Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Bản thu hoạch thực tập sư phạm 2010 Nguyên phát"full"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.21 KB, 46 trang )

Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay khi nhân loại đang ở giai đoạn đầu của thế kỷ XXI, đây là thời
đại của nhân văn, công nghệ mới, quyền lực của trí tuệ với khoa học và
công nghệ phát triển, có khả năng giải quyết tốt đẹp các vấn đề toàn cầu hơn
xưa. Đồng thời cũng đặt ra cho con người những yêu cầu cao hơn. Nằm
trong bối cảnh chung đó Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ công nghiệp
hoá - hiện đại hoá xây dựng đất nước hoà bình độc lập tự do, thống nhất,
giàu đẹp phồn vinh Vì vậy chúng ta cần những con người không chỉ có
trình độ cao về mặt phát triển trí tuệ mà phải có khả năng linh hoạt, nhạy
bén
Trước những thời cơ và thách thức đó bản thân mỗi người chúng ta cần
làm gì đây? Và làm như thế nào? để có thể hội nhập mà không bị “ loại bỏ”.
Để làm được như vậy bản thân mỗi người cần phải không ngừng nỗ lực học
tập, phấn đấu, phải năng động và linh hoạt, nhạy bén trước các vấn đề của
cuộc sống xã hội. Điều đó chỉ có thể làm được khi nó được xuất phát từ
chính dộng cơ bên trong của mỗi người.
Động cơ kích thích con người ham học hỏi, nó không chỉ thúc đẩy con
người hoàn thiện nhiệm vụ được giao mà còn giúp cá nhân mở rộng kiến
thức, tìm tòi sáng tạo những cái mới phục vụ cuộc sống. Động cơ ở đây
không phải là cái gì trừu tượng ở bên trong cá thể mà nó chính là quá trình
những nhu cầu, mong muốn kích thích con người hoạt động, định hướng
cho con người hành động để đạt được mục đích. Có động cơ học tập đúng
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
1
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
đắn sẽ giúp người học học tập tích cực hơn và vượt qua được khó khăn để
kiên định theo hướng mình đã chọn.
Học sinh - sinh viên chính là những thế hệ trẻ, những nguồn lao động
cần thiết của xã hội. Sẽ là những người làm cho xã hội phát triển hay thụt


lùi. Do đó chính bản thân họ phải ý thức được điều đó và có những hành
động đúng trong học tập, trong các vấn đề của cuộc sống, hay đúng hơn học
cần có động cơ học tập đúng đắn ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Ngày nay phần lớn nhiều học sinh đã có những thái độ học tập tích cực.
Nhưng không phải người nào cũng xuất phát từ động cơ bên trong mà phần
đa là chịu yếu tố tác động từ các yếu tố động cơ bên ngoài: Gia đình, bạn
bè, nhiệm vụ học tập Những động cơ này rất dễ làm cá nhân thất vọng,
thậm chí là sụp đổ khi yêu cầu không được đáp ứng. Ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả và chất lượng giáo dục đào tạo. Mặt khác vẫn có một bộ phận học
sinh chưa có nhận thức đúng đắn về động cơ học tập của mình, bản thân
chưa tích cực trong học tập làm cho kết quả học tập không cao.
Như vậy động cơ học tập có vai trò rất quan trọng. Nhận thức được tầm
quan trọng của động cơ học tập đối với người học và mong muốn đề xuất
một số biện pháp nhằm xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho người học
nên tôi quyết định chọn vấn đề: “ Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh lớp
7A Trường THCS Hoàng Xuân Hãn, làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu động cơ học tập của học sinh lớp 7A Trường THCS Hoàng
Xuân Hãn. Trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến cũng như một số biện pháp
tác động nhằm nâng cao mức độ động cơ học tập đúng đắn cho học sinh .
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
2
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Học sinh lớp 7A Trường THCS Hoàng Xuân Hãn.
3. 2. Đối tượng nghiên cứu:
Mức độ động cơ học tập của Học sinh lớp 7A Trường THCS
Hoàng Xuân Hãn.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

4.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
4.2. Khảo sát thực trạng động cơ học tập của Học sinh lớp 7A Trường
THCS Hoàng Xuân Hãn.
4.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao mức độ động cơ
học tập cho học sinh .
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Có nhiều động cơ khác nhau thúc đẩy học sinh học tập. Hiện nay học
sinh lớp 7A Trường THCS Hoàng Xuân Hãn, đã có nhiều tích cực trong học
tập, tuy nhiên do nhiều yếu tố bên ngoài và bên trong chủ thể nên động cơ
học tập của học sinh chưa cao. Nếu đánh giá đúng thực trạng học tập, tìm ra
được những nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập thì
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
3
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
có thể tìm ra các biện pháp nhằm tác động, hình thành và giáo dục được phù
hợp giúp học sinh tích cực học tập và rèn luyện.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Thu thập, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá tài liệu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra bằng ankét
-Phương pháp trò chuyện
-Phương pháp quan sát
-Phương pháp sử dụng ý kiến chuyên gia
- Phương pháp thống kê toán học.
7. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
7.1. Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp 7A Trường THCS Hoàng Xuân Hãn.
7.2. Thời gian nghiên cứu:
Học kỳ II từ ngày 01/03/2010 – 10/04/2010.

Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
4
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SƠ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Động cơ là một hiện tượng tâm lý phức tạp, đa dạng trong đời sống con
người. Từ lâu vấn đề này đã được tác giả cũng như các nhà tâm lý học quan
tâm, nghiên cứu. Mục đích của việc nghiên cứu này là hoàn thiện hệ thống
động cơ nói chung, mặt khác đi vào phân tích các động cơ cụ thể, trong đó
có động cơ học tâp.
1.1.1. Nghiên cứu động cơ học tập ở trên thế giới:
Động cơ học tập có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập, vì vậy
được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu. ( ở đây chúng tôi chỉ đưa ra các
quan niệm của các nhà tâm lý học Liên Xô).
Theo sự nghiên cứu của các nhà tâm lý học Mác - xít được giải quyết
trên cơ sở triết học mác Lênin, xuất phát từ quan điểm bản chất của con
người " Bản chất của con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội". ( Nguyễn Quang Uẩn – Tâm lý học đại
cương), [ 8 ]. Vì vậy muốn hiểu được tâm lý con người, động cơ hoạt động
của họ trước hết phải xuất phát từ cuộc sống thực của người đó, con nguời
sống và hoạt động trong những điều kiện xã hội cụ thể, với những quan hệ
xã hội tự nhiên mà ở đó ý thức và tâm lý con người hình thành và phát triển.
Chính điều này làm cơ sở đề ra bản chất xã hội của động cơ hoạt động của
mỗi cá nhân.
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
5
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
Theo các Mác - Ăng ghen, cái thúc đẩy kích thích con người hoạt động

không phải là nhận thức, ý thức hay tư duy mà là nhu cầu. Để tồn tại và phát
triển con người cần được thỏa mãn hay đáp ứng các nhu cầu. Chính nhu cầu
được phả ánh vào trong đầu óc của con người và được con người ý thức về
nó trở thành cái thúc đẩy con người hoạt động.
Với sự ra đời của tâm lý học Mác - xít thì vấn đề động cơ hoạt động của
con người mới có cơ sở lý luận để làm sáng tỏ. Các nhà Tâm Lý học Xô
viết xác định việc nghiên cứu động cơ là một trong những vấn đề trọng tâm
của việc nghiên cứu tâm lý con người. Đại diện cho dòng phái này là:
Vưgôtky, A.N. Leonchiew, L.Xruibinstein, và các nhà tâm lý học khác:
P.A Ruđic, V.A. Canchetxki
- A.N. Leonchiev cũng đã nêu lên “cấu trúc của hoạt động”, cùng tác
phẩm “Hoạt động - Ý thức- nhân cách”. Ông cho rằng động cơ là thành phần
tất yếu trong cấu trúc của hoạt động, có tác dụng kích thích hoạt động,
không có hoạt động nào không có động cơ, hoạt động không có động cơ
không phải hoạt động thiếu động cơ mà là hoạt động với động cơ có ẩn dấu
về mặt khách quan và chủ quan. [ 9 ]
- X.L. Rubinstêin khi nghiên cứu về động cơ đã có những nhận xét rằng
động cơ là yếu tố thúc đẩy và định hướng các nhận tích cực tham gia vào các
quá trình xã hội khác nhau, làm cho nhu cầu có khuynh hướng năng động có
nghĩa là thể hiện mặt hoạt động của nó.
Rubinstêin đã xây dựng những luận điểm chung về động cơ hoạt động
thông qua việc phân tích những dạng hoạt động cụ thể. Ông cho rằng những
động cơ của con người được tạo ra từ nhu cầu, hứng thú và được hình thành
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
6
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
ở con người trong quá trình sống và động cơ là sự quy định chủ quan hành
vi của con người bởi thế giới. Sự quy định này được thực hiện giao tiếp bằng
quá trình phản ánh thế giới. Thông qua hoạt động của mình con người liên
kết với bối cảnh của hiện thực. Động cơ xác định cốt cách chân chính của

con người. Ông chia động cơ thành hai khuynh hướng : động cơ nghĩa vụ,
động cơ ham thích.( Nguyễn Thị Thìn, 2004), [ 7 ].
1.1.2. Nghiên cứu động cơ học tập ở Việt Nam:
Nghiên cứu về động cơ học tập hai tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành
Nghị đã viết trong cuốn “Tâm lý học sư phạm Đại học” đã nêu rõ: Động cơ
là các thúc đẩy con người hoạt động đạt được mục đích nhất định, động cơ
học tập là hiện tượng, sự vật trở thành các kích thích người sinh viên đạt
được kết quả nhận thức và hình thành phát triển nhân cách. [ 5 ].
Lê Văn Hồng tác giả cuốn “Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm” đã cho
rằng: động cơ học tập của học sinh được hiện thân ở đối tượng của hoạt
động học. Tức là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, chuẩn mực…mà
nhà giáo dục đưa lại cho họ.
- Thạc sĩ Nguyễn Văn Bắc với bài viết :“Bàn về mô hình động cơ của
hoạt động học tập ở bậc Đại học”, Tác giả đã đưa ra các mô hình động cơ
học tập nhưng cần chọn mô hình nào phù hợp để học tập đạt hiệu quả cao.
Tác giả Đặng Thị Lan với nghiên cứu về " động cơ học tập ngoại ngữ -
yếu tố thúc đẩy sự phát triển nhận thức của sinh viên". Tác giả cho rằng
động cơ học tập của sinh viên kích thích sinh viên học tập nhằm lĩnh hội tri
thức, tay nghề chuyên môn và thể hiện quan hệ, thái độ của mình đối với xã
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
7
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
hội, con người và với bản thân. Có hai nhóm động cơ: Hoạt động học tập nói
chung và học tập ngoại ngữ nói riêng, nhóm động cơ công việc ( động cơ
học tập và động cơ công việc) và nhóm động cơ quan hệ ( động cơ xã hội và
động cơ cá nhân).
Nghiên cứu về "đông cơ học tập của sinh viên" tác giả Nguyễn Hồi
Loan đã cho rằng động cơ học tập ở sinh viên thường xuyên thúc đẩy kích
thích động cơ hoạt động, niềm say mê học tập đối với những tri thức cũng
như phương pháp khám phá ra chúng hoặc vì muốn có một vị thế, uy tín

trong tập thể, xã hội. Tác giả chia động cơ học tập thành 4 loại : động cơ
nhận thức khoa học, động cơ xã hội, động cơ cá nhân, động cơ nghề nghiệp.
Nhìn chung các tác giả trên đều cho rằng, động cơ học tập là thành tố
chủ yếu của hoạt động dạy học, là cái mà vì nó học sinh tích cực tham gia
vào quá trình học tập. Các chương trình nghiên cứu về động cơ học tập được
tiến hành trên phạm vi rộng ở nhiều cấp học, bậc học chủ yếu, chỉ rõ thực
trạng động cơ học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập. Trên cơ
sở đó đề xuất một số những phương hướng giáo dục cho học sinh.
1.2. ĐỘNG CƠ, ĐỘNG CƠ HỌC TẬP, ĐỘNG CƠ HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH THCS.
1.2.1. Khái niệm về động cơ:
Trong lịch Sử Tâm lý học Mac - xit đến nay vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau về động cơ.
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
8
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
Khi bàn về động cơ, mỗi trường phái xuất phát từ những quan điểm,
nhận thức phương pháp khác nhau, do đó quan niệm về động cơ cũng khác
nhau.
- B.PH.Lomov, khi nêu quan niệm về động cơ đã chú ý đến vấn đề nhu
cầu. Ông đã thừa nhận động cơ và nhu cầu có những liên hệ chặt chẽ với nhu
cầu chế định hành vi con người một cách khách quan của nhân cách. Theo
tác giả mối liên hệ giữa nhu cầu và động cơ là không đồng nhất, điều này
làm cho các hình thức của nhu cầu cũng cực kỳ phong phú. Những nhu cầu
giống nhau có thể thực hiện trong những động cơ khác nhau và đằng sau
những động cơ giống nhau. Mặt khác một động cơ có thể biểu hiện của một
và nhu cầu. (Hồ Ngọc Đại, Tâm lý học dạy học, 1993) [ 1]
- X.L Rubinstêin cho rằng: Động cơ được xem là sự quy định về mặt
chủ quan của hành vi con người. Sự quy định này được thực hiện gián tiếp
bằng quá trình phản ánh các hành vi đó. Thông qua động cơ của mình con

người liên hệ với bối cảnh của hiện thực. ( Trần Thị Thìn, 2004 ) [ 7 ].
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về động cơ:
Tác giả Hồ Ngọc Đại khi nghiên cứu về động cơ đã kết luận: Chiếm cái
được cái cụ thể hoá nhu cầu của họ đó là động cơ hoạt động của họ. Đối
tượng là động cơ kích thích của hoạt động. “ động cơ có hai nơi ở bên ngoài
và bên trong tâm lý. Khi nó ở bên trong thì hoạt động lên đối tượng này gọi
là hoạt động ở hình thái bên ngoài, nếu nó ở bên trong thì hoạt động tác
động lên nó là hoạt động bên ngoài. Trong cả hai trường hợp bao giờ cũng
là sự gặp gỡ chủ thể của đối tượng và của hoạt động”. ( Hồ Ngọc Đại, Tâm
lý học dạy học, 1993 ) [ 1 ].
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
9
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
Từ điển “Bách khoa toàn thư”, đã nêu lên rằng: động cơ hoạt động của
con người, nguyên nhân bên trong thôi thúc con người hoạt động để thoả
mãn nhu cầu nào đó.
Trong từ điển Tâm lý ( Nguyễn khắc Viện -chủ biên), đã nêu: Động cơ là
cái gì thôi thúc con người có những ứng xử nhất định. Động cơ thường gắn
liền với nhu cầu, nhu cầu chưa được thoả mãn tạo ra tình trạng căng thẳng,
thôi thúc hoạt động cho đến khi được thoả mãn…
Tóm lại có thể hiểu: Động cơ là những cái được chủ thể phán ánh, trở
thành yếu tố tâm lý thúc đẩy và kích thích con người hoạt động nhằm đạt
được mục đích và thoả mãn các nhu cầu cá nhân.
1.2.2. Khái niệm về động cơ học tập.
Cũng như động cơ nói chung, khi bàn đến động cơ học tập các nhà tâm
lý học trên thế giới và Việt Nam đã đưa ra những quan điểm khác nhau.
L.I.Bozhovic quan niệm : động cơ học tập là cái mà vì nó trẻ học tập
hay nói một cách khác cái kích thích trẻ học tập. ( L.I.Bozovic, 2000) [ 10 ].
A.N.Leonchiev định nghĩa: động cơ học tập của trẻ là sự định hướng
của các em đối với sự lĩnh hội tri thức việc dành điểm tốt và sự khen ngợi

của cha mẹ, giáo viên. Như vậy ông đã coi động cơ học tập là hướng tới đối
tượng hoạt động học tập và các mối liên quan đến việc học.
( A.N.Leonchiev và Econhin, 1973) [ 9 ].
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
10
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
Đào Thị Kim Oanh khẳng định: động cơ học tập là sự vật, hiện tượng
trở thành caí kích thích, thúc đẩy tính tích cực học tập ở học sinh nhằm đạt
kết quả học tập và hình thành, phát triển nhân cách. [ 4 ].
-Theo GS. TSKH Thái Duy Tuyên: Động cơ học tập không những xuất
phát từ nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, mong muốn…mà điều cần chú ý là
động cơ học tập không phải là quá trình tự phát, tự nhiên và phát sinh thầm
lặng. Cần hình thành, phát triển, kích thích động cơ học tập của học sinh
phù hợp với đặc điểm của từng em và điều quan trọng là giúp các em tự
kích thích động cơ học tập cho mình.
Như vậy có thể hiểu là đối tượng học tập được người học phản ánh , trở
thành yếu tố tâm lý phản ánh và thúc đẩy họ tích cực lĩnh hội tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo nhằm phát triển trí tuệ, hình thành và phát triển nhân cách.
Động cơ học tập có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động học tập.
Động cơ học tập tạo cho người học tính tích cực, độc lập, tự giác, sáng tạo
trong học tập, là con đường dẫn đến tài năng, làm phát triển truyền thống
hiếu học “ Lòng hiếu học ra đời và phát triển trong hoạt động học tập được
tổ chưc tích cực, thông minh, sáng tạo và hấp dẫn”. ( Nguyễn Trọng Đệ,
1997) [ 2 ].
1.2.3. Động cơ học tập của học sinh.
1.2.3.1. Đặc điểm hoạt động của học sinh THCS.
Hoạt động học của học sinh cũng có những đặc điểm của hoạt động học
nói chung và những đặc điểm riêng là đòi hỏi tính độc lập trí tuệ, cường độ
hoạt động tâm lý cao, có tốc độ nhịp độ nhanh, sự nỗ lực trí tuệ cao nên căng
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ

11
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
thẳng hơn so với học sinh tiểu học, nhất là trong các kỳ thi. Vì vậy, “dạy học
THCS là dạy những kỹ năng, kỹ xảo, dạy cảm nhận các kiến thức khoa học”.
Trong các loại hoạt động cơ bản của sin viên (hoạt động học tập, hoạt động
xã hội) và hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo.
Đối với học sinh THCS, ngoài những yêu cầu chung thì trong quá trình
học tập còn mang những đặc trưng riêng. Học sinh THCS học tập để chiếm
lĩnh tri thức khoa học và hình thành hệ thống những phẩm chất và năng lực
theo mô hình nhân cách của người học sinh.
Đặc biệt là học sinh THCS ngoài việc học tập để chiếm lĩnh kiến thức
còn phải học tập về quy cách ứng xử, các kỹ năng giao tiếp với học sinh, bạn
đồng nghiệp…nhu cầu học tập của sinh viên sư phạm là một dạng đặc biệt
của nhu cầu học tập, mang tính nghề nghiệp. Đó là đòi hỏi kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo, để đáp ứng yêu cầu của nghề sư phạm.
1.2.3.2. Động cơ học tập của sinh viên.
Theo tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị trong Tâm lý học sư
phạm, 1993: “Động cơ học tập là những hiện tượng, sự vật trở thành cái kích
thích người học đạt được kết quả nhận thức và hình thành phát triển nhân
cách”.
Dựa vào mục đích học tập, Nguyễn Thạc chia đối tưọng học tập của sinh
viên thành 5 loại:
- Những động cơ xã hội: Thể hiện ý thức về các nhu cầu, các quyền lợi,
các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
12
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
- Những động cơ nhận thức khoa học: Biểu hiện thái độ của sinh viên
đối với chính quá trình nhận thức nội dung của vấn đề cần nghiên cứu.
- Những động cơ nghề nghiệp: Bộc lộ trình độ học vấn cao được xem là

cơ sở nghề nghiệp .
- Những động cơ tự khẳng định mình: Là ý thức về năng lực của mình
và mong muốn thể hiện khả năng học tập.
- Những động cơ vụ lợi hay động cơ trội về cái có lợi cho riêng cá nhân.
Trong đó động cơ nhận thức khoa học chiếm vị trí thứ nhất, tiếp đến là
động cơ nghề, động cơ xã hội, động cơ tự khẳng định và cuối cùng là động
cơ vụ lợi. [ 7 ].
Căn cứ vào mối liên quan với hoạt động học tập của sinh viên sư phạm,
tác giả Trương Thị Thìn (2004) chia động cơ học tập thành hai nhóm:
Động cơ liên quan trực tiếp đến động cơ học tập, học nghề là những cái
thoả mãn nhu cầu nhận thức, học nghề kích thích chủ thể tích cựchọc tập
nhằm tới mục đích học tập. Nhóm động cơ nay gồm: các động cơ nhận thức,
các động cơ nghề sư phạm, các động cơ cảm xúc với quá trình học tập…
Động cơ không liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, học nghề là
những cái thoả mãn nhu cầu quan hệ làm cho sinh viên tích cực học tập
nhằm tới mục đích không liên quan trực tiếp đến mục đích học tập. Nhóm
động cơ học tập nay gồm: Động cơ xã hội, động cơ quan hệ cha mẹ, người
thân, bạn bè….
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
13
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
Trên cơ sở những cách phân loại trên chúng ta có thể chia động cơ học
tập của sinh viên sư phạm thành:
- Động cơ nhận thức : Đó là sự tiếp thu tri thức, khả năng để hiểu
biết nhiều.
- Động cơ cảm xúc: Là sự lôi cuốn của tài liệu học tập.
- Động cơ nghề sư phạm: Học tập để chuẩn bị cho nghề nghiệp
tương lai.
- Động cơ tự khẳng định: Ý thức về năng lực và muốn khẳng định
mình, có khả - năng học tập của mình.

- Động cơ nghĩa vụ: Thể hiện ở việc học tập một cách tự giác, đầu đủ
yêu cầu học tập.
- Động cơ uy tín: Học tập để được mọi người tôn trọng tín nhiệm.
- Động cơ vật chất: Học tập để được học bổng, có việc làm thu nhập
cao.
- Động cơ cá nhân: Thể hiện ở sự có lợi cho riêng mình.
- Động cơ quan hệ: Thể hiện trong các mối quan hệ với cha mẹ,
người thân, thầy cô giáo, bạn bè
Mỗi cách phân loại đều có căn cứ nhất định, phản ánh các biểu hiện khác
nhau của động cơ học tập, phục vụ cho việc khai thác ở các mức độ khác
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
14
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
nhau trong quan hệ của các yếu tố học tập với động cơ và với đặc điểm hoạt
động học tập ở từng giai đoạn, thời kỳ lứa tuổi.
1.2.3.3. Cấu trúc tâm lý của động cơ học tập
* Nhu cầu học tập:
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để
tồn tại và phát triển .
Theo quan điểm của tâm lý học Mác xít, nhu cầu là nguồn gốc của tính
tích cực hoạt động, là động lực đầu tiên thúc đẩy hoạt động của con người
nhưng nó không có sẵn mà được hình thành trong hoạt động. Không có nhu
cầu của con người thì không có bất kỳ hoạt động nào.
Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng: Tức là nhu cầu bao giờ cũng là
nhu cầu về một cái gì đó. Một khi nhu cầu về cái gì đó cụ thể được cá nhân
nhận thức đầy đủ và sâu sắc về nó đối với sự tồn tại và phát triển của mình,
nghĩa là không thể thiếu nó được thì nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy cá
nhân hoạt động nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu này. Nếu con người không
có nhu cầu con người sẽ không có hoạt động.
Nhu cầu và động cơ có quan hệ mật thiết với nhau. Nhu cầu có thể

chuyển hoá thành động cơ. Khi nhu cầu gặp gỡ đối tượng có khả năng thoả
mãn nó thì nhu cầu sẽ được đối tượng hoá nhờ hoạt động và trở thành động
cơ. “Những đối tượng đáp ứng nhu cầu khác nhau nằm trong hiện thực
khách quan. Một khi chúng phát lộ ra, được chủ thể những biết (hình dung
ra, tư duy ra) thì có được chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động tức trở
thành động cơ”. Ngược lại động cơ là cầu nối giữa nhu cầu và hiện thực
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
15
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
khách quan nhờ một kinh nghiệm điều chỉnh hành vi xác định. Động cơ hoạt
động của con người là nguyên nhân bên trong thôi thúc con người hành
thoả mãn một nhu cầu nào đó.
Từ những phân tích trên có thể thấy : Nhu cầu học tập là những đòi hỏi
của người học đối với sự lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhàm hình thành
và phát triển nhân cách cá nhân.
* Hứng thú học tập.
“Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của cá nhân với đối tượng nào đó
vừa có ý nghĩa với cuộc sống vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá
nhân trong quá trình học tập” (Tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn -
chủ biên). Với khái niệm này vừa nêu được bản chất tâm lý của hứng thú,
vừa gắn hứng thú với hoạt động của cá nhân.
Trong hoạt động học tập, hứng thú có vai trò đặc biệt quan trọng, nó là
yếu tố thúc đẩy cá nhân học tập, tìm kiếm, chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo…hứng thú học tập càng mạnh mẽ thì càng hấp dẫn nhận thức.
Đây là khả năng lĩnh hội tri thức các môn học. Muốn hình thành hứng thú
học tập cần giúp cho người học hiẻu mục đích, cụ thể hóa thành nhiệm vụ
học tập đa dạng, có sức hấp dẫn, lôi cuốn.
* Mục đích học tập.
Mục đích là cái mà hoạt động đạt tới, các nhà tâm lý học khẳng định:
Mục đích là biểu tượng trong đầu óc của con người về kết quả nhằm đạt tới

hành động. Trong mối quan hệ với động cơ thì mục đích của hành đông chỉ
là sự cụ thể hoá của động cơ. Để đạt một mục đích chúng ta cần phải thực
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
16
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
hiện một hành động. Khi đó mục đích có thể phát triển thành động cơ, mục
đích đó không chỉ có chức năng hướng dẫn mà còn có cả chức năng kích
thích thúc đẩy.
Trong hoạt động học tập, khi chủ thể thực hiện hàng động học tập,
mục đích bắt đầu được hình thành. Khi đó chủ thể xâm nhập vào đối tượng
thì nội dung của mục đích ngày càng được hiện hình, lại càng định hướng
cho hành động và nhờ đó chủ thể chiếm lĩnh được tri thức mới, năng lực
mới. Trên đường đi tới chiếm lĩnh đối tượng học tập thì mục đích bộ phận
(chiếm lĩnh tất cả khái niệm ) được thực hiện đày đủ, nó lập tức trở thành
phương tiện cho sự hình thành trong một hệ thống các hành học tập.

S* Đối tượng.
Hoạt động bao giờ cũng có đối tượng, đối tượng của hoạt động là cái
nằm trong thế giới khách quan được con người nhận thức tác động, cần làm
ra và chiếm lĩnh nó. Đó là động cơ. Động cơ luôn thúc đẩy con người hoạt
động nhằm vào đồi tượng, để thay đổi nhằm biến nó thành sản phẩm, hay
tiếp nhận nó chuyển vào trong đầu óc của mình để tạo ra cấu trúc mới, năng
lực mới…
Trong hoạt động học tập đối tượng của hoạt động học là tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, tương ứng với nó. Có thể nói cái đích mà người học hướng
đến là chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thông qua sự tái tạo của mình. Do
đó học tập có kết quả thì phải chính sinh viên phải tiến hành các hành động
học tập bằng ý thức, tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân.
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
17

Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
1.2.3.4. Biểu hiện của động cơ học tập.
* Về mặt nhận thức.
Sinh viên luôn luôn cố gắng vượt qua khó khăn, trở ngại để hướng đến
việc nhận thức, giải quyết vấn đề. Có tinh thần say mê đối với các vấn đề
khoa học, ham hiểu biết, sẵn sàng học hỏi thầy cô bạn bè, thường tham khảo
thêm tài liệu, làm thêm các bài tập nhất là thường đưa ra các câu hỏi thắc
mắc, để hiểu vấn đề cụ thể hơn. Muốn có động cơ học tập đúng đắn người
học phải ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, hiểu được ý nghĩa của các
môn học với thực tiến cuộc sống và nghề nghiệp tương lai. Đây chính là
nguồn gốc để hình thành các khái niệm cũng như tri thức các môn học.
* Về mặt thái độ.
Mặt thái độ bao gồm: Thái độ, cảm xúc tích cực với các môn học thông
qua hoạt động học tập như:
- Tâm trạng háo hức, chờ đợi giờ học đến.
- Có niềm vui nhận thức cùng với sự thích thú khi tiếp nhận tri thức.
- Thích thú thực hiện các nhiệm vụ học tập.
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
18
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
- Thích thú có nhiều hình thức học tập: nghe giảng lý thuyết kết hợp
thực hành, đọc tài liệu tham khảo, ứng dụng kiến thức vào thực tiễn, giáo
viên đưa ra những vấn đề để tranh luận…
- Cảm thấy giờ học trôi nhanh và thích thú với giờ học đó.
- Vui sướng với những thành công trong học tập
* Về mặt hành vi.
Có thể liệt kê một số hành vi sau:
- Tập chung chú ý nghe giảng.
- Ghi chép theo cách hiểu của mình.
- Tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài.

- Chuẩn bị bài trước khi lên lớp và duy trì đều thành tích.
- Thường tham khảo thêm sách báo,các tài liệu có liên quan đến các
môn học.
- Chuyên cần học tập chỉ nghỉ khi cần thiết.
- Cảm thấy sảng khoái, hứng thú với các giờ học.
- Thích trao đổi nội dung môn học.
- Học lý thuyết kết hợp với thực hành.
- Các hình thức khác…
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
19
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
Nhận thức, thái độ, hành vi là ba tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phát
triển của động cơ học tập. Ba mặt này thống nhất với nhau trong cấu trúc
động cơ cũng như trong cấu trúc tâm lý cuả cá nhân. Muốn hình thành và
phát triển động cơ học tập nói chung và động cơ học tập bộ môn nói riêng
thì phải tìm ra biện pháp tác động dồng thời đến cả ba thành phần trên.
1.2.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập.
* Nội dung dạy học.
Nội dung dạy học bao gồm các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà sinh viên
phải lĩnh hội trong quá trình học tập, chúng được thể hiện trong từng môn
học cụ thể. Nếu nội dung dạy học phong phú, hấp dẫn sẽ lôi cuốn sinh viên
vào quá trình học tập và tạo điều kiện thuận lợi chi sự củng cố, phát triển
động cơ học tập đúng đắn. Ngược lại nội dung khô khan, nghèo nàn, kém
hấp dẫn thì sức lôi cuốn đối với người học bị giảm đi.
Sự hấp dẫn các môn học: Đây là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến sự hình
thành và phát triển hứng thú học tập các môn học, tính hấp dẫn của môn học
sẽ thu hút sự tập chung chú ý, và thoả mãn được nhu cầu nhận thức của sinh
viên, tạo ra lòng say mê, thích thú dẫn đến lòng say mê trong học tập. Hình
thành hứng thú học tập cũng chính là hình thành động cơ học tập cho sinh
viên.

* Phương pháp giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy cũng là một yếu tố góp phần làm nên thành
công của hoạt động dạy học. Phương pháp dạy tốt mới khơi dậy và củng cố
đươch hứng thú, lòng say mê học tập phát huy được tính tích cực học tập của
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
20
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
sinh viên. Thực tế cho thấy chỉ có phương pháp hình thức dạy học tích cực
mới phát huy sáng kiến, sức sáng tạo cũng như sự tích cực trong học tập của
sinh viên.
Bên cạnh đó giảng viên cần có những năng lực cần thiết như: Năng lực
hiểu sinh viên, năng lực giao tiếp nói chung là các năng lực sư phạm. Để
không những rút ngắn khoảng cách với sinh viên mà con giúp quá trình dạy
và học tốt hơn.
Ngoài ra bầu không khí lớp học và cơ sở vật chất cũng có tác động đến
động cơ học tập của sinh viên. Tập thể lớp mà có phong trào học tập tốt thì
cá nhân cũng ảnh hưởng và học tập theo. điều kiện vật chất có tác dụng hỗ
trợ sinh viên trong việc lý thuyết đi đôi với thực hành, hay việc vận dụng lý
thuyết vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
* Bản thân sinh viên. ( Trình độ nhận thức, nhu cầu nhận thức, thái độ
học tập).
- Trình độ nhận thức.
Trình độ nhận thức của sinh viên là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hứng
thú học tập. Thực chất của hứng thú học tập là quá trình nhận thức đi sâu
vào bản chất đối tượng, do vậy trình độ nhận thức là cơ sở cần thiết để tạo
hứng thú học tập, và cũng là điều kiện quan trọng để bồi dưỡng hứng thú
học tập, chỉ khi có tri thức ban đầu về đối tượng, những kỹ năng, kỹ xảo đơn
giản và những thao tác trí tuệ nhất định… thì cá nhân mới có thể nhận thức
được đối tượng, rồi hứng thú với đối tượng…Khi cá nhân đã hiểu được toàn
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ

21
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
bộ ý nghĩa của công việc đã làm và đang làm thì họ sẽ nảy sinh thái độ tích
cực, tự giác trong hoạt động học tập.
Mặt khác, sự phát triển trí tuệ cá nhân là cơ sở tạo ra thành tích và cùng
với nó là cảm xúc của sự thành công, không ai có thể đạt được thành tích, có
thể hành động đạt được kết quả nếu họ không có trình độ và khả năng nhất
định. Vấn đề nhận thức quá khó hay quá dễ đều không làm cho chủ thể hứng
thú, khi trình độ và năng lực của sinh viên thấp thì hầu hết các môn học đều
khó và trừu tượng, nên không có hứng thú học tập. Ngược lại nếu không có
hứng thú trong học tập đồng nghĩa với việc năng lực va trình độ hạn chế,
nên khi tìm tòi tài liệu, tham khảo tài liệu sẽ không tạo ra được hứng thú. Vì
vậy việc lựa chọn nội dung, cách thức dạy học các môn học cho phù hợp,
mang tính cá biệt cao là một trong những biện pháp gây hứng thú học tập
cho sinh viên.
- Nhu cầu nhận thức của sinh viên:
Phát triển nhu cầu nhận thức của sinh viên là một trong những biên pháp
làm nảy sinh và xây dựng hứng thú học tập. Nhu cầu nhận thức cao sẽ làm
học sinh nảy sinh khát khao tìm tòi để đạt được tri thức. Đây là cơ sở để
hình thành động cơ học tập, gắn tri thức các môn học với thực tiễn hoạt động
nhận thức là một trong những biện pháp có hiệu quả khơi dậy nhu cầu nhận
thức của sinh viên và kích thích sinh viên tim tòi, vận dụng tri thức trong
suốt quá trình học tập.
- Thái độ học tập:
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
22
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
Thái độ học tập đúng đắn với đối tượng của hứng thú là điều rất quan
trọng và cần thiết, nó là cơ sở để hình thành hứng thú học tập cho sinh viên.
Người giáo viên cần áp dụng các biện pháp có hiệu quả nhằm giúp học sinh

ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của các môn học.
Nhu cầu tự khẳng định:
Là nhu cầu vượt lên những khó khăn, hạn chế của bản thân hay của hoàn
cảnh để đạt được mục đích nhất định. Đáp ứng nhu cấu này con người phải
huy động sự nỗ lực ý chí, quyết tâm cao độ nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ
thúc đẩy bản thân học tập. Nhất là trong thời đại ngày nay thì nhu cầu khẳng
định mình của con người lại càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết một mặt là
muốn thể hiện mình, mặt khác là muốn có một vị trí trong xã hội. Chính vì
vậy mà nó thúc đẩy con người đạt được mục tiêu mà mình đề ra.
* Nhóm yếu tố khác chi phối đến động cơ học tập của sinh viên:
- Nhóm động cơ về xã hội:
Là động cơ do sự tác động của xã hội đối với quá trình học tập của
sinh viên. Sinh viên học tập vì nhiều yếu tố xã hội thúc đẩy: Tìm việc dễ
dàng, vì công danh, vì thầy cô, để kiếm được nhiều tiền, nghề đang được xã
hội coi trọng, đáp ứng nhu cầu học tập…
-Nhóm động cơ về thầy cô, gia đình, bạn bè…
Là những động cơ do sự phản ánh các tác động của những người xung
quanh đối với việc học tập của sinh viên: Học vì trách nhiệm, muốn làm vừa
lòng cha mẹ. thầy cô, theo học vì ý kiến của bạn bè…
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
23
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
-Nhóm động cơ vụ lợi:
Bên cạnh những đông cơ lâu dài, được xã hội thừa nhận khích lệ, thì vẫn
còn tỉ lệ đáng kể sinh viên có động cơ học tập thiện cận, thụ động. Họ học
không phải để chiếm lĩnh tri thức, vì ham hiểu biết mà học vì ham muốn tiền
tài, địa vị, công danh…Để thoả mãn những đam mê đó họ có thể bằng mọi
thủ đoạn để đạt được nó: Quay cóp trong thi cử, hay mua điểm, mua bằng,
học để có học bổng….
Ngoài các động cơ trên học tập của sinh viên còn bị chi phối bởi nhiều yếu

tố khác: Học để chỉ để cho có học để cũng cho mọi người thấy mình cũng đi
học đại học hẳn hoi, giải toả nỗi niềm, những thiếu thốn, vướng mắc trong
tâm lý, tình cảm; Học để thoả mãn tính mạo hiểm, óc tò mò khoa học ( vì
muốn thử thách qua các cuộc thi tài năng…)
Như vậy động cơ học tập của sinh viên bao gồm cả yếu tố bên trong cá
nhân và bên ngoài xã hội. Cái bên ngoài tác động thông qua cái bên trong là
điều kiện để phát huy tác dụng, những yếu tố chủ quan của mỗi sinh viên là
điều kiện bên trong để các yếu tố khách quan phát huy tác dụng làm hình
thành và phát triển động cơ học tập cho sinh viên.
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
24
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Trần Minh Đức
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
LỚP 16B TIẾNG ANH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH
2.1. VÀI NÉT VỀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH VÀ KHOA
NGOẠI NGỮ
2.1.1. Vài nét về trường đại học Hà Tĩnh
Trường đại học Hà Tĩnh được thành lập theo quyết định số 318/Q Đ –
TTG, ngày 19/03/2007 của Thủ tướng chính phủ. Trường đại học Hà Tĩnh
là một trường công lập, đa cấp, đa nghành, đào tào nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp phát triẻn của đất nước nói chung và tỉnh
Hà Tĩnh nói riêng. Trường đã và đang đào tạo 40 mã nghành khác nhau có
trình độ từ trung cấp, cao đẳng đến đại học.
Phương hướng phát triển của trường là xây dựng trường thành một
trường đa cấp, đa nghành, có chất lượng. Nâng cao trình độ và chất lượng
đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực cho
Hà Tĩnh, khu vực miền Trung và cả nước. Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất
kỷ thuật hiện có, quy hoạch trường mới 70 ha. Tăng cường hợp tác quốc tế
về đào tạo sinh viên, bồi dưỡng giảng viên, xây dựng các chuyên nghành
cần thiết của tỉnh, vùng và toàn quốc. Phấn đấu đưa trường đại học Hà Tĩnh

thành trung tâm đào tạo, NCKH, trung tâm văn hoá của tỉnh, một trường có
uy tín trong nước và khu vực trong 10 đến 15 năm tới.
Giáo sinh thực hiện: Trịnh Thị Huệ
25

×