Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận triết học "Biện chứng duy vật" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.43 KB, 23 trang )

Biện chứng duy vật
LỜI NÓI ĐẦU
Nhận thức, tư duy con người có quan hệ như thế nào với thế giới xung
quanh? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thức hay
không? Mà khi con người nhận thức được thế giới xung quanh thì việc áp
dụng các hiểu biết đó vào thực tiễn như thế nào? Đây là một trong hai vấn
đề cơ bản của triết học.
Trong triết học Mac - Lê nin, phép biện chứng duy vật được coi là
phương pháp luận chung nhất của mọi hoạt động thực tiễn, giúp con người
nhận thức được thế giới.
Vậy phép biện chứng là gì và nó có ý nghĩa như thế nào đối với nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người?
Chúng ta hãy xem xét các vấn đề này ở dưới đây trong các khía cạnh,
để hiểu thêm về phương pháp biện chứng và biện chứng duy vật.

1
Biện chứng duy vật
A
I. Phương pháp luận
Trước khi tìm hiểu về các vấn đề của phép biện chứng duy vật ta sẽ
xem xét qua: Như thế nào là phương pháp luận? Có thể nói một cách tổng
quát phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về phương
pháp, phương pháp giải quyết các vấn đề như: Phương pháp là gì? Bản
chất, nội dung, hình thức của phương pháp như thế nào? Phân loại phương
pháp ra sao? Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người như thế nào? … Do đó có thể nói cách khác
cụ thể hơn, phương pháp luận luận là hệ thống những quan điểm, những
nguyên tắc xuất phát chỉ đạo cụ thể tổng việc xác định phạm vi, khả năng
áp dụng chúng một cách hợp lý có hiệu quả tối đa.
Mọi khoa học đều có lý luận về phương pháp của mình, vì nghiên cứu
đối tượng, các khoa học đều phải xác định cho được các phương pháp thích


hợp, kiến giải tích tất yếu của các phương pháp được sử dụng và mối liên
hệ giữa các phương pháp đó.
Phương pháp luận được phân thành:
- Phương pháp luận phổ biến
- Phương pháp luận chung và phương pháp luận riêng.
Giữa chúng có sự liên hệ tác đông qua lại.
Đặc biệt phép biện chứng duy vật là phương pháp luận phổ biến, có ý
nghĩa rất to lớn trong hoạt động nhận thức và thực tiễn xã hội mà chúng ta
sẽ nghiên cứu dưới đây.
II. Vai trò của phương pháp luận
1. Phương pháp biện chứng.
Trước hết chúng ta cần hiểu phương pháp biện chứng là hệ thống các
nguyên tắc được hình thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù
của phép biện chứng duy vật. Các nguyên tắc này tuy có nội dung khác

2
Biện chứng duy vật
nhau song chúng có sự liên hệ bổ sung lẫn nhau, tạo thành một công cụ có
vai trò to lớn trong nhận thức các quy luật của thế giới khách quan.
Ta hãy xem xét một số nguyên tắc của phép duy vật biện chứng:
- Nguyên tắc về tính khách quan của sự xem xét.
Cơ sở lý luận của nó là vai trò quyết định của vật chất trong quan hệ
đối với ý thức, còn yêu cầu đối với mọi khoa học ta khi nghiên cứu sự vật
phải xuất phát từ bản thân sự vật, để chỉ ra các quy luật khách quan chi
phối sự vận động và phát triển của sự vật ấy.
- Nguyên tắc về tính toàn diện
Là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Trong các ngành khoa học, việc
nhận thức bản chất của sự vật phải được xem xét trong trạng thái toàn vẹn
và phức tạp của nó. Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,
tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó.

- Nguyên tắc xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động.
Cơ sở lý luận là nguyên lý về sự phát triển. Với yêu cầu là khi thực
hiện nguyên tắc này không chỉ dừng ở chỗ liệt kê các giai đoạn phát triển
lịch sử mà sự vật đã trải qua, mà phải vạch ra tính tất yếu, những quy luật
chi phối sự liên hệ và thay thế các trạng thái, từ trạng thái này sang trạng
thái khác của sự vật.
- Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và logic.
Ở đây: Lịch sử là khách thể được nghiên cứu trong sự vận động và
phát triển. Logíc là sự tái tạo dưới hình ảnh tinh thần khách quan đang vận
động và phát triển với những mối liên hệ tất yếu và xác định. Cơ sở lý luận
của nó là: Phương pháp lịch sử và phương pháp logíc. Yêu cầu chung là
phương pháp lịch sử phải nắm lấy cái logíc, xoay quanh cái logíc. Phương
pháp logíc phải dựa trên các tài liệu lịch sử để vạch ra những mối liên hệ tất
yếu, những quy luật khách quan vốn có trong quá trình lịch sử.
- Nguyên tắc thống nhất giữa phân tích và tổng hợp, giữa qui nạp và
diễn dịch.

3
Biện chứng duy vật
Phân tích và tổng hợp được tiến hành trong quá trình nhận thức là sự
lặp lại trong ý thức quá trình phân giải và tổng hợp ở thế giới khách quan.
Quy nạp là thao tác mà tư duy đi từ tri thức về cái riêng (sự vật hiện
tượng, quá trình riêng lẻ), đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến
tri thức chung hơn.
Diễn dịch là thao tác nhờ đó tư duy đi từ tri thức chung đến tri thức
chung hơn, đến tri thức về cái riêng.
- Nguyên tắc đi từ lý luận trừu tượng đến cụ thể.
Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ tư duy lý luận các tài liệu do trực
quan sinh động đem lại, ở đây cái trừu tượng phản ánh những mối liên hệ
phổ biến nhất, đơn giản nhất nhưng có vai trò quyết định trong cái cụ thể

nghiên cứu.
2. Phương pháp biện chứng là đỉnh cao của tư duy khoa học.
Có thể nói giá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ
ý muốn chủ quan của những người sáng tạo ra nó mà giá trị đó được thể
hiện ở chỗ "Giải pháp những vấn đề mà tư tưởng tiến tới của loài người đặt
ra", soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm
vụ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức lóc lột, khỏi sự tha hoá.
Mác khẳng định: Các nhà triết học trươc đây chỉ tìm mọi cách giải thích thế
giới bằng những cách khác nhau, song cái chính là cải tạo thế giới. Có thể
nói rằng cho đến nay, phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử đó mà
chưa có mặt học thuyết nào có thể thắng thế được, không chỉ những người
Macxít chân chính là ngay cả một số học giả tư sản cũng thừa nhận vai trò
của học thuyết đó. Chỉ có phép biện chứng duy vật mới có sự giải thích
khoa học về những quá trình vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư
duy, nắm được quy luật vận động của lịch sử, đem lại một giải pháp khoa
học cho những vấn đề đó một cách khoa học. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở

4
Biện chứng duy vật
sự thừa nhận thôi chưa đủ. Ngày nay, khoa học và thực tiễn luôn vận động,
biến đổi nên triết học Mac Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói
riêng cũng cần được bổ sung và phát triển nếu chúng ta không muốn lạc
hậu so với thực tiễn. Phép biện chứng duy vật vừa là yêu cầu của thực tiễn
xã hội, vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết đó. Có phát triển được và
thông qua phát triển, học thuyết đó mới bảo vệ mình và mới phát huy được
tác dụng và những giá trị của nó.
Trước Mac - Ănghen trong cuộc đấu tranh trường kỳ của các phái trào
lưu triết học, nhân loại đã biết đến nhiều nhà duy vật và biện chứng lớn,
đánh dấu những bước phát triển mới của tư duy triết học của con người trên

con đường tìm tới chân lý. Thế nhưng tất cả các nhà triết học đó do sự hạn
chế của các điều kiện khách quan và chủ quan đều chưa đem lại cho loài
người một thế giới toàn bộ triệt để, một phương pháp luận khoa học cách
mạng ở vị trí đó ta thường bắt gặp tính không nhất quán, duy vật khi giải
thích vấn đề này, nhưng lại duy tâm khi giải thích vấn đề khác, duy vật
nhưng lại siêu hình, không biện chứng hoặc biến chứng nhưng lại tiến tới
duy tâm. Điều quan trọng nhất là tất cả các nhà triết học trước Mác để đứng
lại ở nhận thức lĩnh vực tự nhiên và khi chuyển sang nhận thức vấn đề xã
hội họ đều không tránh khỏi rơi vào duy tâm, sai lầm, phản khoa học. Mác
- Ănghen là những người đầu tiên thống nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng
hay phép biện chứng duy vật, phép biện chứng ra đời đánh dấu bước phát
triển mới về chất trong lĩnh vực triết học, đó là học thuyết triết học hoàn bị,
triệt để thống nhất được xây dựng trên lập trường thế giới mới. Nó bao hàm
cả lĩnh vực tự nhiên xã hội và tư duy con người. Phép biện chứng duy vật
không phải là tổng số những nguyên lý, quy luật, phạm trù mà các nhà kinh
điển của chúng ta tạo ra là sự liên hệ hữu cơ có nguyên tắc của các tri thức
đã được xác lập trong hệ thống ấy. Giá trị thời đại của học thuyết ấy là ở
chỗ nó là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp, giữa lý luận
và thực tiễn, giữa tính khoa học và cách mạng.

5
Biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, năng động, nó dành cả
một phương hướng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự bù
đắp của tri thức nhân loại, là sự hướng dẫn và là động lực cho con người
trong việc cải tạo tự nhiên xã hội và tư duy. Phép biện chứng ra đời từ sự
sáng tạo và đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng nó
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Nếu như trước đây phép biện
chứng đôi khi do các nhà duy tâm nghiên cứu và các nhà duy vật dù là
phản đối phép siêu hình thì bây giờ phép biện chứng đó đã tìm thấy người

bạn đồng hành tin cậy duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật. Nếu như
trước đây lý luận và phương pháp đôi khi tách rời nhau, thì bây giờ chúng
đã trở thành sự thống nhất gắn bó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong
phép biện chứng duy vật đã trở thành phương pháp luận chung nhất của
việc nhận thức và cải tạo thế giới. Lê nin khẳng định phép biện chứng duy
vật là "học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc
nhất và không phiến diện".
Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học
nào khác, bởi vì nó không phải là sản phẩm của phương pháp tư duy mà nó
là sự phản ánh khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những giá trị
tư tưởng, văn hoá nhân loại, nó kế thừa tiếp thu có phân hoá những hạn ché
của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử, đồng khái quát
những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên. Học thuyết đó luôn lấy
thực tiễn làm cơ sở, điểm xuất phát của mình. Thực tiễn vừa là cơ sở, vừa
là mục đích, động lực, tiêu chuẩn để đánh giá sức bền của nó. Chính hơi
thở của thực tiễn đã làm cho phép biện chứng duy vật luôn sống động, phát
triển. Lê nin chỉ rõ: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi luận
điệu xuyên tạc của kẻ thù và bảo vệ những quan điểm khoa học của mình.

6
Biện chứng duy vật
B
Phép biện chứng duy vật
Có thể nói từ thời cổ đại người ta đã hiểu phép biện chứng là nghệ
thuật tranh luận để tìm ra chân lý, bằng cách vạch ra những mâu thuẫn
trong lập luận của đối phương. Quan điểm ấy đã thể hiện những hiểu biết
nhất định về yếu tố cơ bản của phép biện chứng là mâu thuẫn.

Định nghĩa phép biện chứng cho biết, phép biện chứng nói chung chỉ
mối liên hệ, vận động, phát triển của các sự vật phát triển. Thực chất của
các mối liên hệ vận động phát triển ấy là sự thống nhất, đấu tranh của các
mặt đối lập gọi là mâu thuẫn.
Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng hay những sản
phẩm tinh thần của thế giới, tồn tại trong mối liên hệ, tác động lẫn nhau và
không ngừng vận động phát triển.
Đối lập với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình cho rằng các
sự vật hiện tượng trong thế giới tồn tại cô lập, tĩnh lại không vận động,
không phát triển. Nếu có sự thừa nhận trong quan điểm này về vận động
của thế giới thì đó là sự tăng giảm đơn thuần về lượng hoặc vận động theo
chu kỳ khép kín.
Những người theo quan điểm siêu hình nói chung phủ nhận sự phát
triển, họ tuyệt đối hoá các mặt ổn định của sự vật, hiện tượng. Họ cho rằng
không có sự ra đời của cái mới và nguồn gốc của chúng nằm ở bên ngoài
sự vật, hiện tượng. Như vậy quan điểm biện chứng khác quan điểm siêu
hình ở chỗ: Nó xem xét sự phát triển như một quá trình tiến lên, thông qua
những bước nhảy vọt, cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Nó vạch ra nguồn
gốc bên trong của sự vận động và phát triển, đó là cuộc đấu tranh giữa
những mặt đối lập bên trong của sự vật, hiện tượng.

7
Biện chứng duy vật
Có hai loại phép biện chứng đó là biện chứng khách quan và biện
chứng chủ quan.
Trong lịch sử triết học có ba hình thức cơ bản của phép biện chứng
phản ánh trình độ nhận thức khác nhau của nhân loại về biện chứng khách
quan của thế giới, phép biện chứng ngây thơ, phép biện chứng duy tâm,
phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng ngây thơ tự phát cổ đại, tiêu biểu là Hêcralít. Ông

cho rằng sự vận động và phát triển của thế giới giống như dòng chảy của
một con sông, như vậy không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Biện
chứng ngây thơ dựa trên quan sát có tính trực quan, chỉ có ý nghĩa vô thần,
chống lại quan niệm tôn giáo về thế giới, ít có giá trị khoa học. Biện chứng
ngây thơ là hạn chế, bị phương pháp siêu hình xoá bỏ.
Biện chứng duy tâm, người tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm
khách quan là Heghen. Ông là người đầu tiên có công xây dựng tương đối
hoàn chỉnh phép biện chứng duy vật với hệ thống các phạm trù, khái niệm,
và các qui tắc cơ bản. Tuy nhiên, phép biện chứng của Heghen còn thiếu
triệt để và thiếu khoa học.
Biện chứng duy vật do Mác - Ănghen sáng lập ra vào giữa thế kỷ 19.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng. Nhờ đó khắc phục được các hạn chế
trước đây của phép biện chứng chất phác và phép biện chứng duy tâm và
thực sự trở thành khoa học, đưa con người tới bến bờ chân lý. Phép biện
chứng duy vật bao gồm các nguyên lý, phạm trù, qui luật.
Ta sẽ lần lượt xem xét các khía cạnh này.
I. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng.
Trước hết ta cần hiểu mối liên hệ là chỉ sự phụ thuộc tác động và
chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các yếu tố, các

8
Biện chứng duy vật
mặt hay các quá trình khác nhau của chúng. Các mối liên hệ không chỉ
mang tính chất phổ biến mà còn mang tính đa dạng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm liên hệ phổ biến là liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng của toàn bộ thế giới khách quan (gồm cả tự
nhiên, xã hội và tinh thần). Theo nó trong thế giới không có sự vật nào tồn
tại độc lập, tách rời, không liên hệ với các sự vật khác, trái lại chúng đều

liên hệ với nhau theo phương thức nào đó và tạo những hệ thống chằng chịt
của thế giới. Liên hệ không chỉ giữa các sự vật với nhau mà còn có các yếu
tố, các mặt bên trong của sự vật, giữa các giai đoạn phát triển khác nhau
của sự vật.
Đối lập với quan điểm về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng
duy vật. Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật trong thế giới tồn tại một
cách cô lập, tách rời nhau. Còn quan điểm biện chứng duy vật cho rằng mối
liên hệ phổ biến là liên hệ hiện thực khách quan vốn có trong các sự vật,
hiện tượng không do ai sắp đặt, sáng tạo ra cả. Đặc trưng của mối liên hệ là
mang tính phổ biến, mang tính khách quan và tính đa dạng.
Trong các mối liên hệ, có thể phân ra một số loại như sau:
Liên hệ bên trong và bên ngoài, liên hệ bên trong là liên hệ giữa các
yếu tố các mặt bên trong của sự vật còn liên hệ bên ngoài là liên hệ giữa
các sự vật với nhau. Liên hệ bên trong qui định sự tồn tại, phát triển của sự
vật, liên hệ bên ngoài tác động thông qua liên hệ bên trong. Mối liên hệ bên
trong và bên ngoài chỉ có tính tương đối.
Liên hệ cơ bản và không cơ bản, liên hệ cơ bản là mối liên hệ giữa các
mặt, các yếu tố cơ bản của sự vật. Liên hệ không cơ bản là mối liên hệ giữa
các mặt, các yếu tố không cơ bản của sự vật. Liên hệ cơ bản quyết định sự
phát triển của sự vật, còn liên hệ không cơ bản phụ thuộc vào liên hệ cơ
bản. Sự phân biệt chúng chỉ mang tính tương đối.
Liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu, liên hệ chủ yếu là liên hệ nổi lên ở
một thời điểm nhất định trong sự phát triển của sự vật và quyết định sự

9
Biện chứng duy vật
phát triển của sự vật tại thời điểm đó, còn liên hệ thứ yếu là liên hệ không
quyết định sự phát triển của sự vật ở thời điểm nói trên. Hai mối liên hệ này
có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Liên hệ gián tiếp và liên hệ trực tiếp, liên hệ gián tiếp là liên hệ được

xác lập qua khâu trung gian nào đó, còn liên hệ trực tiếp là liên hệ không
qua trung gian. Sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối.
Những mối liên hệ khác nhau của sự vật có nội dung và vai trò khác
nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Cần xuất phát từ tính khách quan của mối liên hệ để nhận thức và vận
dụng nó. Cần phải có quan điểm toàn diện trong việc nhận thức và tác động
lên sự vật. Nghĩa là khi nhận thức và vận dụng nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến, phải đặt sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ khách quan, vốn
có của nó để nghiên cứu và tác động lên chúng. Cần phải phân loại các mối
liên hệ để thấy được nội dung, vị trí và vai trò của mối liên hệ trong sự phát
triển của sự vật.
2. Nguyên lý về sự phát triển của các sự vật hiện tượng.
Có thể hiểu phát triển là sự vận động của các sự vật, hiện tượng theo
chiều hướng đi lên từ thấp lên cao, từ giản đơn đến phức tạp, đưa đến sự ra
đời của cái mới thay thế cho cái cũ.
Quan điểm siêu hình nói chung về sự phát triển là coi phát triển chỉ là
biến đổi thuần túy về lượng hoặc phủ nhận sự phát triển của thế giới. Quan
điểm siêu hình cho rằng, nguồn gốc phát triển được đem từ ngoài vào thế
giới.
Chủ nghĩa duy tâm nói chung cho rằng, sự phát triển thế giới về thực
chất chỉ là sự phát triển của tinh thần và do nguyên nhân tinh thần chi phối.
Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền với sự vận
động, không có sự vận động tương tác giữa các sự vật, hiện tượng với nhau

10
Biện chứng duy vật
thì không có khả năng hoặc tiền đề để cho bất cứ sự phát triển nào. Tuy
nhiên, không phải vận động nào cũng đưa tới sự phát triển. Trong thực tế
có những vận động thụt lùi, kìm hãm tiến bộ. Chỉ có các vận động theo

chiều hướng tiến lên, đưa sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ mới là
sự phát triển. Không có cái mới xuất hiện thì không có sự phát triển. Cái
mới bao hàm trong nó cái tiến bộ, cái tích cực, sau khi đã loại bỏ cái tiêu
cực, cái lạc hậu của cái cũ. Cái mới là một chất lượng khác, mới trong sự
phát triển của sự vật. Nó tổng hợp sự phát triển của sự vật trước đó thành
một giai đoạn cao hơn.
Phát triển là quá trình khách quan của thế giới. Nó không chỉ phụ
thuộc vào ý thức, ý chí con người mà còn qui định ý thức con người.
Phát triển còn là quá trình phổ biến của thế giới, đồng thời là quá trình
mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới có quá trình phát
triển và biểu hiện sự phát triển khác nhau.
Phát triển còn là quá trình thống nhất giữa tính tất yếu và tính đa dạng.
Khuynh hướng chung, tất yếu của thế giới là quá trình vận động đi lên từ
thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp đưa đến sự xuất hiện của cái mới
thay thế cho cái cũ. Phát triển là một quá trình quanh co, phức tạp, bao hàm
cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, bao hàm cả những bước hụt lùi tạm
thời, những sự vận động đi chệch, một quá trình dường như lặp lại cái cũ
nhưng ở một trình độ cao hơn. Do đó phát triển được diễn đạt như một
đường xoắn ốc đi từ thấp lên cao của thế giới khách quan.
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển.
Cần xuất phát từ quá trình phát triển khách quan của sự vật để nhận
thức, tác động lên nó. Phát triển là quá trình tất yếu khách quan cho nên
phải có quan điểm phát triển trong nhận thức thì mới phản ánh, nắm bắt
đúng đắn, kịp thời những thay đổi của sự vật, hiện tượng đề từ đó đề ra
những giải pháp tác động cải biến sự vật một cách phù hợp. Phát triển là
quá trình bao hàm những mâu thuẫn có cả những bước thụt lùi tất nhiên,

11
Biện chứng duy vật
không tránh khỏi, do đó cần phải lường trước và biết chấp nhận những thất

bại tạm thời để chuẩn bị cho những bước tiếp theo nhằm đạt được mục đích
cuối cùng trong hoạt động.
III. Những qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
1. Qui luật mâu thuẫn.
Mâu thuẫn và mặt đối lập thường được dùng như những khái niệm
đồng nghĩa. Nhưng hiểu cho đúng hơn thì mâu thuẫn là mối quan hệ giữa
các mặt đối lập, còn mặt đối lập là mỗi mặt hợp thành của mâu thuẫn. Mỗi
mặt đó hợp thành từ nhiều thuộc tính, nhiều khuynh hướng khác nhau.
Trong thực tế không phải mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn,
chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau thành một chỉnh thể, tác động
qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn. Khái niệm khác nhau chỉ là một
trong những hình thức biểu hiện một giai đoạn phát triển của mâu thuẫn.
Tuy nhiên không chỉ có sự khác nhau biến thành đối lập, thành mâu thuẫn
mà còn có cả quá trình những mặt đối lập, mâu thuẫn biến thành sự khác
nhau.
Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ sự loại trừ loại bỏ lẫn
nhau, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Đấu tranh xuất hiện mâu
thuẫn phát triển cao, đưa đến sự xuất hiện cái mới. Đấu tranh là phương
thức tất yếu để giải quyết mâu thuẫn.
Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập chỉ sự liên hệ ràng buộc, qui
định lẫn nhau giữa các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại
cho mình.
Trong qui luật mâu thuẫn, khái niệm thống nhất và đồng nhất dùng
như những khái niệm đồng nghĩa. Lê nin nói về điều này như sau: "Sự
đồng nghĩa giữa các mặt đối lập (sự thống nhất của chúng nói như vậy có lẽ
đúng hơn? Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ thống nhất và đồng nhất
không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó thì cả hai đều đúng), đó là

12
Biện chứng duy vật

sự thừa nhận (sự tìm ra), những khuynh hướng mâu thuẫn bài trừ lẫn nhau,
đối lập trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của giới tự nhiên (kể cả
tinh thần và xã hội).
Chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm của mâu thuẫn như sau:
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong các sự vật, hiện tượng. Nó không
những tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà còn
qui định cả ý thức, ý chí con người.
Mâu thuẫn mang tính phổ biến. Mâu thuẫn có trong sự vật, hiện tượng
của thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội, lẫn tư duy con người. Mâu thuẫn
có trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự
vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật quá trình của thế giới khách
quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác
mâu thuẫn trong xã hội, khác mâu thuẫn trong tư duy. Bản thân mọi quá
trình khác nhau trong tự nhiên, xã hội, tư duy lại có những mâu thuẫn khác
nhau.
Có một số loại mâu thuẫn:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn của các mặt đối lập bên trong sự
vật còn mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật khác nhau
Mâu thuẫn bên trong quyết định mâu thuẫn bên ngoài và là nguồn gốc
bên trong của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn
bên ngoài tác động đến sự phát triển của sự vật phải thông qua mâu thuẫn
bên trong.
Sự vật nào cũng có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Phân biệt mâu thuẫn bên trong và bên ngoài mang tính tương đối.
Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản:

13
Biện chứng duy vật

Mâu thuẫn cơ bản qui định bản chất của sự vật, nó quyết định sự tồn
tại, phát triển của sự vật từ khi hình thành cho đến khi biến đổi thành sự vật
khác.
Mâu thuẫn không cơ bản được tạo thành từ những mặt đối lập không
cơ bản của sự vật, nó qui định bản chất của sự vật và bị qui định mâu thuẫn
cơ bản. Phân biệt mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính tương
đối.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật và quyết định sự phát triển của sự vật tại giai
đoạn đó và chi phối các mâu thuẫn khác.
Thông thường, mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu hiện cụ thể của
mâu thuẫn cơ bản trong giai đoạn nhất định của sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không quyết định sự phát triển của sự
vật tại thời điểm, giai đoạn nào đó, nó tác động phụ thuộc vào mâu thuẫn
chủ yếu.
Phân biệt mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu có tính tương đối.
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
Đây là những loại mâu thuẫn chỉ có trong xã hội. Mâu thuẫn đối kháng
là mâu thuẫn giữa những giai cấp xuất khẩu có lợi ích căn bản đối lập nhau,
không thể điều hoà được. Mâu thuẫn này phát triển theo xu hướng ngày
càng gay gắt hơn và đòi được giải quyết bằng bạo lực cách mạng của giai
cấp bị thống trị chống lại bạo lực của giai cấp thống trị đã lỗi thời, phản
động.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, giai
cáp xã hội không đối lập nhau về lợi ích căn bản. Mâu thuẫn này phát triển
theo xu hướng ngày càng dịu đi. Cách giải quyết mâu thuẫn này là bằng
con đường hoà bình, giáo dục, thuyết phục, phê và tự phê bình.

14

Biện chứng duy vật
Cả hai mâu thuẫn này đều được giải quyết bằng con đường đấu tranh
giữa các mặt đối lập, chứ không phải là điều hoà giữa các mặt đối lập.
Ý nghĩa phương pháp luận của qui luật mâu thuẫn.
Tôn trọng tính khách quan của qui luật. Nghĩa là trong hoạt động thực
tiễn và nhận thức qui luật phải xuất phát từ sự tồn tại thực tế của qui luật
mâu thuẫn để nhận thức và vận dụng nó, chứ không được xuất phát từ
mong muốn, của nhận thức của chúng ta về mâu thuẫn.
Muốn tìm hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển
của sự vật thì phải tìm ra, phải căn cứ vào mâu thuẫn của sự vật.
Mâu thuẫn là quá trình, do đó phải nhận thức và vận dụng qui luật
mâu thuẫn trong quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, tuỳ theo mỗi giai
đoạn phát triển của mâu thuẫn mà có những cách tác động lên mâu thuẫn
khác nhau.
Phải có quan điểm phân loại mâu thuẫn trong nhận thức và vận dung
nó.
Mọi mâu thuẫn dứt khoát phải được giải quyết thông qua con đường
đấu tranh giữa các mặt đối lập, tránh khuynh hướng thủ tiêu mâu thuẫn hay
điều hoà mâu thuẫn dưới hình thức này hay khác.
2. Qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngược lại hay còn gọi là qui luật lượng chất.
Qui luật lượng chất vạch ra phương thức hay cách thức của sự vận
động phát triển của thế giới.
Chúng ta hãy xem xét qua một số khái niệm. Trước hết đó là khái
niệm chất, có thể hiểu chất là tính qui định vốn có của sự vật, hiện tượng, là
sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, yếu tố cấu thành từ sự vật, nói
lên sự vật đó là gì và phân biệt nó với các sự vật hiện tượng khác.

15
Biện chứng duy vật

Lượng là tính qui định của sự vật và hiện tượng về mặt qui mô, trình
độ phát triển của nó, biểu thị bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu
thành nó.
Giữa lượng và chất có sự thống nhất: Lượng và chất là hai mặt cấu
thành của cùng một sự vật hiện tượng, không có lượng tồn tại tách rời với
chất và ngược lại. Lượng và chất là hai mặt mâu thuẫn của cùng một sự vật,
lượng thường xuyên biến đổi còn chất có xu hướng ổn định, bền vững hơn.
Lượng và chất tồn tại, tác động qua lại với nhau trong suốt quá trình tồn tại,
phát triển của sự vật.
Khái niệm độ chỉ giới hạn mà trong những thay đổi về lượng chưa làm
cho chất của sự vật thay đổi, sự vật vẫn là nó chưa biến thành sự vật khác.
Từ thời điểm mà sự vật diễn ra những thay đổi về chất cho đến khi nó
chuyển hoàn toàn thành chất mới là quá trình mà người ta gọi là bước nhảy.
Tại thời điểm mà sự vật biến đổi thành sự vật khác, chất cũ hoàn toàn
thay thế bằng chất mới, ta gọi là điểm nút trong sự phát triển của sự vật.
Trong các hình thức của bước nhảy, có thể phân loại như sau: Bước
nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận, bước nhảy nhanh và bước nhảy chậm,
bước nhảy lớn và bước nhảy nhỏ.
Ý nghĩa phương pháp luận của qui luật.
Để giữ cho sự phát triển tương đối ổn định trong một chất xác định thì
phải giữ vững sự thống nhất của chúng trong độ, sao cho những thay đổi về
lượng ở đó không dẫn đến những thay đổi về chất.
Muốn đạt được sự thay đổi về chất của sự vật thì phải thực hiện những
biến đổi dần dần về lượng, tránh khuynh hướng xem thường những biến
đổi về lượng để thực hiện ngay những biến đổi về chất (tả khuynh).
Tuỳ theo tính chất cụ thể của những hình thức tác động biểu hiện của
qui luật mà có những phương thức, biện pháp tác động, vận dụng chúng
thích hợp.

16

Biện chứng duy vật
3. Qui luật phủ định.
Có thể nói phủ định là quá trình hình thành và phát triển cái mới trên
cơ sở loại bỏ những cái lạc hậu, cái tiêu cực trong cái cũ, giữ lại toàn bộ,
cái tích cực trong nó và đem vào trong thành phần của cái mới sau khi đã
cải biến.
Quan điểm trên là quan điểm về phủ định biện chứng. Nó đối lập với
phủ định siêu hình là quá trình loại bỏ, tách rời cái cũ khỏi cái mới.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phủ định chỉ rõ, phủ
định biện chứng chỉ ra sự nảy sinh cái mới trong lòng cái cũ, bắt nguồn từ
cái cũ. Ở đây phủ định là sự gián đoạn trong sự phát triển liên tục của sự
vật. Nhờ những giai đoạn này, mà sự vật đạt được những trạng thái chất
lượng mới trong sự tồn tại, phát triển của chúng.
Phủ định biện chứng là quá trình nhiều mặt, không những phủ định về
lượng mà còn về chất, bộ phận và toàn bộ, phủ định bao hàm cả khẳng
định. Phủ định biện chứng là sự tự phủ định do mâu thuẫn bên trong của sự
vật qui định, chứ không phải là quá trình đem từ ngoài vào sự vật. Phủ định
là một phương thức mới, một thành tố tất yếu của quá trình phát triển. Sự
vật mới, yếu tố mới, hình thành phát triển nhất định phải phủ định sự vật và
yếu tố cũ. Không có phủ định thì không có bất cứ quá trình phát triển nào.
Khái niệm phủ định của phủ định: Phủ định của phủ định là khái niệm
chỉ quá trình phát triển của sự vật từ thấp lên cao được thực hiện bằng hai
lần phủ định cơ bản, nhờ đó sự vật mới hình thành.
Trong thực tế, phủ định của phủ định là một chuỗi những phủ định.
Mỗi phủ định đều bao hàm khẳng định. Phủ định cho ta thấy tính chất lặp
lại trong quá trình phát triển của sự vật. Sau lần phủ định thứ hai sự vật
dường như trở lại cái ban đầu.
Nhưng thực tế sự quay trở lại đó đã ở trên một trình độ cao hơn về
chất so với ban đầu của nó. Phủ định nối tiếp nhau theo những chu kỳ tạo
thành đường xoắn ốc.


17
Biện chứng duy vật
Trong thế giới khách quan, phủ định của phủ định là quá trình đa
dạng, phong phú, cũng đồng thời là quá trình khách quan, tất yếu không
phụ thuộc vào ý thức ý muốn của con người. Phủ định của phủ định là quá
trình phổ biến trong tự nhiên, xã hội và cả tư duy con người.
Ý nghĩa phương pháp luận của qui luật.
Nhận thức và tác động vào qui luật phủ định của phủ định theo quan
điểm biện chứng có nghĩa là: Nắm vững quan điểm kế thừa trong sự phát
triển, vận dụng qui luật này theo nguyên tắc đi từ phủ định bộ phận đến phủ
định toàn bộ, căn cứ vào chu kỳ phát triển của sự vật thể hiện qua phủ định
của phủ định để nhận thức xu thế tất yếu của nó, nắm vững mối liên hệ của
cái nhất thời, cái bộ phận với cái liên tục, cái chung và cái toàn vẹn trong
quá trình phủ định biện chứng.
Tóm lại, quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật phủ định
của phủ định đều là những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Chúng đều phản ánh những mối liên hệ căn bản phổ biến và lặp đi lặp lại
trong thế giới khách quan, qui định những mặt khác nhau trong sự tồn tại
và phát triển của sự vật, trong đó quy luật mâu thuẫn được coi là quy luật
cơ bản nhất, quyết định những quy luật khác và nó được gọi là hạt nhân của
phép biện chứng.
IV. Những cặp phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật.
Phạm trù là khái niệm cơ bản của khoa học, phản ánh các mối liên hệ
chung, cơ bản của các sự vật, hiện tượng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng có
một số cặp phạm trù sau:
Cái chung và cái riêng:
Cái riêng là phạm trù triết học chỉ từng sự vật, hiện tượng, quá trình
phát triển trong thế giới khách quan. Cái chung là phạm trù triết học chỉ
những thuộc tính, những mặt hoặc những mối liên hệ nhất định lặp lại,

giống ở nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau. Cái đơn nhất là

18
Biện chứng duy vật
phạm trù chỉ những thuộc tính, hay yếu tố nào đó của sự vật nhất định,
không tồn tại lặp lại trong các sự vật khác. Giữa cái riêng và cái chung có
mối liên hệ thống nhất với nhau. Tuy nhiên giữa chúng cũng có sự đối lập,
cái riêng là bộ phận còn cái chung là toàn thể. Cái chung, cái riêng, cái đơn
nhất có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Chúng ta phải thấy được vai trò quan trọng, quyết định của cái chung
trong sự thiết lập hệ thống các sự vật, thấy được tính phong phú, toàn thể
của cái riêng trong sự tồn tại tất yếu của sự vật. Cái đơn nhất thể hiện tính
khác biệt của cái riêng này và cái riêng khác.
Nguyên nhân và kết quả.
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố của sự
vật hay các sự vật với nhau trong điều kiện nào đó, thì gây ra sự biến đổi
này hay khác của sự vật. Kết quả là sự biến đổi do tác động lẫn nhau của
các yếu tố, các mặt hay các sự vật khác nhau gây nên. Quan hệ nhân quả
tồn tại, tác động khách quan, phổ biến và đa dạng trong thế giới. Giữa
nguyên nhân và kết quả có một số mối quan hệ: nguyên nhân và kết quả là
hai mặt của quá trình thống nhất, giữa nguyên nhân và kết quả cũng có sự
đối lập, nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong nguyên
nhân lại gồm một số loại nguyên nhân: nguyên nhân bên trong và nguyên
nhân bên ngoài, nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản, nguyên
nhân thứ yếu và nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân chủ quan và nguyên
nhân khách quan. Chúng ta tôn trọng tính khách quan của quan hệ nhân
quả. Muốn hiểu nguyên nhân thì phải thông qua kết quả. Phải có quan điểm
phân loại nguyên nhân mới thấy rõ vai trò của mỗi nguyên nhân trong việc
quyết định kết quả. Muốn khắc phục triệt để hậu quả phải khắc phục từ
nguyên nhân. Đó chính là ý nghĩa của phương pháp luận của quan hệ nhân

quả.
Bản chất và hiện tượng.

19
Biện chứng duy vật
Bản chất là tổng hợp những mối liên hệ bên trong tất nhiên tương đối
ổn định của sự vật và qui định sự tồn tại, phát triển của sự vật. Hiện tượng
là những cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. Giữa bản chất và hiện
tượng có sự thống nhất, bản chất là cái quyết định hiện tượng, không có
bản chất thì không có hiện tượng, hiện tượng chỉ là biểu hiện của bản chất.
Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi. Bản chất và hiện tượng còn
có cái đối lập, bản chất trong ổn định, tất yếu. Hiện tượng là cái bề ngoài,
cái tạm thời, ngẫu nhiên. Ta cần lưu ý, nhận thức bản chất của sự vật pải
thông qua các hiện tượng. Để giải thích đúng mỗi hiện tượng lại phải dựa
vào hiểu biết bản chất của chúng. Muốn có sự thay đổi về chất của sự vật
thì phải làm thay đổi liên hệ cơ bản của chúng.
Nội dung và hình thức.
Nội dung là toàn bộ những yếu tố, những thuộc tính, những mặt,
những quá trình khác nhau tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức là cách
thức hay phương thức tổ chức của nội dung (hay là sự liên kết sắp xếp các
yếu tố, thuộc tính, các quá trình khác nhau của sự vật theo một phương
thức hay cách thức nào đó). Giữa nội dung và hình thức có sự thống nhất,
nội dung và hình thức là hai mặt không tách rời nhau của sự vật, hiện
tượng. Không có nội dung, không có hình thức và ngược lại. Tuy nhiên, có
một sự đối lập giữa nội dung và hình thức, nội dung quyết định hình thức,
hình thức tác động lên nội dung nhưng không quyết định đối với sự tồn tại,
phát triển của sự vật. Nội dung và hình thức có thể chuyển hoá cho nhau,
giữa chúng không có ranh giới tuyết đối. Qua đó, chúng ta nhận thấy muốn
thay đổi sự vật thì phải biến đổi trước hết các yếu tố của nó. Trong tổ chức
hoạt động của con người, cần phải chuẩn bị trước hết các nhân tố, yếu tố

tích cực cho việc thiết lập những tổ chức mới.
Tất nhiên và ngẫu nhiên.
Tất nhiên là cái xảy ra do nguyên nhân bên trong cơ bản của sự vật qui
định và trong những điều kiện nhất định, nó nhất định phải xảy ra đúng như

20
Biện chứng duy vật
thể không khác được. Ngẫu nhiên là cái xảy ra do nguyên nhân bên trong
của sự vật qui định. Cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên tồn tại khách quan, phổ
biến và đa dạng trong các sự vật hiện tượng. Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
có một sự thống nhất, tất nhiên chỉ có thể xem xét trong mối quan hệ với
cái ngẫu nhiên và ngược lại. Không có tất nhiên thì không có ngẫu nhiên và
ngược lại cũng như thế.
Muốn nhận thức cái ngẫu nhiên phải chỉ ra nguyên nhân bên trong cơ
bản qui định nó, đối với cái ngẫu nhiên thì giải thích từ nguyên nhân bên
ngoài. Nhận thức tất nhiên giúp ta khắc phục hậu quả từ nguồn gốc, từ
nguyên nhân của nó.
Khả năng và hiện thực.
Khả năng là những tiền đề phát sinh của cái mới bên trong cái cũ, là
những mầm mống, khuynh hướng phát triển khách quan trong các sự vật.
Hiện thực là sự xuất hiện của những sự vật, quá trình mới hay là khả năng
đã thành hiện thực. Khả năng và hiện thực là hai giai đoạn của một quá
trình thống nhất trong sự phát triển của sự vật. Không có khả năng thì
không có hiện thực và ngược lại. Khả năng nào thì có hiện thực đó, không
có khả năng cho mọi hiện thực và hiện thực cho mọi khả năng. Khả năng
và hiện thực khác nhau về bản chất, khả năng là cái có trước và hiện thực là
cái có sau. Khả năng qui định hiện thực còn hiện thực phụ thuộc vào khả
năng. Giữa khả năng và hiện thực có thể chuyển hoá lẫn nhau.

21

Biện chứng duy vật
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với qui luật phát
triển của nhận thức. Đây là một triết học toàn diện nhất, sâu sắc nhất và
triệt để nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Với bản
chất khoa học cách mạng.
Phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ
thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có
hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói chung. Vận
dụng trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là phép biện
chứng duy vật là vấn đề nguyên tắc đối với tất cả các Đảng Cộng Sản và
phong trào công nhân quốc tế, trong đó có Việt Nam. Thực tiễn chứng
minh rằng, trải qua những bước khác nhau trong mọi hoàn cảnh, phép biện
chứng duy vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ loài người, luôn có ý nghĩa
thực tiễn hết sức to lớn. Thực tiễn cũng luôn xảy ra các vấn đề hết sức phức
tạp của từng nước, từng quốc gia, dân tộc và đặc điểm văn hoá, kinh tế, xã
hội …
Ngày nay, việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dưới sự xuyên tạc của
những kẻ thù tư tưởng của nó, cũng như việc thường xuyên nghiên cứu,
phát triển, hoàn thiện nó đều hết sức quan trọng. Muốn bảo vệ trước hết
phải phân tích, muốn phát triển phải bảo vệ bản chất khoa học cách mạng
của phép biện chứng duy vật. Thực tế khẳng định rằng, việc đó không chỉ
là vấn đề thuần tuý lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc,
nóng bỏng hiện nay.

22
Biện chứng duy vật
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A/ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
B/ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.

C/ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 - NXB Sự
thật Hà Nội 1991 - Trang 12.
D/ Tạp chí triết học, số 1 (101), tháng 2 - 1998.
Đ/ Triết học Mác - Lênin - NXB Chính trị quốc gia.

23

×