Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

THỰC TRANG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.07 KB, 48 trang )

THỰC TRANG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP
CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
2.1. Một vài nét về các tổ chức sự nghiệp công ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế và phát triển đất nước trong hơn hai thập kỷ
qua, cùng với quá trình phát triển kinh tế mạnh mẽ nền kinh tế đất nước liên tục tăng
trưởng cao (trung bình từ 7- 8% năm), nước ta cũng đã đạt được những kết quả khá ấn
tượng trong việc cải thiện đời sống và phúc lợi xã hội của người dân. Hệ thống dịch vụ
phúc lợi xã hội đã và đang được đổi mới và ngày càng phát triển, đáp ứng phần nào nhu
cầu ngày càng tăng của người dân về cáo loại hình dịch vụ giáo dục, y tế, văn hoá, bảo
vệ môi trường.v.v. Theo kết quả đánh giá tại Báo cáo phát triển con người của Liên hợp
quốc, chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam không ngừng được cải thiện và
luôn được xếp hạng cao hơn so với trình độ phát triển kinh tế. Nếu như chỉ số HDI của
Việt Nam năm 1992 mới đạt 0,539 và đứng thứ 120/174 nước thì đến năm 2000, HDI
của Việt Nam là 0,688, đứng thứ 109/173 nước. Năm 2005, HDI của Việt Nam là
0,733, xếp thứ 105/177 nước trong khi xếp hạng theo chỉ số GDP (theo GDP bình quân
đầu người theo ngang giá sức mua- PPP) cùng năm là 113/177 nước
1.

Những điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân đã được cải thiện
đáng kể trong hai thập kỷ qua. Theo đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế, nước ta đã và đang
đạt được những thành tích ấn tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ
(MDG) mà LHQ đã khởi xướng. Theo đó, Việt Nam sẽ đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển
của thiên niên kỷ vào thời điểm trước thời hạn năm 2015 (xem Bảng 2).
Bảng 2: Thành tựu của Việt Nam về đáp ứng dịch vụ phúc lợi tương
ứng với MDG
Các chỉ số đánh giá theo MDGs Đơn vị
tính
Giai đoạn Có đạt
MDG
?
199


0
200
5
Y tế
Trẻ em 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ % - 95

Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai % - 77

1 Báo cáo Phát triển con người 2007/2008 của Liên hợp quốc.
Sinh con với sự có mặt của nhân viên y
tế
% - 85

Dinh dưỡng
Dân số suy dinh dưỡng % 31 16

Trẻ em thiếu cân theo độ tuổi % - 27

Môi trường
Dân số sử dụng công trình vệ sinh đã
được cải thiện
% 36 61

Dân số sử dụng nguồn nước được cải
thiện
% 65 85

Giáo dục
Tỷ lệ biết chữ ở thanh thiếu niên % 93,7 93,9


Tỷ lệ nhập học cấp tiểu học % 90 88

Tỷ lệ trẻ học hết lớp 5 % - 87

Tỷ lệ nhập học bậc trung học % - 69
Công nghệ
Tiếp cận đường điện thoại /1000
dân
1 191

Tiếp cận thuê bao di động /1000
dân
0 115

Người sử dụng internet /1000
dân
0 129

Nguồn: Báo cáo Phát triển con người 2007/2008 của Liên hợp quốc.
Các kết quả đạt được nói trên là nhờ những nỗ lực to lớn của Đảng và Nhà nước ta
trong việc bảo đảm cung ứng ngày càng tốt hơn các dịch vụ xã hội cho người dân. Nhà
nước luôn dành một phần rất lớn NSNN để chi cho các lĩnh vực sự nghiệp công như giáo
dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá thể thao, NSNN chi cho các lĩnh vực này không
ngừng tăng lên trong hơn một thập kỷ qua (xem sơ đồ 1). Tại thời điểm năm 2004, tỷ trọng
trong chi ngân sách Nhà nước cho một số lĩnh vực sự nghiệp cơ bản cao nhất là cho lĩnh
vực giáo dục – đào tạo ở mức 15,7%; y tế đạt 5,3%, KHCN & BVMT 1,7% và văn hóa thể
thao được cấp 2,9% ngân sách nhà nước. Nhờ đó, năng lực cũng như kết quả cung ứng
các dịch vụ sự nghiệp công cho người dân không ngừng được cải thiện và ngày càng
phát triển tốt hơn ( xem thêm Bảng 3).
Sơ đồ 1: Chi ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực sự nghiệp công thời kỳ

2000-2004
Nguồn: Niêm giám thống kê 2006, Tổng cục thống kê 2007.
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
2000 2001 2002 2003 2004
Giáo dục - Đào tạo Y tế KHCN&BVMT VH-TDTT
Bảng 3: Kết quả cung ứng một số dịch vụ sự nghiệp công chủ yếu ở Việt
Nam năm 2000 – 2006
2000 2006 Tăng trưởng
2006/2000 (%)
Giáo dục - Đào tạo
1. Mẫu giáo
Số trường 8933 11582 29.7
Số giáo viên (nghìn người) 103,3 122,9 19
Số học sinh (nghìn HS) 2212 2524,3 14.1
2. Giáo dục phổ thông các cấp
Số trường 24692 27593 11.8
Số giáo viên (nghìn người) 661,7 789,6 19.3
Số học sinh (nghìn HS) 17776,1 16256,6 (-) 8.6
3. Giáo dục Đại học- Cao đẳng
Số trường 178 299 68
Số giáo viên (nghìn người) 32,3 53,4 65.3

Số học sinh (nghìn HS) 899,5 1666,2 85.2
Y tế
2
Số cơ sở khám chữa bệnh 13117 13232 8.8
Số giường bệnh (nghìn giường) 192 198,2 3.2
Số bác sĩ bình quân/vạn dân 5 6,3 26
Nguồn: Niên giám thống kê 2006. Tổng cục thống kế, 2007.
Tuy vậy, những con số nói trên chưa thật sự phản ánh được hết chất lượng và
hiệu quả cung ứng dịch vụ sự nghiệp công ở Việt Nam ta hiện nay. Trên thực tế hiện
nay, các dịch vụ sự nghiệp công được cung cấp nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu của xã hội ngày một gia tăng, vẫn còn chưa tương xứng với những nguồn lực mà
Nhà nước đã bỏ ra để duy trì và phát triển nó trong những năm qua. So với những tiến
2 Chưa bao gồm khu vực y tế tư nhân.
bộ đầy ấn tượng về phát triển kinh tế thì việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công vận còn
đi sau. Hiện nay vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng về điều kiện, khả năng tiếp cận dịch
vụ sự nghiệp công giữa các nhóm dân cư có thu nhập khác nhau, giữa các vùng miền,
giữa thành thị và nông thôn. Khoảng cách bất bình đẳng này ngày càng gia tăng trong
những năm gần đây. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của một quốc
gia, trước tình hình hiện nay, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương Đảng
khóa X vừa qua đã họp và đánh giá tổng quát tình hình hiện nay là “cơ chế chính sách
phát triển các lĩnh vực sự nghiệp như văn hóa, xã hội đổi mới còn chậm chạp; chất
lượng dịch vụ y tế, giáo dục đào tạo còn thấp và đáng báo động; hệ thống an sinh xã hội
còn sơ khai; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thấp. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội và
bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt”
3
. Trước tình hình thực tế hiện nay, Đảng
và Nhà nước ta cần phải quan tâm hơn đến việc đảm bảo sự công băng bình đẳng trong
xã hội, cũng như dịch vụ sự nghiệp công của chúng ta đáp ứng được những nhu cầu của
xã hội.
2.1.2.1Bối cảnh dẫn đến Nhà nước cần phải đổi mới cơ chế quản lý các

TCSN công
Trong nhiều năm qua các dịch vụ sự nghiệp ở Việt Nam đều do các tổ chức sự nghiệp công đảm nhiệm
cung ứng cho xã hội. Nhà nước là người thành lập các tổ chức này và giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ sự nghiệp
công theo kế hoạch của Nhà nước, Nhà nước bao cấp ngân sách để các tổ chức này hoạt động và cung ứng dịch
vụ cho xã hội theo giá do Nhà nước qui định. Khi đó Nhà nước cũng là người đánh giá chất lượng và kết quả
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Tuy nhiên, cho tới năm 1997, thì Đảng và Nhà nước bắt đầu đề ra chủ trương
xã hội hoá cung ứng dịch vụ công. Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN và quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc thì cơ chế cung ứng dịch vụ sự nghiệp công này đã bộ lộ
những bất cập, đòi hỏi phải nhanh chóng đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này.
2.1.1.1. Yếu tố khách quan
- Trong hơn hai thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, nền kinh tế Việt
Nam đã chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định
hướng XHCN. Điều này đòi hỏi cơ chế quản lý các TCSN công cũng cần phải được
thay đổi để bắt nhịp được với điều kiện mới. Khi đó Nhà nước cần phải có cơ chế chính
3 Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tháng 01/2008.
sách bảo đảm sao cho người dân có điều kiện tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ sự
nghiệp công
4
.
- Cùng với quá trình phát triển kinh tế, đời sống và thu nhập của người dân ngày
càng được cải thiện, khi đó nhu cầu của họ về các dịch vụ phúc lợi xã hội ngày càng gia
tăng, đòi hỏi cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong khi đó với nguồn lực hạn chế, Nhà
nước khó có thể thỏa mãn đầy đủ mọi nhu cầu của người dân về cung ứng các dịch vụ
sự nghiệp công.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những cam kết của Việt Nam sau
khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi nước ta phải từng
bước mở cửa thị trường, trong đó có cả thị trường dịch vụ, tạo điều kiện để các
nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể tham gia cung ứng các loại hình dịch vụ,
trong đó có dịch vụ sự nghiệp công.

2.1.1.2. Yếu tố chủ quan
- Ngân sách nhà nước những năm qua luôn dành cho các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công
ngày càng tăng về số tuyệt đối, song nếu tính theo tỷ trọng trong tổng chi ngân sách thì
dường như không có nhiều thay đổi (sơ đồ 1), trong khi dân số Việt Nam ngày càng
tăng, nhu cầu đối với dịch vụ sự ngiệp công ngày càng lớn hơn. Ngân sách cấp cho các
tổ chức sự nghiệp công lập giáo dục rất hạn chế, chủ yếu mới đủ để trả lương cho các
cán bộ làm việc, không đủ để đầu tư chiều sâu và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, chưa
nói đến để đầu tư chiều sâu và đổi mới trang thiết bị. Trong thời kỳ 2000-2004, trung
bình 76% ngân sách Nhà nước chi cho lĩnh vực giáo dục – đào tạo là để chi thường
xuyên, chủ yếu là để chi lương cho lực lượng giáo viên và cán bộ làm việc trong lĩnh
vực này; chỉ còn 24% tổng chi được dùng cho đầu tư. Nguồn lực từ ngân sách cho đầu
tư hạn chế nên Nhà nước không thể cải thiện tốt điều kiện vật chất tại mọi trường học;
đổi mới các thiết bị dạy và học. Đặc biệt, nguồn lực có hạn, khiến cho Nhà nước không
thể đủ lực để mở rộng các chương trình quốc gia hỗ trợ những vùng, miền khó khăn,
phát triển hệ thống bảo trợ xã hội để bảo vệ những nhóm người yếu thế, dễ bị tổn
thương...
4 Xem thêm phần phân tích mục: 1.1.2.3. Tổ chức sự nghiệp công
- Năng lực đáp ứng nhu cầu xã hội của hệ thống các tổ chức sự nghiệp công lập trong
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công hạn chế. Mặc dù hệ thống các tổ chức sự nghiệp công
lập đã tăng lên trong thời gian gần đây (như thể hiện ở bảng 2) nhưng tốc độ tăng này
chưa theo kịp nhu cầu phát triển nhanh chóng của xã hội cả về số lượng và chất lượng.
Chất lượng giáo dục hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; chất lượng đào tạo chưa dựa trên
nhu cầu của xã hội, dẫn đến lãng phí lớn do phải đào tạo lại nguồn nhân lực đã qua đào
tạo.
- Cách thức tổ chức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công lập mang nặng tính hành chính,
bao cấp, không gắn kết lợi ích của tổ chức với hiệu quả cung ứng dịch vụ và chất lượng
phục vụ người dân. Cho tới gần đây quá trình cung ứng dịch vụ sự nghiệp công ở Việt
Nam được thực hiện theo chiều từ trên xuống, tức là từ Nhà nước - tổ chức sự nghiệp
công lập - người dân. Nhà nước giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cho các tổ chức sự nghiệp công
lập, tương ứng với đó là nguồn ngân sách cấp phát theo kế hoạch hàng năm. Tổ chức sự

nghiệp công lập thực hiện kế hoạch đề ra, cung cấp dịch vụ sự nghiệp theo chỉ tiêu đã
định và báo cáo kết quả (theo cơ chế hành chính) cho cơ quan chủ quản Nhà nước. Mô
hình tổ chức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công như vậy đã bộc lộ nhược điểm là thiếu
mối liên hệ giữa Nhà nước và người sử dụng dịch vụ, không có người kiểm soát chất
lượng dịch vụ của tổ chức nhà nước cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Nhà nước cũng
không đánh giá được xem liệu ngân sách chi cho lĩnh vực sự nghiệp công có được sử
dụng hiệu quả hay không.
- Cơ chế quản lý của tổ chức sự nghiệp công lập còn nhiều bất cập, hiệu
quả thấp. Nhìn chung, các tổ chức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công thuộc nhà
nước vẫn hoạt động như một tổ chức hành chính nhà nước. Mọi lĩnh vực hoạt
động của các tổ chức này đều do cơ quan chủ quản quyết định, từ kế họach hoạt
động, cơ cấu tổ chức- bộ máy, cán bộ, chi tiêu tài chính v.v. Cơ chế này biến
các tổ chức sự nghiệp công lập trở thành các cơ quan công quyền, hoạt động
theo cơ chế hành chính bao cấp dẫn đến trì trệ, thiếu động lực đổi mới. Nhìn
chung, những tổ chức sự nghiệp công lập hoạt động theo cơ chế như vậy sẽ
không quan tâm đến bảo đảm chất lượng dịch vụ và mức độ thỏa mãn của người
sử dụng dịch vụ của mình, chỉ miễn sao hoàn thành nhiệm vụ được cấp trên
giao và xin được càng nhiều tiền trợ giúp từ ngân sách nhà nước càng tốt.

2.2. Thực trạng cơ chế quản lý trong lĩnh vực giáo dục
2.2.1 Một vài nét về thành tựu trong giáo dục – đào tạo ở Việt Nam
Trong những năm qua cùng với phát triển kinh tế mạnh mẽ, nền giáo dục
Việt Nam ta đã đạt được nhiều kết quả khá ấn tượng. Tính đến năm 2005 tỷ lệ
biết chữ ở thanh thiếu niên ở nước ta là 93,9%, tỷ lệ nhập học cấp tiểu học là
88%, tỷ lệ trẻ học hết lớp 5 là 87%, và tỷ lệ nhập học bậc trung học đạt 69%
( cụ thể xem thêm Bảng 2: Thành tựu của Việt Nam về đáp ứng dịch vụ phúc lợi
tương ứng với MDG ). Hiện nay mạng lưới các trường phổ thông đã phủ hầu
khắp cả nước, từ đồng bằng đến những vùng sâu, vùng xã trong cả nước đều đã
có hệ thống các trườngphổ thông, trong năm học 2005-2006 cả nước có 27593
trường phổ thông trong đó hơn 50% là các trường tiểu học. Ở vùng đồng bằng

hầu hết các xã đều có trường phổ thông cơ sở và ở tuyến huyện thì hầu hết các
huyện có trường phổ thông trung học. Hầu hết ở các xã vùng sâu, vùng xa, hải
đảo của đât nước cũng đã có trường tiểu học. Khi đó số lượng trường đại học và
cao đẳng công lập trong cả nước ngày càng gia tăng, tỷ lệ tăng tuyệt đối từ 178
lên 299 trường từ năm 2000 –2006, từ năm 2000 – 2006 cả nước đã có thêm
121 trường đại học và cao đẳng, với mức tăng 68%. Hầu hết các địa phường đều
có các trường đại học và cao đẳng. Tính đến năm 2006 cả nước có 269 trường
trung học chuyên nghiệp (dạy nghề), tăng 16 trường so với năm 2000
5
.(xem
thêm sơ đồ 2)
Sơ đồ 2: Số lượng trường học các cấp trong hai năm 2000-2006
Nguồn: Tổng cục thống kê
5 Theo số liệu Tổng cục thống kê năm 2007.
Cùng với sự gia tăng về số lượng các trường học ở các cấp bậc giáo dục
thì trong những năm gần đây, số lượng học sinh và giáo viên trong cả nước đã
tăng lên đáng kể so với những năm trước đây. Tuy vậy, mức tăng này ở các bậc
học khác nhau cũng rất khá khác nhau, thậm chí có bậc học số học sinh giảm
tuyệt đối. Nguyên nhân quan trọng nhất của vấn đề này chính là sự thay đổi về
cơ cấu dân số theo độ tuổi trong thời gian qua. So sánh số liệu về số lượng học
sinh và giáo viên trong ba năm học gần đây cũng có thể thấy rõ điều này và số
liệu này được thể hiện trong Bảng 4 và Bảng 5.
Có thể thấy rằng, số học sinh đại học và cao đẳng ngày càng tăng, cụ thể
năm 2000 có 0,8995 sinh viên lên 1,6662 triệu sinh viên năm 2006 với mức
tăng 85,2%, như vậy có thể thấy rằng số thanh thiếu niên được tiếp cân giáo dục
đại học và cao đẳng ngày càng gia tăng. Số học sinh trung học phổ thông cũng
tăng từ 2,616 triệu năm học 2003-2004 lên 3,0752 triệu năm học 2006-2007 với
mức tăng 17,6%, số học sinh trung học phổ thông có xu hướng ngày càng gia
tăng. Tuy nhiên, số học sinh trung học cơ sở và tiểu học lại có xu hướng giảm,
cụ thể số học sinh trung học cơ sở năm học 2003-2004 là 6,612 triệu và đến

năm học 2006-2007 giảm xuống còn 6,152, giảm tới 7,5%. Cấp tiểu học giảm
tới 18,7% chỉ trong vòng ba năm này. Đối với cấp bậc đầu tiên của GD-ĐT là
mẫu giáo thì số trẻ mẫu giáo cũng gia tăng đáng kể trong những năm qua, số
học sinh mẫu giáo năm học 2003-2004 là 2,173 triệu lên 2,5243 năm học 2006-
2007 tăng lên 351,3 nghìn trẻ, với tốc độ tằng 16,2%, còn trong giai đoạn từ
năm 2000 đên năm 2006 với tốc độ tăng là 14,1%. (xem thêm Sơ đồ 3 và Bảng
4 dưới đây). Như vậy hầu hết ở các cấp bậc giáo dục số học sinh đều tăng, có
thể thấy số người được tiếp cận với nền giáo dục trong những năm qua ngày
càng tăng
6
6 Tính toán dựa trên số liệu của Bảng 4, Bảng 5.
Sơ đồ 3: Số lượng học sinh mẫu giáo và các cấp học phổ thông trong các
năm học gần đây
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 4: Số lượng học sinh và giáo viên trong những năm gần đây
theo các bậc giáo dục
Đơn vị: 1000 người
Bậc giáo dục Năm học 2003-
2004
Năm học 2005-
2006
Năm học 2006-
2007
Số học
sinh
Số giáo
viên
Số học
sinh
Số giáo

viên
Số học
sinh
Số giáo
viên
Mẫu giáo 2173 106.7
2426.9
117.2 2524.3 122.9
Tiểu học 8346 366.2 7304 354.8 7029.4 349.5
THCS 6612 280,9 6371.3 310.2 6152 314.9
THPT 2616 98,7 2975.3 115.5 3075.2 125.2
Nguồn: Tổng c ục thống kê 2007
Số lượng giáo viên trong những năm qua cũng tăng đáng kế, trong năm
2000 số giáo viên phổ thông được ghi nhận là 0,6617 triệu người, tăng lên
0,7896 triệu người năm 2006, với tốc độ tăng trong giai đoạn này là 19,3%. Số
giáo viên THPT tăng với tốc độ cao nhất, từ năm học 2003-2004 đến 2006-
2007, số giáo viên trung học phổ thông tăng 26,8%, trong khi con số này đối với
trung học cơ sở là 12,1%, ngược lại số giáo viên tiểu học lại giảm 4,6%. Còn số
giáo viên mẫu giáo trong giai đoạn 2000-2006 tăng lên 19%. Tương tự, số giảng
viên đại học và cao đẳng tăng 1,85 lần trong giai đoạn từ năm 2000-2006. Từ
32,3 nghìn giảng viên năm 2000 lên đến 53,4 nghìn năm 2006 với mức tăng
65,3%. Số liệu này chứng tỏ số cơ sở giáo dục, đào tạo và số cán bộ giảng dạy
trực tiếp vẫn tiếp tục tăng, đặc biệt là trong hệ đại học và cao đẳng.
Bảng 5: Kết quả so sánh giáo dục đào tạo các cấp ở Việt Nam
năm 2000- 2006
Các cấp học 2000 2006
Tăng trưởng
2006/2000 (%)
Giáo dục - Đào tạo
1. Mẫu giáo

Số trường 8933 11582 29.7
Số giáo viên (nghìn người) 103,3 122,9 19
Số học sinh (nghìn HS) 2212 2524,3 14.1
2. Giáo dục phổ thông các cấp
Số trường 24692 27593 11.8
Số giáo viên (nghìn người) 661,7 789,6 19.3
Số học sinh (nghìn HS) 17776,1 16256,6 (-) 8.6
3. Giáo dục Đại học- Cao đẳng
Số trường 178 299 68
Số giáo viên (nghìn người) 32,3 53,4 65.3
Số học sinh (nghìn HS) 899,5 1666,2 85.2
Nguồn: Niên giám thống kê 2006. Tổng cục thống kế, 2007
Trước những năm 1986 đối với các tỉnh phía Bắc và từ 1975-1986 đối
với các tỉnh phía Nam, thì các cơ sở GD-ĐT đều là công lập. Trong những năm
vừa qua nhiều cải cách nền giáo dục nước nhà đã diễn ra, đặc biệt là Đảng và
Nhà nước đã có chủ trương xã hội hóa và đa dạng hóa các tổ chức cung cấp dịch
vụ GD-ĐT. Hiện nay, hệ thống các cơ sở trong GD-ĐT có 6 loại hình được nhà
nước công nhận đó là: Trường công lập, trường bán công, trường dân lập,
trường tư thục, trường liên kết-liên doanh với nước ngoài và trường nước ngoài
(trường được đầu tư bằng 100% vốn nước ngoài). Hệ thống các trường này về
cơ bản đã và đang đáp ứng được khá tốt nhu cầu học tập và đào tạo ngày càng
tăng của xã hội, không những tăng lên về mặt số lượng và phần nào đã tăng lên
về mặt chất lượng.
Hiện nay số lượng các trường công lập trong những năm vừa qua vẫn
chiếm phần lớn trong tổng số trường học và ngày càng tăng. Đối với bậc mẫu
giáo, số lượng các cơ sở ngoài công lập phát triển khá nhanh. Đến năm học
2004-2005, cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập đã chiếm 65,52% tổng số
cơ sở giáo dục mầm non. Khi đó ở các bậc giáo dục phổ thông, thì số lượng các
trường công lập chiếm áp đảo. Xu hướng này tiếp tục trong năm học 2006-
2007, đến năm 2010 số cơ sở ngoài công lập của cấp này sẽ chiếm 70% và

được phản ánh cụ thể trong Bảng 6.
Bảng 6: Vai trò của khu vực ngoài nhà nước trong cung ứng dịch vụ giáo dục đào
tạo
Cấp học
1999-
2000
2004-
2005
2006-
2007
Mục tiêu cần đạt
theo NQ 05 đến
2010
Mầm non
- % học sinh ngoài công lập. 53,25 58,24 57,3
- % cơ sở ngoài công lập. 60,89 65,52 70%
Tiểu học
- % Học sinh ngoài công lập - 0,37 0,54
- % cơ sở ngoài công lập. 0,57 0,52 0,61
THCS
- % Học sinh ngoài công lập - 1,8 1,41
- % Cơ sở ngoài công lập. 1,17 0,67 0,47
PTTH
- % Học sinh ngoài công lập - 30,14 30,6
- % Cơ sở ngoài công lập. 24,19 27,84 26,2 40%
Cao đẳng - Đại học
- % Học sinh ngoài công lập 12,73 13,49 12,9
- % Cơ sở ngoài công lập. 7,0 13,0 14,6 khoảng 40%
Nguồn: Số liệu năm học 1999-2000 và 2004-2005 từ Đề án qui hoạch xã hội
hoá Giáo dục – đào tạo 2006-2010; Số liệu năm học 2006-2007 từ Bộ Giáo dục và Đào

tạo, 2007.
Trong đó số trường ngoài công lập của các bậc học từ tiểu học chỉ chiếm
chưa đến 1% trong năm học 2006-2007 (cụ thể chỉ chiếm 0,61%), tương ứng
với 0,54% của tổng số học sinh ngoài công lập ở bậc học này. Khi đó ở cấp
THCS (0,47%) tỷ lệ các trường ngoài công lập còn thấp hơn và có xu hướng
ngày càng giảm trong những năm qua. Trong tổng số học sinh bậc trung học,
các cơ sở ngoài công lập cũng chỉ chiếm 1,8%. Ở cấp trường trung học phổ
thông thì số cơ sở ngoài công lập cao hơn so với các cấp giáo dục khác, cụ thể
năm học 2006-2007 số cơ sở ngoài công lập chiếm 26,2%, số học sinh cấp này
chiếm 30,6%. Ở cấp giáo dục đại học và cao đẳng số cơ sở các trường ngoài
công lập cũng tăng đáng kể trong những năm qua, trong năm học 1999-2000 số
cơ sở ngoài công lập của cấp này chỉ chiếm 7%, những đến năm học 2006-2007
đã tăng lên đến 14,6%. Số cơ sở ngoài công lập của cấp này đã tăng gấp đôi
trong giai đoạn 1999-2006, xu hướng các trường ngoài công lập ở cấp này còn
tăng, trong Đề án quy hoạch giáo dục 2006-2010 tại NQ05 thì đến năm 2010 số
cơ sở ngoài công lập của cấp học này sẽ chiếm 40% số cơ sở đào tạo cùng cấp.
2.2.2 Cơ chế tổ chức bộ máy
Ở Việt Nam ta Nhà nước thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục và đào
tạo. Khi đó Bộ giáo dục và đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, điều này được qui định tại
điều 87 của Luật giáo dục được Quốc hội ban hành ngày 02/12/1998 và tại các
Luật giáo dục 2005 sửa đổi. Bên cạnh đó các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ
quan trực thuộc chính phủ cũng thực hiện chức năng nay nhung quản lý theo
lĩnh vực chuyên môn của Bộ mình đối với một lĩnh vực đào tạo có liện quan
đến ngành của mình quản lý. Bộ và các cơ quan ngang bộ này được qui định
phải phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo để thực hiện việc thống nhất quản lý
nhà nước trong giáo dục ở Việt Nam ta. Ở cấp địa phương, thì UBND các cấp
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục ở địa phương theo qui định
của Chính phủ.
Bộ Giáo dục và đào tạo là cơ quan ban hành các qui chế tổ chức và điều

lệ hoạt động cho các tổ chức giáo dục và các loại trường học từ giáo dục mầm
non, đến giáo dục phổ thông, bậc trung học chuyên nghiệp, bậc đại học và sau
đại học. Nhưng việc quản lý tổ chức và nhân sự của các cơ sở giáo dục công lập
là do UBND các cấp và các bộ chủ quản (đối với các tổ chức sự nghiệp (TCSN)
giáo dục của bộ) quản lý.
Tại địa phương, Sở GD-ĐT là cơ quan chuyên môn tham mưu giúp Uy
ban nhân dân tỉnh và thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo (trừ đào tạo nghề) của địa phương. Sở giáo dục chịu sụ chỉ đạo
của Bộ Giáo dục và đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, hướng dẫn và kiểm tra,
còn quản lý về tổ chức, biên chế và công tác khác chịu sự chỉ đạo Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố. Tương tự, ở cấp huyện, phòng giáo dục là cơ quan chuyên
môn thuộc uỷ ban nhân dân huyện và giúp cho UBND huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về GD-ĐT. Phòng GD-ĐT chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở GD-ĐT ( Theo Thông tư liên tịch
Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ số 21/2004/BGD&BNV ngày 23/07/2004 về việc
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về GD-ĐTGD-ĐT ở địa phương).
Theo một số quy định hiện hành thì UBND là cấp chính quyền có chức
năng và quyền hạn trong việc thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể hoặc đình
chỉ hoạt động của các tổ chức giáo dục trên địa bàn. Cấp Tỉnh, UBND tỉnh là
cấp quyết định các vấn đề này đối với các trường trung học phổ thông, trường
phổ thông dân tộc nội trú, trường trung học chuyên nghiệp thuộc tỉnh, trung tâm
giáo dục thường xuyên, trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục tỉnh.v.v....
Cấp huyện, UBND huyện là cấp có quyền hạn và trách nhiệm quản lý tổ chức từ
giáo dục mầm non, tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn. Thực tế việc tổ
chức, xây dựng và quản lý hoạt động của các nhà trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm
non thường được giao cho UBND cấp xã quản lý và thực hiện
7
.
Theo quy định thì Bộ giáo dục và đào tạo có chức năng quản lý nhà nước

đối với các trường đại học và các trường đại học cũng chịu sự quản lý hành
chính theo lãnh thổ của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi trường
7 Tại nghị định của Chính phủ số 166/2004/NĐ-CP ngày 16/09/2004 qui định
có trụ sở tại địa phương đó. Tại điều 8, Quyết định số 153/2000/QĐ-TTg ngày
30/07/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành “Điều lệ trường đại
học” quy định thì các trường đại học có quyền tự chủ hơn và được xây dựng qui
chế về tổ chức và hoạt động của trường và trình cơ quan chủ quản phê duyệt.
Nhưng thực tế cấp giáo dục đại học Bộ GD-ĐT vẫn cầm hết quyền năng về
mình để quy định chi tiết từng công việc của các trường, hiện Bộ Giáo dục và
đào tạo qui định chương trình khung giáo dục đại học, nội dung, phương pháp
sau đại học, tổ chức việc xét duyệt và biên soạn các giáo trình sử dụng chung
cho các cơ sở đào tạo cao đẳng và đại học. Mặc dù theo qui định hiện hành các
trường đại học có được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về chiến lược, kế
hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, tổ chức và nhân sự
trong nội bộ trường, xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học
tập đối với ngành nghề được phép đào tạo. Tuy nhiên, qui hoạch và kế hoạch
phát triển nhà trường phải phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục và qui
hoạch mạng lưới các trường đại học của nhà nước, các chương trình, giáo trình,
kế hoạch giảng dạy phải dựa trên cơ sở chương trình khung do Bộ GD-ĐT ban
hành. Bộ cũng là cơ quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ về mô hình tổ
chức của các loại trường đại học, qui định thủ tục và quyết định việc thành lập,
sáp nhập, chia tách, giải thể và đình chỉ hoạt động các trường đại học, cao
đẳng..
Đối với việc tổ chức bộ máy của các TCSN trong giáo dục cũng có những
nét tương đồng như qui định đối với các TCSN công khác. Tại điều Điều 49 của
Luật giáo dục năm 1998 qui định hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý
các hoạt động của nhà trường và do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ
nhiệm. Bổ nhiệm hiệu trưởng và hiệu phó các trường THPT do Chủ tịch
UBND tỉnh quyết định theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ GD-ĐT
qui định và theo các qui định của Nhà nước về quản lý cán bộ. Còn UBND

huyện là cấp có thẩm quyền bổ nhiệm hiệu trưởng và hiệu phó các trường từ
trung học cơ sở trở xuống. Với các chính sách hiện hành, thì hiệu trưởng các
công lập chỉ có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh từ trưởng hoặc phó
các tổ chức trực thuộc trường mà không có các quyền này đối với cấp phó (hiệu
phó) của tổ chức mình, đây là một điều hạn chế hiện nay. Ở cấp đại học cũng
tương tư, tại điều 31 Điều lệ trường Đại học, hiệu trưởng các trường đại học
được quyền: Quyết định thành lập và giải thể các tổ chức của trường ( ngoại trừ
các tổ chức Đảng, công đoàn, Đoàn TN v.v...); Quyết định bổ nhiệm, miễn
nhiệm các chức danh trưởng, phó các tổ chức trực thuộc trường, hội đồng khoa
học và đào tạo.
Qua phân tích các chính sách ở trên ta có thể thấy rằng, việc quản lý tổ
chức và bộ máy đối với các TCSN công lập trong giáo dục vẫn còn mang nặng
tính chất hành chính, quan liêu theo phương thức điều hành từ trên xuống, vẫn
cứng nhắc, không lin hoạt. Khi đó sẽ làm giảm tính đi chủ động và tự quyết của
hiệu trưởng. Ở cấp đại học và cao đẳng mặc dù, quyền chủ động của hiệu
trưởng được mở rộng hơn, nhưng hiệu trưởng vẫn chưa có đầy đủ quyền hạn
trong việc giải quyết mọi vấn đề về tổ chức và bộ máy trong nội bộ trường
mình, thực chất tính hành chính cứng nhắc vẫn còn khá cao ở các cấp. Khi
chúng ta xem xét cách thức tổ chức của các cơ sở giáo dục tư thục ta thấy sự
khác biệt rõ rệt so với các cơ sở công lập. Vì cơ chế tổ chức và quản lý ở các tổ
chức này tương tự như của một doanh nghiệp. Thông thường Hội đồng quản lý
của trường đi thuê nhưng người đứng đầu trường và khi đó hiệu trưởng có thể
được giao toàn quyền điều hành về tổ chức và nhân sự trong nội bộ tổ chức
mình. Khi đó hiệu trưởng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội các của mình,
con khi đối với các cơ sở công lập thì ta người đứng đầu các cơ quan này vẫn
chưa phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với tổ chức của mình, vì bản thân cấp
phó vẫn do cơ quan thẩm quyền bổ nhiệm, khi đó làm giảm đi tính hiệu quả và
linh hoạt trong công tác tổ chức và quản lý của các đơn vị này.
2.2.3 Về cơ chế tổ chức nhân sự
Hiện nay việc thực hiện cơ chế nhân sự của các tổ chức sự nghiệp công

vẫn mang tính chất hành chính hoá, cơ chế nhân sự khá cứng nhắc, không linh
hoạt và không có tính cạnh tranh, do đó giáo viên chưa có động lực để tự nâng
cao trình độ của ban thân mình trong công tác giảng dạy. Mà khi đó việc cung
cấp các loại hình dịch vụ, thì con người mang tính chất quyết định đến chất
lượng của dịch vụ, với cơ chế được quy định cứ nhắc trong các văn bản của nhà
nước hiện nay, làm cho hoạt động của các cơ sở giáo dục sẽ không thể có hiệu
quả được.
Theo quy định hiện hành tại Luật giáo dục(1998), Luật giáo dục (2005),
Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định tuyển
dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các TCSN công; Nghị định
số 85/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ GD-ĐT; Quyết định số 153/2003/QĐ-
TTg ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Điều lệ trường đại
học và mới đây là Nghị định sô 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 của chính phủ
quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, thì các trường
có quyền tự chủ về nhân sự trường mình.
Thực tế quy đinh vẫn là quy đinh, mặc dù quy định là vậy, nhưng các
trường vẫn gặp khó khăn trong tuyển dụng và sử dụng cán bộ của đơn vị mình.
Các quy định trong các văn bản trên, chỉ dễ dàng hơn cho các trường trong việc
tuyển dụng mới. Còn việc sử dụng cán bộ như bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi
việc, chuyển công tác v.v. còn chịu ảnh hưởng của cấp trên tùy theo phân cấp
quản lý. Các trường do phòng Giáo dục và đào tạo quản lý, khi có nhu cầu nhân
sự đều lập kế hoạch biên chế hàng năm và trình phòng Giáo dục và đào tạo. Sau
đó, phòng Giáo dục và Đào tạo sẽ tập hợp và trình lên Sở Giáo dục và đào tạo.
Các trường do Sở Giáo dục và đào tạo trực tiếp quản lý sẽ trình kế hoạch nhân
sự trực tiếp lên Sở Giáo dục và đào tạo. Trên cơ sở đó, Sở sẽ lập kế hoạch biên
chế và tuyển giáo viên, trình UBND Tỉnh phê duyệt (thông qua Sở Nội vụ). Sau
khi kế hoạch được thông qua, tỉnh sẽ thành lập Hội đồng tuyển chọn (thường do
phó chủ tịch Tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng) để tổ chức các cuộc thi tuyển biên

chế. Nhân sự được tuyển sẽ chuyển giao về cho các, các trường không được
quyền lựa chọn người đáp ứng yêu cầu thực tế của trường và điều này làm giảm
tính linh họat trong bố trí cán bộ khiến cho việc giảng dạy không được hiệu quả.
Như vậy thực chất việc quản lý cán bộ, quản lý biên chế giáo viên ngành giáo
dục của các cơ sở GD-ĐT công lập (từ trung học trở xuống) thuộc quyền của
các UBND các cấp (tỉnh, huyện). Còn đối với các trường đại học thì có phần
nào được quyền tự chủ cao hơn, tại điều 32 của Điều lệ các trường đại học, hiệu
trưởng các trường đại học có quyền quyết định việc tiếp nhận (có thể thông qua
tổ chức thi tuyển), chuyển ngạch các chức danh từ giảng viên chính trở xuống,
ký quyết định tuyển dụng, thôi việc và thuyên chuyển công tác giảng viên, cán
bộ, nhân viên. Nhưng các chức danh cao hơn trong trường vẫn không thuộc
quyền của hiệu trưởng.
Về sa thải nhân viên, mặc dù Luật lao động, Pháp lệnh Cán bộ-công chức
đều có các điều khoản liên quan đến việc kết thúc hợp đồng lao động, thôi việc,
kỷ luật đối với nhân viên, thực tế cho thấy, cũng như ở các lĩnh vực khác, thực
hiện sa thải giáo viên ở các trường là rất khó khăn. Việc thiếu giáo viên có thể
được bổ xung dễ dàng, tuy nhiên việc giải quyết vấn đề thừa giáo viên mới thực
sự là vấn đề nan giải, để có quyết định kỷ luât một giáo viên ở địa phương phải
qua nhiều thủ tục và trình lên cấp có thẩm quyền quyết định.
Qua đây chúng ta có thể thấy, khi các trường không được chủ động trong
nhân thì các trường khó có thể tiết kiệm được chi phí và nâng cao chất lượng
đào tạo. Đặc biệt, hiên nay, khi khu vực tư nhân phát triển mạnh thì cơ chế quản
lý hiện nay làm cho các trường công lập khó có thể nâng cao được năng lực
cạnh tranh của trường.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý, đánh giá và kiểm soát cán bộ vẫn còn nhiều
bất cập. Hiện cơ chế đối với hiệu trưởng trách nhiệm không đi đôi với quyền
hạn thì làm cho hiệu trưởng khó có khả năng hoàn thành nhiệm vụ “một cách

×