ở Việt Nam tín phong không còn được

biểu hiện rõ mà bị lấn át bởi các khối khí hoạt động theo mùa với hai mùa gió chính: gió mùa mùa đông và
gió mùa mùa hạ. Tín phong vào Việt Nam xuất phát từ trung tâm áp cao cận chí tuyến Tây Thái Bình
Dương (Tm) hoạt động quanh năm ở nước ta, song chỉ mạnh lên vào các thời kì chuyển tiếp xuân thu.
a. Gió mùa mùa đông
Về mùa đông, nước ta chịu tác động của khối khí lạnh phương Bắc, thường gọi là gió mùa Đông Bắc. Trung
tâm khối khí ở 50
0
vĩ B, rất lạnh và khô, nhiệt độ trung bình xuống tới - 15
0
C đến - 40
0
C, áp suất rất mạnh
khoảng 1040
mb
- 1060
mb
. Khối khí lạnh ở vĩ độ ôn đới này luôn luôn được nuôi dưỡng bởi khối khí cực đới nên
nó còn được gọi là khối khí cực đới. Khối khí cực đới lục địa biến tính (NPc) này vào Việt Nam theo hai đường:
+ Nửa đầu và giữa mùa đông vào các tháng 11, 12, 1, khối khí di chuyển qua lục địa Trung Hoa rộng
lớn (NPc đất), tuy có bớt lạnh khô nhưng vẫn mang lại cho mùa đông miền Bắc nước ta thời tiết lạnh khô.
Mỗi khi khối khí này tràn về, nhiệt độ hạ thấp vài độ.
+ Nửa sau mùa đông vào các tháng 2 – 3, khối khí này di chuyển về phía Đông qua biển Nhật Bản và
biển Hoàng Hải (NPc biển) vào nước ta gây nên thời tiết lạnh ẩm. Vào cuối mùa, thời tiết ấm ẩm hơn.
Lượng ẩm cao mang lại mưa phùn mùa đông cho vùng ven biển và đồng bằng ở miền Bắc.
Gió mùa đông bắc vào nước ta không kéo dài liên tục mà chỉ từng đợt bởi tầng khí áp của trung tâm
không dày (chỉ từ 1500 - 2000m) và không ổn định. Khối khí NPc hoạt động ở Việt Nam chỉ mạnh vào mùa
đông và ở miền Bắc, hình thành ở miền Bắc nước ta một mùa đông có 2 - 3 tháng lạnh với những ngày nửa
đầu mùa đông thời tiết lạnh khô và nửa sau mùa đông là những ngày lạnh ẩm. Khi di chuyển xuống phía
Nam, khối khí này suy yếu dần và dường như kết thúc bởi bức chắn dãy Bạch Mã. Từ Đà Nẵng, vĩ tuyến
16

0
B trở vào, tín phong nửa cầu Bắc cũng thổi theo hướng Đông Bắc trở nên ưu thế làm thành "gió mùa
mùa đông" ở miền không có mùa đông do không bị khối khí cực đới tràn về.
b. Gió mùa mùa hạ
Vào mùa hạ có hai luồng gió cùng hướng Tây Nam thổi vào Việt Nam. Đầu mùa, từ tháng 4 - 5, trung
tâm áp thấp Ấn Độ - Mianma khơi sâu, trung bình chỉ dưới 1000
mb
hút gió từ Ấn Độ Dương qua vịnh
Bengan (khối khí nhiệt đới vịnh Bengan - TBg). Khối khí này có nguồn gốc biển nóng ẩm nên thường gây
ra dông nhiệt mạnh. Vào đầu mùa hạ, trong các tháng 5, 6 khối khí TBg di chuyển theo hướng Tây Nam
xâm nhập trực tiếp và gây mưa lớn cho đồng bằng Nam Bộ và Tây Nguyên. Vượt dãy Trường Sơn khối khí
trở nên nóng khô (gió phơn Tây Nam – còn gọi là gió Lào) tràn xuống vùng đồng bằng ven biển Trung Bộ
và phần nam của khu vực Tây Bắc. Đôi khi áp thấp Bắc Bộ sụt sâu tạo nên sức hút mạnh làm xuất hiện gió
tây khô nóng tại đồng bằng Bắc Bộ. Thời tiết gió này mang lại rất nóng khô, nhiệt độ lên tới 37
0
C và độ ẩm
xuống dưới 50%.
Bắt đầu từ giữa mùa hạ vào tháng 6, áp cao cận chí tuyến nửa bán cầu Nam mạnh lên. Khối khí này xuất
phát từ áp cao này di chuyển theo hướng đông nam, khi vượt qua xích đạo chuyển hướng tây nam (do lực
Côriôlit) vào Việt Nam. Khối khí xích đạo (Em) có tầng ẩm rất dày tạo nên dòng thăng lớn trên đường hội
tụ nội chí tuyến, vì thế khối khí này rất không ổn định thường gây mưa lớn và kéo dài cho các vùng đón gió
Nam Bộ và Tây Nguyên. Hoạt động của khối khí xích đạo vào các tháng 6, 7, 8 hình thành gió mùa mùa hạ
chính thức ở Việt Nam. Do ảnh hưởng của địa hình và áp thấp Bắc Bộ, luồng gió này đi lên theo hướng kinh
tuyến dọc miền Trung và theo hướng đông nam vào đồng bằng Bắc Bộ. Khối khí Em cùng với đường hội tụ
hoạt động ở miền Nam nhiều hơn ở miền Bắc và nó là nguyên nhân gây mưa mùa hạ cho toàn quốc, vào các
tháng 6 - 10 cho Nam Bộ và Tây Nguyên, tháng 8 (mưa ngâu) cho đồng bằng Bắc Bộ, tháng 9 cho Trung
Bộ.
Bảng 4. Các khối khí hoạt động ở Việt Nam
Tên khối khí Kí hiệu
Nơi bắt

nguồn
Nơi đi
qua
Thời
gian tác
động
Khu vực
tác động
Thời tiết đặc trưng chủ
yếu
Gió
mùa
mùa
đông
Cực
đới
biến
tính
qua
đất
NPc đất
Xibia
(Hồ Bai
can)
Hoa
Trung
Hoa Nam
9-6,
mạnh
nhất 10,

11, 12
Bắc vĩ
độ16
0
B
Lạnh khô quang mây
qua
biển
NPc biển Xibia
biển
đông
Trung
Hoa
Biển
Nhật
Bản, biển
Hoàng
Hải.
12 - 6
mạnh
nhất 1, 2,
3
Bắc vĩ độ
16
0
B
Lạnh ẩm, nhiều mây. Có
mưa nhỏ và mưa phùn
Chí tuyến
Bán cầu Bắc

Tm
Tây Thái
Bình
Dương
Philippin
Biển
Đông
Cả năm Cả nước
Mùa đông: mưa nhỏ ở
Bắc Bộ, mưa địa hình ở
Trung Bộ, nắng ở Nam
Bộ. Mùa hạ: mưa rào,
dông
Gió mùa
mùa hạ
Chí
tuyến
vịnh
Ben gan
TBg
Bắc Ân
Độ
Dương
Vịnh
Ben-gan
4,5,6,7,8
Cả nước
Nam bộ và Tây Nguyên:
nhiều mây, mưa rào và
dông. Bắc Bộ và Trung Bộ:

nóng khô (gió Lào)
Xích
đạo
Em
Nam
Thái
Bình
Dương
Inđônêxia
Malaysia
Vịnh Thái
Lan
6,7,8,9, ở
Nam bộ
sang
th.10
Cả nước
Mát, nhiều mây mưa dai
dẳng có dông
Sự luân phiên các khối khí hoạt động theo mùa khác nhau cả về hướng và về tính chất đã tạo nên sự
phân mùa trong chế độ khí hậu Việt Nam. Ở miền Bắc có hai mùa khí hậu là mùa đông lạnh khô ít mưa và
mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều. Ở miền Nam, trong chế độ khí hậu có sự phân chia hai mùa khô, ẩm rõ rệt.
1.3. Khí hậu có lượng mưa ẩm cao
Biển Đông cùng với các khối khí đi qua biển đã mang lại lượng mưa lớn cho nước ta. Lượng mưa trung
bình năm dao động từ 1500 - 2000mm. Ở những sườn đón gió biển và các khối núi cao, lượng mưa có thể
lên đến 3500 - 4000mm. Độ ẩm không khí cao, dao động từ 80 - 100%. Cân bằng ẩm luôn luôn dương.
Bảng 5. Một vài chỉ số về tính chất nóng của khí hậu tại một số địa phương
Địa điểm Lượng mưa Khả năng bốc hơi Cân bằng ẩm
Hà Nội
Huế

T.P Hồ Chí
Minh
1678 mm
2890 mm
1979 mm
776 mm
638 mm
1061 mm
+ 902 mm
+ 2252 mm
+ 918 mm
Hoạt động của gió mùa đã làm phức tạp tính chất cơ bản nóng ẩm của khí hậu Việt Nam và tạo nên sự
khác nhau về mùa khí hậu giữa các khu vực. Đó là sự xuất hiện một mùa đông lạnh ở miền Bắc, một mùa
khô sâu sắc ở miền Nam, sự đối lập về hai mùa mưa khô giữa Tây Nguyên và đồng bằng ven biển miền
Trung.
2. Địa hình của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa với quá trình xâm thực - bồi tụ diễn ra mạnh mẽ
Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa ảnh hưởng sâu sắc đến các thành phần tự nhiên hình thành nên một thiên
nhiên Việt Nam đặc sắc - thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa. Đặc điểm cơ bản chung nhất này của thiên
nhiên Việt Nam được phản ảnh qua các thành phần tự nhiên. Địa hình Việt Nam tiêu biểu cho địa hình của
vùng nhiệt đới ẩm gió mùa.
Nền nhiệt ẩm cao với một mùa mưa, một mùa khô xen kẽ đã thúc đẩy quá trình xâm thực cơ giới diễn ra
mạnh mẽ. Trên các sườn dốc, bề mặt địa hình bị cắt xẻ, đất bị bào mòn rửa trôi, nhiều nơi chỉ còn trơ sỏi đá.
Tại miền núi mưa nhiều, tác động của nhân tố ngoại lực dòng chảy đã khắc trạm lên bề mặt địa hình những
hẻm vực, những khe sâu, sườn dốc tạo nên thế chênh vênh hiểm trở của hình thái địa hình núi trẻ. Biểu hiện
của địa hình xâm thực mạnh còn là những hiện tượng đất trượt, đá lở thành những nón phóng vật nằm ngổn
ngang chân núi như tại khối núi cao Phanxipăng. Có thể nói, quá trình xâm thực bào mòn do dòng nước là
quá trình địa mạo đóng vai trò chủ yếu tạo nên hình thái địa hình đồi núi Việt Nam hiện tại. Quá trình này
còn biểu hiện điển hình ở thành tạo địa hình Cacxtơ vùng đồi núi đá vôi. Nước nhiều trong điều kiện nhiệt
độ cao ở nước ta đã xúc tiến cường độ các phản ứng hoá học hoà tan Cacbonát làm cho đá vôi bị phá huỷ
triệt để. Địa hình Cacxtơ ở Việt Nam không phải chỉ là các bề mặt cao nguyên với các hang động ngầm,

suối cạn, thung khô mà còn mở rộng thành các đồng bằng rải rác các đồi đá vôi sót. Còn trên các vùng đồi
thềm phù sa cổ lớp đất mặt cũng bị bào mòn, rửa trôi lâu ngày tạo nên loại đất xám bạc màu.
Hệ quả của quá trình xâm thực bào mòn mạnh mẽ bề mặt địa hình ở miền đồi núi là sự bồi tụ mở mang
nhanh chóng các đồng bằng hạ lưu sông. Ở rìa các đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long có nơi
hàng năm lấn ra biển từ vài chục đến gần trăm mét đất. Như vậy, quá trình xâm thực - bồi tụ là quá trình
chính trong sự hình thành và phát triển địa hình Việt Nam hiện tại.
3. Thuỷ văn: mạng lưới sông ngòi dày đặc, nhiều nước, giàu phù sa, thuỷ chế theo mùa
3.1. Mạng lưới sông ngòi dày đặc
Đặc điểm này của thuỷ văn Việt Nam là hệ quả tác động của khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm trên nền địa hình
mà quá trình xâm thực là chủ yếu.
Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Chỉ tính những con sông có chiều dài trên 10km có nước chảy
thường xuyên, thì trên toàn lãnh thổ đã có 2.360 sông (bao gồm 106 dòng sông chính với 2254 phụ lưu).
Mật độ lưới sông trung bình 0,6 km/km
2
, nơi có mật độ sông lớn 1,5 km/km
2
, ở đồng bằng châu thổ 3 - 4
km/km
2
. Dọc bờ biển cứ 20 km gặp một cửa sông. Sông ngòi nước ta nhiều, nhưng phần lớn là sông nhỏ. Có
tới 2170 con sông (chiếm 92,5% tổng số sông) có diện tích lưu vực nhỏ hơn 500km
2
với chiều dài ngắn hơn
100 km.
3.2. Sông ngòi nhiều nước, giàu phù sa
Mưa nhiều mang lại lượng dòng chảy lớn, hơn nữa sông ngòi nước ta nhận một lượng nước lớn từ lưu
vực nằm ngoài lãnh thổ. Tổng lượng nước chảy trong sông ngòi trung bình hàng năm là 835 tỉ m
3
, trong đó
lượng nước phát sinh từ lãnh thổ là 337 tỉ m

3
chiếm khoảng 37,5%. Lượng nước từ lưu vực bên ngoài gần
gấp đôi (chiếm 62,5% tổng lượng nước). Lượng dòng chảy mặt chiếm tới 2/3 tổng lượng dòng chảy, trong
đó lượng nước phát sinh từ lãnh thổ chỉ chiếm hơn 1/3.
Lượng nước phân bố không đều giữa các hệ thống sông. Sông Mê Công có lượng nước 508 tỉ m
3
/năm,
chiếm tới 60,8% lượng nước toàn lãnh thổ, nhưng chỉ có 11% (50 tỉ m
3
) phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.
Lượng nước sông Hồng là 120 tỉ m
3
/năm, chiếm 14,4% tổng lượng nước toàn quốc, trong đó lượng nước phát
sinh trên lãnh thổ Việt Nam chiếm 65%. Lượng nước của tất cả các sông còn lại chỉ chiếm 24,8% tổng lượng
nước.
Địa hình dốc mạnh, hệ số dòng chảy lớn nên trị số xâm thực cũng rất lớn. Sông Hồng có trị số xâm
thực lớn nhất, gần 800 tấn/km
2
/năm. Sông Mê Công và các sông khác có trị số xâm thực nhỏ hơn, chỉ
khoảng 200 - 300 tấn/km
2
/năm. Lượng nước lớn nên tổng lượng cát bùn hàng năm sông ngòi vận chuyển ra
biển Đông từ 400 - 500 triệu tấn. Lượng cát bùn trong sông Mê Công lớn nhất 215 triệu tấn/năm, sông Hồng
115 triệu tấn/năm, mỗi sông còn lại chỉ vài triệu tấn/năm.
3.3. Thuỷ chế theo mùa
Nhịp điệu dòng chảy theo sát nhịp điệu mưa. Mưa theo mùa, lượng dòng chảy cũng theo mùa. Mùa lũ
tương ứng với mùa mưa, mùa cạn tương ứng với mùa khô. Tính thất thường trong chế độ mưa cũng quy
định tính thất thường trong chế độ dòng chảy. Các hệ thống sông lớn là hợp lưu của nhiều sông nên mưa lớn
thì lũ lên nhanh, rút chậm, diện tích bị ngập lớn.
Bảng 6. Lượng mưa (mm) và lưu lượng dòng chảy (m

3
/s) ở một số địa điểm
Địa điểm
Tháng
Năm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hà Nội
(mm)
18,
6
26,2 43,8 90,1
188,
5
239,
9
282,
2
318,
0
265,
4
130,
7
43,4
23,
4
1676
S. Hồng
(m
3

/s)
194
0
885 76,5 899
148
0
351
0
599
0
666
0
499
0
310
0
219
0
137
0
2710
Tuy Hoà 59,6 21,3 21,2 38,1 83, 49,1 42,7 51, 210, 449, 413, 151, 1591
(mm) 9 7 6 0 2 3
S. Ba
(m
3
/s)
129 77,1 47,3 44,9
85,
0

170 155 250 366 682 935 332 273
Bảo Lộc
(mm)
56,3 46,0 86,9 170
218,
7
289,
2
390,
1
401,
0
382,
7
286,
8
140,
0
74,7 2542
Đồng Nai
(m
3
/s)
103 66,2 48,4 59,8 127 417 751
134
5
131
7
127
9

594 239 532
4. Thổ nhưỡng với quá trình Feralit là quá trình hình thành đất chủ yếu và đất dễ bị thoái hoá
Quá trình Feralit là quá trình hình thành đất đặc trưng cho khí hậu nhiệt đới ẩm. Trong điều kiện nhiệt
ẩm cao, quá trình phong hóa diễn ra với cường độ manh, tạo nên một lớp đất dày. Mưa nhiều rửa trôi các
chất badơ dễ tan (Ca
2+
Mg
2+,
K
+
), làm đất chua, đồng thời có sự tích tụ ôxit sắt (Fe
2
O
3
) và ôxit nhôm (Al
2
O
3
)
tạo ra mầu đỏ vàng. Vì thế loại đất này gọi là đất Feralit (Fe-Al) đỏ vàng. Chế độ gió mùa với mùa mưa,
mùa khô xen kẽ càng xúc tiến quá trình rửa trôi và tích tụ. Đặc biệt, ở những nơi lớp phủ thực vật bị phá
hủy, mùa khô càng khắc nghiêt, sự tích tụ ôxit trong tầng tích tụ từ trên xuống trong mùa mưa và từ dưới lên
trong mùa khô càng nhiều. Khi lớp đất mặt (tầng A) bị rửa trôi hết, tầng tích tụ (tầng B) trồi lên mặt, rắn
chắc lại thành tầng đá ong (Latêrit - dạng gạch), đất bị thoái hóa mạnh. Đất càng xấu nếu tầng đá ong càng
gần mặt.
Như vậy, đất Feralit là sản phẩm tất yếu của quá trình hình thành đất trên đá mẹ axit diễn ra trong điều
kiện nhiệt ẩm cao.
Đá mẹ axit chiếm phần lớn trên vùng đồi núi Việt Nam. Đá mẹ bazơ chiếm diện tích nhỏ hơn và có 2
loại chính là: đá bazan và đá vôi. Đất hình thành trên các loại đá này là macgalit. Nhưng trong điều kiện
nhiệt ẩm cao ở Việt Nam, đất này cũng bị Feralit hóa, tạo thành đất Feralit. Quá trình Feralit cũng diễn ra

mạnh mẽ trên các đồi, thềm phù sa cổ. Ngay tại các vùng đất bồi tụ phù sa với thời gian và nếu sử dụng
không hợp lí thì quá trình Feralit cũng tiến triển, thể hiện ở những vết lốm đốm dỏ vàng và các kết von. Với
địa hình đồi núi thấp chiếm ưu thế, có thể nói Feralit là quá trình hình thành đất chủ yếu ở Việt Nam.
5. Hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa ẩm với thành phần thực - động vật nhiệt đới chiếm ưu thế
Sinh vật là sản phẩm tổng hợp của tất cả các thành phần tự nhiên và là diện mạo của cảnh quan. Thiên
nhiên nhiệt đới gió mùa ẩm được đặc trưng bởi hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm gió mùa.
Ở Việt Nam, hệ sinh thái rừng nguyên sinh đặc trưng khí hậu nóng ẩm là rừng rậm nhiệt đới ẩm lá rộng
thường xanh. Rừng nguyên sinh còn lại rất ít, hiện nay phổ biến là rừng thứ sinh với các hệ sinh thái rừng
nhiệt đới gió mùa biến dạng khác nhau, từ rừng gió mùa thường xanh, rừng gió mùa nửa rụng lá, rừng thưa
khô rụng lá tới xa van, truông bụi gai hạn nhiệt đới.
Trong đai rừng chân núi, thành phần các loài thực, động vật nhiệt đới chiếm ưu thế, có nguồn gốc bản
địa, Malaixia - Inđônêxia và Ấn Độ - Mianma. Thực vật phổ biến là các loài thuộc các họ cây nhiệt đới như
Đậu, Vang, Dâu tằm, Dầu. Động vật trong rừng là các loài chim thú nhiệt đới, nhiều nhất là công, trĩ, gà lôi,
khỉ, vẹc, vượn, nai, hoẵng, sơn dương Ngoài ra, còn cả một thế giới các loài bò sát, ếch nhái, côn trùng vô
cùng phong phú.
II. THIÊN NHIÊN MANG TÍNH BÁN ĐẢO, CHỊU ẢNH HƯỞNG SÂU SẮC CỦA BIỂN
Dải đất liền của nước ta hẹp ngang, kéo dài 15 độ vĩ tuyến, tiếp giáp với biển Đông rộng lớn trên chiều
dài 3260 km. Vì thế, thiên nhiên Việt Nam mang tính bán đảo, thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển.
1. Đặc điểm của biển Đông
Biển Đông là một trong số các biển lớn của thế giới, có diện tích 3,447 triệu km
2
và tổng lượng nước
khoảng 3,928 triệu km
3
. Chiều dài biển Đông khoảng 3000km, chiều rộng 1000km, độ sâu trung bình của
biển Đông là 1140m. Gần bờ, đáy vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan sâu chưa tới 100m, ra ngoài khơi, gần
Philippin và các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mới gặp lòng chảo sâu 4000m, chỗ sâu nhất đạt 5554m.
Phần biển Đông thuộc lãnh thổ Việt Nam rộng khoảng trên một triệu km
2
, trong đó có hai vịnh lớn là

vịnh Bắc Bộ (150 000 km
2
) và vịnh Thái Lan (462 000km
2
). Phía Bắc và Nam lãnh thổ thềm lục địa mở
rộng. Tại vịnh Bắc Bộ, thềm lục địa ra cách cửa sông Hồng tới 500km. Về phía Nam, thềm lục địa lan xa
hơn nữa, nối liền Việt Nam với Malaixia và Inđônêxia. Đoạn ven biển Trung Trung Bộ thì thềm lục địa thu
rất hẹp, trung bình chỉ khoảng 50km, chỗ hẹp nhất chỉ còn 30km ở mũi Đại Lãnh (Phú Yên).
Biển Đông trải dài từ xích đạo đến chí tuyến Bắc, nằm trong vùng nội chí tuyến nên là một vùng biển có
đặc tính nóng ẩm và chịu ảnh hưởng của gió mùa. Tính chất nhiệt đới gió mùa được thể hiện rõ trong điều
kiện khí tượng, hải văn và sinh vật biển. Nhiệt độ trung bình năm của không khí trên biển Đông tăng dần từ
Bắc xuống Nam, từ vùng ven bờ ra ngoài khơi. Ven bờ ở phía Bắc nhiệt độ không khí trung bình năm 22-
24
0
C, từ sau vĩ tuyến 16
0
B, nhiệt độ trung bình năm lên tới 26 - 27
0
C. Nước biển tầng mặt có nhiệt độ trung bình
năm trên 23
0
C, từ phía nam đảo Cồn Cỏ đạt trên 25
0
C. Nhìn chung, nhiệt độ nước biển thường chênh với
nhiệt độ không khí khoảng từ 1
0
C đến 2
0
C. Tính chất gió mùa thể hiện ở sự biến đổi nhiệt độ không khí trên
biển và nhiệt độ nước biển theo mùa trong năm. Sự hạ thấp nhiệt độ không khí và nước biển vào mùa đông

do gió mùa đông bắc cũng biểu hiện rõ rệt chỉ từ vĩ tuyến 16
0
B trở ra, giống như trên đất liền.
Biển Đông còn là vùng biển tương đối kín. Hình dạng khép kín của vùng biển tạo nên tính chất khép
kín của dòng hải lưu với hướng chảy chịu ảnh hưởng của gió mùa. Tại hai vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan
cũng hình thành những dòng hải lưu chảy theo những vòng tròn nhỏ hơn. Thành phần sinh vật biển Đông
cũng tiêu biểu cho vùng biển nhiệt đới, số lượng loài rất phong phú, riêng cá có tới trên 2000 loài.
Như vậy, tính chất nhiệt đới gió mùa và tính chất khép kín địa phương của các yếu tố khí tượng - hải
văn, sinh vật là hai đặc điểm cơ bản nhất của biển Đông. Hai đặc điểm này thể hiện tính thống nhất giữa
biển và đất liền của lãnh thổ Việt Nam và cũng thể hiện ảnh hưởng mạnh mẽ của biển tới các đặc điểm thiên
nhiên trên đất liền.
2. Thiên nhiên mang tính bán đảo và chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển
Diện tích biển của nước ta gấp trên 3 lần so với diện tích đất liền. Phần biển của đất nước cũng có tới
khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ. Độ dài của đường bờ biển là 3260km, nếu tính tỉ lệ diện tích đất liền trên chiều
dài bờ biển thì ở nước ta cứ 100km
2
đất liền đã có 1km đường bờ biển. Tỉ lệ này gấp 6 lần trung bình của thế
giới. Tính bán đảo được thể hiện trước hết ở khí hậu, địa hình ven biển và ở cảnh quan thiên nhiên nước ta.
2.1. Khí hậu mang tính hải dương điều hoà
Biển Đông rộng và chứa một lượng nước lớn là nguồn dự trữ ẩm làm cho độ ẩm tương đối của không
khí thường trên 80%. Các luồng gió hướng đông nam từ biển thổi vào luồn sâu theo các thung lũng sông
làm giảm độ lục địa ở các vùng cực tây của đất nước. Biển Đông làm biến tính các khối khí đi qua biển vào
nước ta. Về mùa đông, các dòng khí lạnh khô từ lục địa phương Bắc tràn xuống qua vùng biển nóng ẩm
nhận thêm nhiệt và ẩm nên giảm bớt tính chất lạnh khô, mang lại thời tiết mưa phùn cho vùng đồng bằng và
ven biển phía Bắc. Về mùa hạ, khối khí phương nam từ xích đạo đi lên qua biển Đông trở nên dịu mát hơn.
Biển Đông đã mang lại cho nước ta một lượng mưa lớn, làm giảm đi tính chất khắc nghiệt của thời tiết lạnh
khô trong mùa đông và làm dịu bớt thời tiết nóng bức trong mùa hè. Nhờ có biển Đông khí hậu nước ta
mang nhiều đặc tính của khí hậu đại dương, điều hoà hơn.
2.2. Địa hình ven biển đa dạng và đặc sắc
Các dạng địa hình ven biển nước ta rất đa dạng, đặc trưng cho địa hình vùng biển nhiệt đới ẩm với tác

động của quá trình xâm thực - bồi tụ diễn ra mạnh mẽ trong mối tương tác giữa biển và lục địa. Đó là các
dạng địa hình vịnh cửa sông, các bờ biển mài mòn, các tam giác châu với bãi triều rộng lớn, các bãi cát
phẳng lì, các vũng vịnh nước sâu, các đảo ven bờ và những rạn san hô có nhiều giá trị về kinh tế và du lịch.
2.3. Cảnh quan thiên nhiên rừng ưu thế
Lượng mưa ẩm cao do biển Đông mang lại làm xúc tiến mạnh mẽ cường độ vòng tuần hoàn sinh vật
vốn đã thuận lợi trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nước ta. Nhờ vậy, rừng nguyên sinh khí hậu ở nước ta là
kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm xanh quanh năm có năng suất sinh học rất cao. Ngay cả rừng thứ sinh mọc lại
cũng phần lớn là rừng kín thường xanh. Ngoại trừ một số địa phương có khí hậu khô khan hoặc những nơi
đất đai bị khai thác kiệt quệ, còn hầu như khắp mọi nơi trên đất nước màu xanh bao phủ do quá trình tái
sinh, hồi phục rừng diễn ra mau chóng. Địa hình đồi núi chiếm chủ yếu khiến cho cảnh quan rừng là tiêu
biểu cho thiên nhiên nước ta. Cảnh quan rừng ưu thế đã thay thế cảnh quan sa mạc, bán sa mạc nhiệt đới,
cận nhiệt đới mà ta thấy ở các nước có cùng vĩ độ thuộc Tây Nam Á và Bắc Phi.
Biển Đông còn mang lại cho tài nguyên rừng nước ta diện tích rừng nhiệt đới ẩm thường xanh ngập
mặn ven biển khá rộng, nguyên có tới 450.000 ha, riêng Nam Bộ 300.000 ha. Rừng ngập mặn ở nước ta lớn
thứ hai trên thế giới sau rừng ngập mặn Amazôn ở Nam Mĩ. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cho năng suất sinh
học cao, đặc biệt là sinh vật nước lợ. Tuy nhiên, hiện nay rừng ngập mặn bị thu hẹp rất nhiều chỉ còn
khoảng 15% diện tích (68.303 ha, năm 2003).
2. 5. Nguồn lợi thiên nhiên và thiên tai
Biển Đông góp phần làm giàu tài nguyên thiên nhiên nước ta. Vùng thềm lục địa chứa các mỏ khoáng
sản trầm tích hữu cơ và trọng sa. Khoáng sản có trữ lượng lớn và giá trị nhất là dầu khí. Hai bể dầu lớn nhất
là bể chứa Nam Côn Sơn có diện tích 70 000km
2
và bể chứa Cửu Long diện tích khoảng 23 000km
2
hiện
đang được khai thác. Các bể dầu khí Malai - Thổ Chu và bể Sông Hồng có diện tích nhỏ hơn cũng có trữ
lượng đáng kể và còn hơn chục mỏ dầu khí khác đã được xác định. Lượng dầu thô khai thác được hàng năm
của chúng ta đạt hàng chục triệu tấn. Ngoài ra, các mỏ sa khoáng, các bãi cát ven biển có trữ lượng lớn là
nguồn nguyên liệu quý cho ngành công nghiệp. Vùng ven biển nước ta còn thuận lợi cho nghề làm muối,
nhất là vùng ven biển Nam Trung Bộ.

Sinh vật biển Đông tiêu biểu cho vùng biển nhiệt đới giàu thành phần loài và có năng suất sinh học cao,
nhất là ở vùng ven bờ, nơi giàu nguồn thức ăn có mật độ tập trung sinh vật cao nhất. Trong biển Đông có tới
trên 2000 loài cá, trên 100 loài tôm, khoảng vài chục loài mực, hàng nghìn loài sinh vật phù du và sinh vật
đáy khác. Trên các đảo, nhất là tại hai quần đảo lớn Hoàng Sa và Trường Sa, ta còn có nguồn tài nguyên
quý giá, các rạn san hô cùng đông đảo các loài sinh vật khác tập trung ven đảo.
Bão, sóng lừng, nước dâng là những thiên tai do biển Đông gây ra làm ảnh hưởng không nhỏ đến cảnh
quan thiên nhiên và sự phát triển kinh tế xã hội nước ta. Mỗi năm trung bình vùng đồng bằng và ven biển
nước ta đón nhận 3 - 4 cơn bão trực tiếp từ biển Đông đổ vào. Năm bão nhiều có tới 8 -10 cơn, năm ít cũng
1 - 2 cơn bão. Bão qua biển Đông gây mưa to, lượng mưa đột ngột tăng lên đến 300 - 400mm trong một
ngày đêm, nước dâng nhanh, gió giật mạnh, sóng lớn làm phá huỷ các công trình xây dựng, đắm chìm tàu bè
và làm ngập mặn đất đai. Những đợt sóng lớn (sóng lừng) do gió bão gây nên có thể rất cao, độ cao cực đại
ở Cô Tô, Bạch Long Vĩ là 6 - 7m, ở Hoàng Sa, Trường Sa đến 11m. Bão lớn, sóng lừng, nước dâng là
những thiên tai bất thường, khó phòng tránh vẫn thường xuyên hàng năm đe doạ, gây hậu quả nặng nề cho
vùng đồng bằng ven biển nước ta, nhất là vùng ven biển Trung Bộ.
III. CẢNH QUAN THIÊN NHIÊN ĐỒI NÚI CHIẾM ƯU THẾ
1. Địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích nhưng chủ yếu là đồi núi thấp
Phần đất liền của lãnh thổ Việt Nam tuy nhỏ, hẹp ngang, nhưng hiện lên rõ nét trên bản đồ địa hình
Đông Nam Á một hệ núi kéo dài trên 1400 km từ biên giới Việt - Trung đến Đông Nam Bộ theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam chạy sát bên bờ biển Đông, làm thu hẹp diện tích đồng bằng. Đồi núi chiếm tới 3/4 diện
tích đất đai, đồng bằng chỉ còn là những châu thổ nhỏ, những dải đất trũng xen cồn cát trải dọc ven biển.
Địa hình nhiều đồi núi đã khiến cho thiên nhiên Việt Nam chủ yếu là cảnh quan đồi núi và có sự phân hoá
khác nhau giữa các khu vực.
Hệ thống núi ở Việt Nam đã tạo nên sự phân bậc rõ ràng, trong đó đồi núi thấp chiếm ưu thế tuyệt đối.
Địa hình thấp dưới 1000m chiếm tới 85% diện tích tự nhiên, núi cao trên 2000m chỉ chiếm 1% diện tích.
Địa hình đồi núi thấp chiếm chủ yếu có ý nghĩa lớn đối với việc bảo toàn tính chất nhiệt đới gió mùa của
thiên nhiên Việt Nam.
2. Cảnh quan rừng nhiệt đới ẩm gió mùa và đất Feralit phát triển trên địa hình đồi núi thấp
chiếm ưu thế ở Việt Nam
Tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của thiên nhiên Việt Nam do vị trí địa lí quy định được bảo tồn ở vành
đai chân núi dưới 600 - 700m ở miền Bắc và dưới 1000m ở miền Nam. Theo sự phân bậc địa hình nêu trên,

miền đồi núi nước ta có nhiều đai cao, nhưng đai nhiệt đới chân núi chiếm diện tích rộng nhất. Trong đai
này, tại các vùng đồi núi diễn ra quá trình hình thành đất feralit và phát triển cảnh quan rừng nhiệt đới ẩm
gió mùa. Trên độ cao ấy, tính chất nhiệt đới bị biến tính mạnh mẽ, mưa ẩm thường xuyên, tính chất gió mùa
cũng không còn biểu hiện rõ rệt để chuyển tiếp lên các đai rừng á nhiệt đới và ôn đới. Diện tích các đai này
rất nhỏ tương ứng với địa hình núi trung bình và núi cao. Vì thế, cảnh quan rừng nhiệt đới ẩm gió mùa phát
triển trên đồi núi thấp là kiểu cảnh quan chiếm ưu thế ở Việt Nam.
3. Cảnh quan thiên nhiên có sự phân hoá cảnh quan theo đai cao và theo địa phương
Tuy địa hình núi cao chỉ chiếm diện tích rất nhỏ, nhưng những khối núi cao đồ sộ với những đỉnh cao
vượt trên 2000m đã phần nào phá vỡ cảnh quan thiên nhiên nhiệt đới của nước ta. Tại các khối núi cao xuất
hiện các vành đai khí hậu á nhiệt đới và khí hậu ôn đới. Trên đai cao á nhiệt đới khí hậu mát mẻ, nhiệt độ
tháng mùa hè xuống dưới 25
0
C hình thành đai rừng á nhiệt đới trên núi. Lên cao trên 2400m, khí hậu lạnh
với nhiệt độ trung bình năm hạ thấp dưới 15
0
C, nhiệt độ tháng lạnh nhất thấp dưới 10
0
C là nơi phân bố đai
rừng ôn đới núi cao. Sự giảm nhiệt độ, tăng lượng ẩm theo độ cao đã làm thay đổi cảnh quan biểu hiện ở sự
hình thành các đai cao rừng. Trên đai rừng nhiệt đới gió mùa chân núi là đai rừng á nhiệt đới trên núi và lên
cao trên 2400 - 2600m là đai rừng ôn đới núi cao.
Tính chất nhiều đồi núi còn khiến cho cảnh quan tự nhiên rất đa dạng. Các đồi núi với nền địa chất, độ
cao và hướng địa hình khác nhau đã tạo nên sự khác nhau về chế độ nhiệt ẩm, về tính chất thổ nhưỡng và
trạng thái lớp phủ thực vật giữa các vùng. Đi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ đồng bằng lên miền
núi, chúng ta gặp đủ các cảnh quan từ rừng rậm ẩm ướt tới rừng thưa, truông gai khô hạn, từ rừng nhiệt đới
gió mùa chân núi tới rừng mưa ôn đới núi cao. Chính vì vậy, đặc điểm nhiều đồi núi là nguyên nhân cơ bản
tạo nên sự phân hoá đa dạng, phức tạp của thiên nhiên Việt Nam.
Địa hình miền đồi núi có quan hệ chặt chẽ với địa hình đồng bằng. Những hệ thống sông lớn mang vật
liệu phù sa từ miền đồi núi bồi đắp mở rộng các đồng bằng châu thổ, nhiều nhánh núi ăn lan ra sát biển làm
thu hẹp, chia cắt dải đồng bằng ven biển và còn tiếp tục ăn ngầm ngoài biển. Giữa địa hình đồi núi, đồng

bằng, bờ biển, biển và hải đảo có mối quan hệ chặt chẽ về mặt phát sinh và các quá trình tự nhiên hiện tại.
Do vậy việc khai thác, sử dụng hợp lí miền đồi núi không chỉ giúp cho sự phát triển kinh tế xã hội ở các
miền này, mà còn có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái chung của đất nước.
IV. THIÊN NHIÊN PHÂN HOÁ ĐA DẠNG
Thiên nhiên Việt Nam phân hoá đa dạng. Đây là hệ quả tổng hợp của các tác nhân địa đới (theo vĩ độ),
phi địa đới: địa ô (theo kinh tuyến), đai cao và kiến tạo - địa mạo. Biểu hiện rõ nhất của sự phân hoá đa dạng
thiên nhiên Việt Nam là ở thành phần địa hình và địa hình đóng vai trò chính làm phân hoá đa dạng các
thành phần tự nhiên khác.
1. Địa hình phân hóa đa dạng
Sự phân hoá đa dạng của địa hình Việt Nam thể hiện ở các đặc điểm cấu trúc địa hình.
1.1. Các đặc điểm cấu trúc địa hình
a. Yếu tố sơn văn chiếm vai trò chủ yếu trong cấu trúc địa hình Việt Nam
Sự phân hoá địa hình Việt Nam biểu hiện rõ rệt ở miền đồi núi và do yếu tố sơn văn chi phối. Trong
mối liên kết thống nhất về mặt phát sinh, về hướng và hình thái, các dãy núi ở Việt Nam làm thành hai hệ
núi chính: Hệ núi Tây Bắc - Đông Nam ở phần phía Tây sông Hồng và hệ núi vòng cung ở phần phía Đông
sông Hồng. Hệ núi Tây Bắc - Đông Nam của nước ta bao gồm vùng núi Tây Bắc và dãy Trường Sơn, là
phần tiếp nối các mạch núi Vân Nam - Trung Quốc. Hệ núi vòng cung phía Đông sông Hồng tiếp tục các
cánh cung Đông Nam Trung Hoa thuộc phần rìa nền Hoa Nam.
b. Địa hình có cấu trúc cổ được trẻ hoá, phân bậc và thấp dần về phía Đông Nam
Lãnh thổ Việt Nam được hình thành sớm vào cuối đại Trung sinh, trải qua quá trình bào mòn lâu dài
làm hạ thấp địa hình, sau đó, do chịu ảnh hưởng của vận động Tân kiến tạo, địa hình lại được nâng cao và
trẻ hoá. Vận động nâng lên không đều giữa các khu vực với hướng nghiêng chung thấp dần về phía Đông
Nam đã tạo nên sự phân bậc địa hình.
Địa hình núi Việt Nam mang đặc điểm của một miền núi cổ được trẻ hóa. Tính chất cổ của địa hình
thể hiện ở các bề mặt san bằng cổ, đá cổ lộ trên mặt, đồi núi thấp là chủ yếu. Những nơi được nâng lên
mạnh trong vận động Tân sinh mang hình thái núi trẻ, với các đặc điểm sống núi rõ, sắc sảo, sườn dốc,
khe sâu, sông ngòi đào lòng về phía thượng nguồn.
Khối Phanxipăng trên dãy Hoàng Liên Sơn là khối núi cao nhất ở Việt Nam. Thuộc địa hình núi
trung bình có dãy núi sông Mã, các khối núi thượng nguồn sông Chảy, thượng nguồn sông Đà, Kontum và
Nam Trung Bộ. Địa hình núi thấp bao gồm vùng núi Đông Bắc và dãy Trường Sơn Bắc. Chuyển tiếp giữa

miền núi và miền đồng bằng là vùng đồi trung du và các bề mặt bán bình nguyên. Các đồng bằng hạ lưu
sông thấp phẳng tiếp giáp bờ biển phẳng và thềm lục địa nông mở rộng ở hai vịnh biển trong vùng biển
Đông của nước ta là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan.
Cấu trúc địa hình có sự tương phản giữa địa hình đồi núi cổ và cắt xẻ với địa hình đồng bằng trẻ và
bằng phẳng. Trong mối quan hệ giữa địa hình đồng bằng với địa hình bờ biển và đáy biển gần bờ có sự liên
kết, đồng thời có sự khác nhau giữa các khu vực.
Đồng bằng sông Hồng nằm trên đường kéo dài của máng sụt sông Hồng nên tương đối bằng phẳng, mở
rộng tiếp nối một vùng vịnh nông, ít chỗ sâu quá 50m, bờ biển phẳng, thềm lục địa mở rộng. Đồng bằng
sông Cửu Long hình thành trên một máng sụt đi từ Biển Hồ đến cửa sông Mê Công thấp phẳng và rộng lớn
hơn, mở ra một vịnh biển nông với đường bờ biển phẳng, thềm lục địa kéo ra rất xa. Đồng bằng ven biển
miền Trung hẹp ngang, nhỏ bé, đường bờ biển khúc khuỷu, những nhánh núi chia cắt đồng bằng tiếp tục ăn
ngầm dưới biển, thềm lục địa thu hẹp, đoạn hẹp nhất có đường đẳng sâu 200m cách bờ chừng 30km và ra
ngoài khơi 250km đã gặp một hố sâu Thái Bình Dương quá 3000m.
Nguyên nhân làm cho các dạng địa hình của lãnh thổ có sự khác biệt, đồng thời có sự liên kết với nhau,
chính là do sự thống nhất về mặt phát sinh trong cấu trúc địa hình.
1.2. Sự phân hoá của các dạng địa hình
a. Địa hình núi
Địa hình núi được phân chia làm bốn vùng núi chính:
- Vùng núi Tây Bắc: Trong đại Tân sinh, chịu ảnh hưởng của vận động tạo sơn Himalaya, vùng núi Tây
Bắc được nâng lên mạnh nhất ở Việt nam, biên độ nâng nhỏ dần về phía đông nam. Hệ quả của hoạt động
này là sự hình thành khối núi cao nhất ở Việt Nam (Phanxipăng cao 3143m), sự phân bậc địa hình và hướng
nghiêng Tây Bắc - Đông Nam. Vùng Tây Bắc hiện lên với 3 mạch núi lớn, phía Đông là dãy Hoàng Liên
Sơn với khối núi cao đồ sộ Phanxipan, phía Tây là địa hình núi trung bình dãy sông Mã chạy dọc biên giới
Việt Lào, ở giữa thấp hơn là dãy núi xen các sơn nguyên, cao nguyên đá vôi từ Phong Thổ đến Mộc Châu
và tiếp nối những đồi sót trên đồng bằng Ninh Bình - Thanh Hóa. Chạy giữa các dãy núi là các thung lũng
sông cùng hướng như sông Đà, sông Mã, sông Chu và các vùng trũng, nhiều nơi mở rộng thành cánh đồng
như ở Nghĩa Lộ, Điện Biên
- Vùng núi Trường Sơn Bắc (từ phía nam sông Cả đến đèo Hải Vân): Trường Sơn Bắc cũng là hệ núi
gồm các dãy núi song song và so le theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với địa thế cao ở hai đầu và thấp ở
đoạn giữa. Phía Bắc, vùng thượng du Nghệ An là dãy núi Pu Xailaileng (2711m), Rào Cỏ (2136m) chạy dọc

biên giới Việt - Lào. Đoạn giữa, địa hình vùng đá vôi Quảng Bình và vùng đồi núi thấp Quảng Trị hạ thấp
dưới 1000m. Phía Nam, tại vùng núi Tây Thừa Thiên, địa hình lại đội cao xấp xỉ 1500m. Mạch núi cuối
cùng, dãy Bạch Mã đâm ra biển ở vĩ tuyến 16
O
B làm ranh giới với Trường Sơn Nam và cũng là bức chắn
ngăn cản khối khí cực đới sâu xuống phương Nam.
Khác với địa hình núi Tây Bắc thấp dần về phía Đông Nam, địa hình Trường Sơn dựng cao, tạo nên hai
sườn không đối xứng, sườn tây thoải dần về sông Mê Công, sườn đông dốc nghiêng xuống đồng bằng ven
biển khiến cho sông ngòi đào xẻ dữ dội, nhiều sông ngắn dốc, đổ thẳng ra biển theo hướng Tây - Đông.
- Vùng núi Trường Sơn Nam: Do ảnh hưởng của khối nền cổ Kon Tum, các dãy núi tạo nên một cánh
cung lớn theo hướng kinh tuyến lưng lồi ra Biển Đông. Trường Sơn Nam gồm các khối núi và các cao
nguyên. Khối núi Kon Tum và khối núi Cực Nam Trung Bộ nằm ở hai đầu có địa hình mở rộng và nâng
cao. Đoạn giữa, dãy núi Bình Định thu hẹp và trũng hẳn xuống, mở ra các cao nguyên Plêyku, Đắc Lắc rộng
lớn ở phía Tây tiếp nối với các cao nguyên Mơ Nông, Di Linh, Đông Nam Bộ ở phía Nam. Địa hình núi đổ
xô về mạn đông để vượt lên những đỉnh cao trên 2000m, tạo nên thế chênh vênh của đường bờ biển với
những sườn dốc đứng và dải đồng bằng ven biển thắt hẹp. Tương phản với địa hình núi phía Đông, các cao
nguyên badan ở phía Tây có địa hình tương đối bằng phẳng, làm thành các bề mặt cao 500 - 800 -1000m.
Tính chất bất đối xứng giữa hai sườn đông - tây ở địa hình Trường Sơn Nam còn biểu hiện rõ hơn Trường
Sơn Bắc.
- Vùng núi vòng cung Đông Bắc: Sự sắp xếp theo hình cánh cung của địa hình Đông Bắc là sự tiếp nối
các cánh cung Đông Nam Trung Hoa, với độ cao hạ thấp, trung bình chỉ còn 500 - 1000m. Hướng cánh
cung của hệ sơn văn ở đây và địa hình chủ yếu là núi thấp có liên quan đến nền Hoa Nam.
Hệ núi Đông Bắc hiện ra với 5 cánh cung lớn, chụm đầu ở Tam Đảo, mở ra về phía Bắc và Đông. Đó là
các cánh cung sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều và cánh cung ven biển Hạ Long. Địa hình Đông
Bắc cũng theo hướng nghiêng chung Tây Bắc - Đông Nam. Những đỉnh cao trên 2000m nằm trên vùng
thượng nguồn sông Chảy như Tây Côn Lĩnh 2431m, Kiều Liêu Ti 2403m. Giáp biên giới Việt - Trung là địa
hình cao của các khối núi đá vôi ở Hà Giang, Cao Bằng. Trung tâm là vùng đồi núi thấp 500 - 600m, giáp
đồng bằng là vùng đồi trung du dưới 100m. Theo hướng vòng cung của các dãy núi là hướng vòng cung của
các dòng sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam.
Núi Việt Nam được cấu tạo chủ yếu bởi các đá kết tinh cổ có nguồn gốc macma hoặc trầm tích biến

chất. Trên nền đá khó phong hoá ấy, miền núi nước ta có địa hình hiểm trở, sông ngòi nhiều thác ghềnh gây
trở ngại cho giao thông và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ở miền núi còn có địa hình tương đối bằng phẳng
của các cao nguyên và các đồng bằng thung lũng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và cây công nghiệp.
Ở miền núi phía Bắc có các cao nguyên đá vôi Đồng Văn, Quản Bạ, Bắc Hà, Mộc Châu, Sơn La, các đồng
bằng Lục Yên, Đoan Hùng, Tuyên Quang, Điện Biên Miền núi phía Nam có các cao nguyên bazan ở Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ.
b. Địa hình đồng bằng
Nước ta có hai đồng bằng châu thổ sông là Đồng bằng sông Cửu Long rộng 40.000km
2
và Đồng bằng
sông Hồng rộng 15.000km. Các đồng bằng này hình thành trên vùng sụt lún ở hạ lưu sông, có thềm biển
nông, thoải, mở rộng. Đồng bằng sông Cửu Long thấp, phẳng, không có đê nhưng có mạng lưới kênh rạch
chằng chịt nên mùa lũ nước ngập sâu ở các vùng trũng Cà Mau, Bạc Liêu, Đồng Tháp, còn về mùa cạn,
nước triều lấn mạnh làm 2/3 diện tích đồng bằng bị nhiễm mặn. Đồng bằng sông Hồng cao và chia cắt
hơn, do có đê ven sông ngăn lũ nên vùng trong đê không được bồi phù sa hàng năm, tạo thành các bậc
ruộng cao bạc mầu và các ô trũng ngập nước, vùng ngoài đê thường xuyên được bồi phù sa.
Đồng bằng ven biển miền Trung có diện tích khoảng 15000km
2
. Hình thái đồng bằng phần nhiều hẹp
ngang và bị chia cắt thành nhiều đồng bằng nhỏ. Chỉ có vài đồng bằng được mở rộng ở cửa sông lớn như
đồng bằng Thanh Hoá cửa sông Mã (3000km
2
), đồng bằng Nghệ An cửa sông Cả, đồng bằng Quảng Nam -
sông Thu Bồn và đồng bằng Phú Yên - sông Đà Rằng. Các đồng bằng thường chia làm ba dải: giáp biển là
cồn cát, đầm phá, giữa là vùng thấp trũng, dải trong cùng đã được bồi tụ thành đồng bằng. Trong sự hình
thành đồng bằng, biển đóng vai trò chủ yếu nên đất có đặc tính nghèo, ít phù sa.
c. Địa hình bán bình nguyên và đồi trung du
Nằm chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi là các bề mặt bán bình nguyên hoặc các đồi trung du có
độ cao dưới 300m, độ cắt xẻ giữa các quả đồi 50 - 60m, tối đa là 100m. Bán bình nguyên hiện rõ ở Đông
Nam Bộ với bậc thềm phù sa cổ ở độ cao 100m và bề mặt hình thành từ phun trào bazan cao chừng 200m.

Địa hình đồi trung du phần nhiều là di tích của tác động ngoại lực chia cắt các thềm phù sa cổ. Càng gần
đồng bằng đồi càng thấp, nhỏ, thung lũng mở rộng. Dải đồi trung du rộng nhất nằm ở rìa đồng bằng sông
Hồng và thu hẹp ở rìa đồng bằng ven biển. Địa hình bán bình nguyên và đồi trung du thích hợp cho trồng
các cây công nghiệp, các mô hình nông lâm kết hợp, đôi nơi được biến đổi để trồng lúa và hoa màu. Nhiều
đồi trung du đã trở thành vùng đất trống, bạc màu. Cần nhanh chóng phục hồi lớp phủ thực vật và sử dụng
hợp lí đối với vùng đất dễ bị thoái hoá này.
Địa hình phân hoá đa dạng phức tạp đã tạo nên sự phân hoá đa dạng điều kiện tự nhiên và tiềm năng tài
nguyên các vùng lãnh thổ Việt Nam. Vì thế, nghiên cứu sự phân hoá địa hình là cơ sở để hiểu biết sâu sắc
đặc điểm tự nhiên và tài nguyên mỗi vùng nhằm sử dụng hợp lí cho mục tiêu phát triển kinh tế.
2. Khí hậu, thuỷ văn phân hoá đa dạng
2.1. Khí hậu
a. Khí hậu phân hoá đa dạng: Khí hậu Việt Nam phân hóa đa dạng thể hiện ở sự khác nhau về khí hậu
giữa các khu vực.
Các miền khí hậu: Dựa trên sự khác nhau chủ yếu về nền nhiệt độ và ảnh hưởng của gió mùa đông bắc
đã làm tăng biên độ nhiệt khác thường ở phía bắc lãnh thổ, phần đất liền của nước ta được chia làm hai miền
rõ rệt khí hậu. Ranh giới giữa hai miền là khối núi Bạch Mã (đèo Hải Vân).
Sự phân chia thành hai miền khí hậu dựa trên ba chỉ số: biên độ nhiệt độ hàng năm, lượng bức xạ tổng
cộng trung bình hàng năm và số giờ nắng trung bình hàng năm (theo Atlas Khí tượng Thủy văn Việt Nam,
năm 1994)
Bảng 6. Một số đặc trưng của các miền khí hậu
Miền khí hậu Biên độ
nhiệt/năm
Lượng bức
xạ/ năm
Số giờ nắng/năm
Miền khí hậu phía
Bắc
≥ 9
0
C ≤ 140 kcl/cm

2
≥ 2000 giờ
Miền khí hậu phía
Nam
< 9
0
C > 140
0
C > 2000 giờ
Miền khí hậu phía Bắc: Khí hậu trong năm có mùa đông lạnh. Mùa đông với 3 tháng lạnh (t
0
< 20
0
C)
thể hiện rõ ở đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi phía Bắc. Về phía Nam, gió mùa đông bắc yếu dần, số tháng
lạnh giảm còn 1 – 2 tháng, tới Huế chỉ còn thời tiết lạnh. Mùa đông lạnh khiến cho nhiệt độ hạ thấp 4 – 5
0
C
so với các trị số trung bình của các vùng có cùng vĩ độ. Đặc điểm nổi bật của miền là tính bất ổn định rất
cao trong diễn biến thời tiết, khí hậu, biên độ nhiệt 9 – 14
0
C. Độ lạnh giảm dần về phía Tây, đồng thời với
thời kì bắt đầu mùa mưa chậm dần vè phía Nam là cơ sở chia miền khí hậu này ra bốn vùng khí hậu.
Miền khí hậu phía Nam: Khí hậu nóng đều quanh năm và có tính chất gió mùa cận xích đạo. Khí hậu
trong năm chia thành hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Trong miền phân chia ba vùng khí hậu: ven biển miền
Trung có mùa mưa vào thu đông, Nam Bộ có khí hậu nóng và điều hòa hơn Tây Nguyên.
b. Khí hậu phân hóa thành các đai theo độ cao địa hình và các kiểu theo địa phương
Về đại thể trên 600 - 700m là vành đai khí hậu á nhiệt đới trên núi, trên 2400 - 2600m là vành đai khí
hậu ôn đới núi cao. Do hướng núi và độ cao địa hình mà hình thành các trung tâm mưa nhiều, mưa ít. Tuỳ
theo sự kết hợp giữa nhiệt và ẩm mà theo địa phương có các kiểu khí hậu khác nhau. Trên lãnh thổ nước ta

có các kiểu khí hậu nhiệt đới hoặc á xích đạo khô, hơi khô, hơi ẩm, ẩm, các kiểu khí hậu á nhiệt đới trên núi
hơi ẩm tới ẩm và kiểu khí hậu ôn đới núi cao ẩm ướt.
c. Khí hậu diễn biến thất thường
Sự phân mùa khí hậu không phải là rõ ràng và ổn định. Sự đan xen giữa các khối khí đã làm cho khí hậu
nước ta có tính thất thường. Tính thất thường không chỉ biểu hiện ở sự biến động nhiết, ẩm giữa hai mùa
trong năm mà còn giữa năm này và năm khác, làm tăng cường tính phức tạp trong diễn biến mùa của khí
hậu Việt Nam. Sự thất thường còn biểu hiện ở thời gian thay đổi mùa. Thời gian bắt đầu, kết thúc, mức độ
nóng, lạnh mỗi mùa cũng biến động rất lớn. Về chế độ mưa cũng rất thất thường, bão lũ, hạn hán là những
thiên tai bất thường gây ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp.
2.2. Thuỷ văn
a. Thuỷ văn phân hoá đa dạng
Thuỷ văn Việt Nam được phân chia thành ba miền lớn: miền thuỷ văn Bắc Bộ, miền thuỷ văn Đông
Trường Sơn và miền thuỷ văn Tây Nguyên và Nam Bộ.
- Miền thủy văn Bắc Bộ: Nhiều lưu vực lớn, sông dài, hợp lưu của nhiều dòng chảy. Lượng dòng chảy
qua miền được tiếp nhận một phần khá lớn lượng nước từ ngoài lãnh thổ. Hướng chảy chung của sông ngòi
là Tây Bắc- Đông Nam theo hướng nghiêng của địa hình. Lũ vào mùa hạ, tháng lũ lớn nhất là tháng 8. Cạn
vào mùa đông, tháng kiệt nhất là tháng 3.
- Miền thuỷ văn Đông Trường Sơn: Trải dài từ Vinh (Nam Nghệ An) trở vào đến Cam Ranh (Bắc
Khánh Hòa), phần lớn là sông nhỏ, nhiều sông có hướng chảy Tây - Đông, lượng dòng chảy được hình
thành chủ yếu trong địa phận nước ta. Mùa lũ lệch sang thu đông. Lũ lớn nhất vào tháng 10 - 11, lũ tiểu mãn
vào tháng 5 - 6 tháng kiệt nhất vào tháng 4 hoặc tháng 7, 8.
- Miền thuỷ văn Tây Nguyên và Nam Bộ: Tương tự như miền thủy văn Bắc Bộ, lũ vào mùa hạ, nhưng
cực đại lùi xuống tháng 9, 10 kiệt vào mùa đông và tháng cực tiểu vào tháng 3, 4 Do mùa khô sâu sắc và
lượng bốc hơi cao nên lượng dòng chảy kiệt rất nhỏ. Sông Cửu Long nhận 90% lượng nước từ bên ngoài
vào. Hai dòng Tiền Giang và Hậu Giang chảy trên đồng bằng Nam Bộ thấp, bằng phẳng, phân chia làm
nhiều chi lưu đổ ra biển qua chín cửa sông, do vậy đồng bằng Nam Bộ có diện tích bị ngập lụt và nhiễm
mặn lớn.
b. Chế độ dòng chảy diễn biến thất thường
Sự chênh lệch lượng dòng chảy giữa 2 mùa là hệ quả của chế độ mưa mùa, trạng thái bề mặt lưu vực và
hình thái của mạng lưới sông. Tính thất thường của chế độ khí hậu tạo nên tính thất thường của chế độ dòng

chảy, biểu hiện năm lũ sớm, năm lũ muộn, năm lũ lớn, năm nước cạn kiệt.
3. Thổ nhưỡng - Sinh vật phân hoá đa dạng
3.1. Thổ nhưỡng phân hoá đa dạng
Do các nhân tố và điều kiện hình thành đất gồm địa hình, khí hậu, thuỷ văn, sinh vật có sự phân hoá đa
dạng, thêm vào đó do tác động của con người khiến cho thổ nhưỡng Việt Nam phân hoá đa dạng. Ở nước ta
có tới 19 nhóm đất với 54 loại đất gộp theo 2 hệ đất chính là đất đồng bằng và đất đồi núi.
a. Hệ đất đồng bằng
Hệ đất đồng bằng chiếm gần 1/4 diện tích đất tự nhiên, gồm nhiều nhóm đất. Nhóm đất phù sa chiếm
diện tích lớn nhất 3,4 triệu ha. Ngoài ra, nhóm đất phèn (chua mặn) cũng chiếm diện tích khá lớn hơn 1,85
triệu ha, nhóm đất mặn ven biển có diện tích gần 1 triệu ha, nhóm đất cát biển hơn 500.000 ha. Tại vùng
thấp trũng hình thành nhóm đất glây và nhóm đất than bùn, tập trung nhất ở vùng Đồng Tháp, U Minh.
b. Hệ đất đồi núi
Hệ đất đồi núi tại các vùng đồi núi nước ta, quá trình hình thành đất Feralit chiếm chủ yếu. Có sự phân
hoá đất theo đai cao. Nhóm đất Feralit vùng đồi núi thấp chân núi chiếm diện tích lớn nhất hơn 20 triệu ha
(trên 60% diện tích đất tự nhiên). Trong đó các loại đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá mẹ axit, đá phiến sét,
đá cát chiếm tới 14,8 triệu ha. Trong nhóm đất này, tốt nhất là loại đất Feralit nâu đỏ (2,4 triệu ha) phát triển
trên đá mẹ bazan và đá vôi. Đất xám phù sa cổ có diện tích hơn 1,2 triệu ha, phân bố tập trung nhất ở Đông
Nam Bộ 900.000 ha, còn ở rìa Đồng bằng Bắc Bộ. Do quá trình canh tác tưới nước lâu ngày, đất bị trôi hết
chất màu, nhiều nơi biến đổi thành đất xám bạc màu. Các loại đất nâu đỏ, đất xám phù sa cổ rất thích hợp cho
việc trồng cây ăn quả và cây công nghiệp. Một số nhóm đất khác chiếm diện tích ít hơn như nhóm đất xám
vùng bán khô hạn, nhóm đất đen. Đất đen phát triển trên đá bazan và đá vôi, thường gặp ở thung lũng đá vôi,
ở nơi chân đồi tụ nước mạch chứa nhiều cacbonat. Đất đen là loại đất tốt, nhiều phì liệu.
Trên đai cao khí hậu á nhiệt đới và ôn đới là các nhóm đất feralit có mùn và mhóm đất mùn alit núi cao.
Hai nhóm đất này chiếm gần 3,3 triệu ha, hơn 10% tổng diện tích. Ngoài ra, ở nước ta còn có nửa triệu ha
đất xói mòn trơ sỏi đá. Loại đất này là bằng chứng hậu quả của hoạt động khai thác sử dụng đất bất hợp lí
của con người.
3.2. Sinh vật phân hoá đa dạng
Sự phân hoá đa dạng, phức tạp của cảnh quan thiên nhiên Việt Nam được biểu hiện trực quan sinh động
nhất ở giới sinh vật với sự đa dạng các kiểu hệ sinh thái.
Trên bề mặt đất nổi khắp nơi cảnh quan rừng bao phủ với 15 kiểu hệ sinh thái thực vật thay thế nhau từ

rừng ngập mặn ven biển lên các hệ sinh thái rừng á nhiệt đới, ôn đới trên núi, từ rừng nhiệt đới ẩm lá rộng
thường xanh tới các hệ sinh thái rừng nhiệt đới mưa mùa, nửa rụng lá, khô rụng lá, xa van, truông bụi.
Ngoài ra còn các hệ sinh thái đặc trưng các điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng đặc biệt khác. Sự phân hoá giới
sinh vật lớn nhất thể hiện ở là sự hình thành các nhóm hệ sinh thái theo độ cao địa hình. Mỗi hệ sinh thái có
đặc trưng riêng về khí hậu, thổ nhưỡng, thành phần loài.
a. Nhóm hệ sinh thái thực vật nhiệt đới núi thấp
Phân bố ở độ cao trung bình dưới 600 - 700m (ở miền Nam lên đến 900 - 1000m). Do tính chất nhiệt
đới ẩm gió mùa vẫn được bảo tồn nên ở vùng đồi núi thấp hình thành loại đất feralit điển hình với các hệ
sinh thái rừng nhiệt đới. Ở những vùng núi thấp mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, mùa khô không rõ hình thành
hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh với cấu trúc nhiều tầng. Giới động vật nhiệt đới trong
rừng đa dạng và phong phú. Các loài thú leo trèo trên cây như khỉ, voọc, vượn, các loài sống trên mặt đất
như beo, gấm, cầy, cáo, các loài bò sát như trăn, rắn, tắc kè, kì đà, các loài chim như vẹt, công, trĩ, phượng
hoàng, vàng anh Khi rừng này bị phá hoại hoặc ở những nơi có mùa khô rõ thì tồn tại các hệ sinh thái
rừng nhiệt đới gió mùa thay thế. Đó là rừng nhiệt đới gió mùa thường xanh, rừng nhiệt đới gió mùa nửa
rụng lá và rừng nhiệt đới gió mùa rụng lá, rừng thưa nhiệt đới khô lá rộng và rừng thưa nhiệt đới khô lá kim.
Trong thành phần rừng ở miền Bắc có xen các loài cây á nhiệt rụng lá Hoa Nam như dẻ, sau sau, ở miền
Trung có các loài nhiệt đới rụng lá Ấn Độ - Mianma, còn ở miền Nam là các loài cây rụng lá họ dầu, thuộc
khu hệ Malaixia - Inđônêxia. Đồng thời, đất Feralít cũng bị biến đổi theo chiều hướng xấu như tầng đất
mỏng đi, tầng tích tụ tăng lên, dày và có mầu đỏ vàng rõ rệt. Trên đất thoái hóa, các loài cây chịu hạn rụng
lá thay thế, tạo thành hệ sinh thái rừng thưa nhiệt đới thứ sinh, các trảng cây to, cây bụi và trảng cỏ. Khi sử
dụng đất này tránh làm chua, khô đất và làm rửa trôi lớp đất mặt. Để bảo vệ đất không bị thoái hóa, đá ong
hóa cần có chế độ canh tác hợp lí và giữ lớp phủ thực vật.
Trong nhóm này còn có các hệ sinh thái thực vật phát triển trên các loại thổ nhưỡng đặc biệt:
+ Hệ sinh thái rừng nhiệt đới thường xanh trên đá vôi: Hệ sinh thái này có các loài cây lá rộng như trai,
nghiến, ô rô. Động vật có các loài chạy nhảy giỏi như sơn dương, hươu xạ.
+ Hệ sinh thái rừng lá rộng thường xanh ngập mặn trên đất mặn, đất phèn (chua mặn): ven biển trên
đất ngập mặn có các loài cây sú, vẹt, bần, đước. Ở miền Nam, có những khu rừng đước phát triển rất mạnh,
đứng hàng thứ 2 trên thế giới, sau rừng ngập mặn Amazôn. Giới động vật trong rừng ngập mặn phong phú.
Trên đất phèn ở Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Đồng Tháp có rừng tràm. Nơi đây còn là xứ sở của chim
muông, như “sân chim” Đầm Dơi, Cái Nước ở Cà Mau, Vườn Quốc gia “Tràm Chim” ở huyện Tam Nông

thuộc tỉnh Đồng Tháp.
+ Hệ sinh thái xa van, truông bụi nhiệt đới khô trên đất cát, đất thoái hóa vùng khô hạn: ở nước ta, xa
van, truông bụi nguyên sinh chỉ có ở Ninh Thuận, Bình Thuận, còn thường là xavan thứ sinh tại những nơi
rừng bị phá kiệt. Các loài thú như hươu nai, hoẵng, lợn rừng, mèo rừng nghèo dần, chỉ còn đông đảo các
loài gậm nhấm và chim như sóc, nhím, dúi, chuột, gà rừng, chim cu
b. Nhóm hệ sinh thái thực vật á nhiệt đới và ôn đới trên núi
Tại độ cao từ 600 - 700m đến 1600 - 1700m, khí hậu lạnh, ẩm hơn tạo điều kiện hình thành các hệ sinh
thái rừng á nhiệt đới lá rộng với các loài cây thuộc các họ Dẻ, Re, Hồ đào và rừng á nhiệt đới lá kim với
các loài Thông, Sa mu, Pơ mu hoặc rừng á nhiệt đới hỗn giao thay thế. Khí hậu lạnh hạn chế quá trình phân
giải chất hữu cơ, mùn được tích lũy, hình thành đất Feralít có mùn và có đặc tính chua. Đồng thời quá trình
phong hóa yếu đi nên tầng đất mỏng hơn.
Trong rừng xuất hiện các loài chim, thú á nhiệt đới phương Bắc. Các loài thú có lông dày như gấu, sóc,
cầy, cáo. Ở độ cao trên 1600 -1700m là phạm vi phân bố của hệ sinh thái rừng á nhiệt đới mưa mù trên đất
mùn alít. Khí hậu lạnh đã làm đình trệ quá trình phân giải chất hữu cơ, mùn được tích lũy càng nhiều, quá
trình phong hóa yếu hẳn, tạo nên tầng đất mỏng, chua. Do độ ẩm cao, ôxít sắt bị hydrat hóa rửa trôi, do đó có
sự tích lũy ôxit Al nhiều hơn hẳn ôxit Fe, tạo thành loại đất mùn alit (Al).
Trong rừng, đã xuất hiện các loài cây ôn đới như đỗ quyên, thiết sam, lãnh sam. Rừng sinh trưởng kém,
thấp nhỏ, đơn giản về thành phần và rêu, địa y phủ kín thân, cành cây. Trong rừng có mặt các loài chim di
cư thuộc khu hệ Himalaya.
Lên cao nữa, trên 2.800m đất nông cạn, cằn khô, cây thấp nhỏ cong queo, không tạo thành rừng chỉ còn là
quần hệ thực vật khô lạnh núi cao.
Sự phân hoá đa dạng của các thành phần tự nhiên đã tạo nên sự phân hoá đa dạng của cảnh quan thiên
nhiên ở nước ta.

×