Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận - Một số giải pháp nhằm thu hút FDI vào các KCN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.68 KB, 25 trang )

Tiểu luận - Một số giải pháp nhằm thu hút
FDI vào các KCN trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi
hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách.
Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực
hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến
một lượng vốn lớn.
Chính vì vậy, Nghị quyết Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
khẳng định: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương
quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại
hóa phát triển đất nước, xây dựng một nền sản xuất hiện đại,có khả năng hổ trợ và
kích thích phát triển năng lực cho các ngành khác, tiến tới đổi mới toàn bộ xã hội.”
Mục tiêu đặt ra cho các Khu Công Nghiệp (KCN) do vậy cũng nằm trong
mục tiêu chung mà cả nước đang quyết tâm đạt tới trong những thập kỷ đầu của
thế kỷ XXI.
Sau hơn 5 năm phát triển KCN, Thành phố Hồ Chí Minh (HCM) đã đạt
được những thành tựu quan trọng về việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), góp phần tăng trưởng nền kinh tế của cả nước nói chung và kinh tế Thành
phố HCM nói riêng.
Như vậy để tiếp tục phát triển các KCN trên địa bàn thành phố HCM, từ đó
góp phần phát triển kinh tế kinh tế của thành phố chúng ta cần thu hút nhiều hơn
nữa các nguồn vốn vào KCN, đặc biệt là nguồn vốn FDI.
Vì vậy đề tài của em tập trung nghiên cứu về: “Một số giải pháp nhằm thu
hút FDI vào các KCN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”
Trong quá trình thực hiện đề tài này, do hạn chế tầm nhìn và hiểu biết nên
không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong có được sự chỉ bảo của các bạn và hướng


dẫn của cô.
Em xin chân thành cảm ơn cô đã tận tình hướng dẫn em để em có thể hoàn
thành đề án môn học này. Do hạn chế về trình độ cũng như thời gian nên trong tài
liệu này chắc chắn không thể tránh được thiếu sót. Em mong muốn nhận được sự
góp ý của thầy để có điều kiện hoàn thiện hơn nữa vào thời gian tới.
Sinh viên thực hiện:
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TRONG CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THỜI GIAN
QUA
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN KCN NÓI
CHUNG
1. Khái niệm về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư
và người sử dụng vốn đầu tư là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá
nhân người nước ngoài trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu
tư và vận hành cá kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đó bỏ ra.
Theo IMF thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một tổ chức kinh tế(nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác.
Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý
doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế đó.
Theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc
tổ chức, cá nhân người nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài
sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
theo quy định của luật này.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm sau:
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của các nhà đầu tư, họ tự quyết định đầu
tư, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mạng tính khả thi và hiệu quả cao.
Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp hoạt động

theo tỷ lệ góp vốn của mình
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước chủ nhà có thể tiếp nhận được
công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm tổ chức, quản lý là mục tiêu mà các hình
thức khác không giải quyết được
- Nguồn vốn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của hoạt động nó
còn bao gồm cả vốn của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như
đầu tư từ lợi nhuận thu được.
2. Vai trò của FDI đối với sự phát triển của các KCN nói chung
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XIX của Đảng đã khẳng
định: “ kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích
phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài là chủ trương quan trọng góp phần khai thác các nguồn lực trong
nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự
nghiệp CNH - HĐH phát triển đất nước”.
Trong hơn 10 năm qua kể từ khi ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam năm 1987, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện những mục
tiêu kinh tế – xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi
khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho
đầu tư phát triển: có tác dụng thúc đảy sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH -
HĐH, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình
độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm mới, góp
phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua cũng đã
bộc lộ những mặt yếu kém, hạn chế. Nhận thức quan điểm về đầu tư trực tiếp nước
ngoài chưa thực sự thống nhất và chưa được quán triệt đầy đủ ở các cấp, các
ngành, cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất hợp lý và hiệu quả tổng
thể về kinh tế- xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa cao; môi

trường đầu tư còn chưa hấp dẫn; môi trường kinh tế và pháp lý còn đang trong quá
trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ; công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp
nước ngoài còn những mặt yếu kém; thủ tục hành chính còn phiền hà; công tác cán
bộ còn nhiều bất cập. Nhịp độ tăng trưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2000
có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa vững chắc, nếu không những năm tới. Trong khi
đó, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và khu vực diễn
ra ngày càng gay gắt, nhất là sau khủng hoảng kinh tế khu vực, nhịp độ tăng trưởng
của kinh tế thế giới đang chậm lại, các nền kinh tế khu vực, những đối tác chính
đầu tư vào Việt Nam, đang gặp khó khăn.
Từ những đóng góp quan trọng triển ta có thể nhận thấy rõ vai trò to lớn của
FDI đối với sự phát triển của các KCN nói chung, thể hiện ở:
- FDI giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển nền kinh tế nói chung, mở rộng quy
mô sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện tại
và tạo ra năng lực sản xuất mới trong một số lĩnh vực, thúc đẩy xuất khẩu, giải
quyết việc làm.
- FDI giúp các doanh nghiệp sản xuất trong KCN tiếp nhận thành tựu phát
triển khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó rút ngắn khoảng cách so với thế giới. Từ
đó giúp các doanh nghiệp sản xuất tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế.
- FDI giúp sử dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nước mà trước đây
không thể thực hiện do thiếu vốn. Từ đó giúp các doanh nghiệp sản xuất trong
KCN có thể tận dụng hết các nguồn lực để phát triển sản xuất.
- FDI tạo điều kiện cho chúng ta học tập kinh nghiệp quản lý kinh doanh
trong điều kiện kinh tế thị trường của các nước tiên tiến.
3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc thu hút FDI
3.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật bản là một cường quốc kinh tế ở Châu á với cách tạo nguồn vốn cho
phát triển kinh tế khác với nhiều nước khác. Những năm cuối thế kỷ XIX dưới thời
Minh Trị, Nhật còn là một nước rất nghèo, nền kinh tế mới đi vào công cuộc cải
cách. Để có khoản tích luỹ vốn đầu tư ban đầu cho công cuộc phát triển kinh tế xã

hội. Nhật đã dựa vào cơ cấu chính quyền rất mạnh cộng với thu thuế rất lớn từ
nhân dân. Thông qua biện pháp này Nhật đã huy động được nguồn vốn rất lớn cho
phát triển kinh tế. Các nhà kinh tế đã tổng kết và đưa ra các nhân tố tác động đến
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật là:
Sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh
công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tăng cường
điều tiết và vai trò của chính phủ trong nền kinh tế quốc dân, mở rộng thị trường.
Bước đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá Nhật đã có tỷ lệ tích luỹ vốn
hàng năm là 21,8% đến năm 1968 là 29,2% lớn hơn hai lần so với Mỹ và gần bằng
2 lần của Anh.
Năm 1959 GDP của Nhật bằng 81% của Đức nhưng tổng đầu tư vào tư bản
cố định của Nhật đã vượt Đức.
Nhật duy trì được mức tích luỹ cao là nhờ mức lương thấp trong khi năng
xuất lao động thì rất cao và có xu hướng ngày càng tăng nhanh. Huy động được
khối lượng lớn nguồn vốn từ người dân vào trong kinh doanh, chi phí cho quan sự
thấp, chi phí sử dụng nguồn vốn thấp và khống chế được mức chi tiêu công cộng ở
mức thấp.
3.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cách từ thập kỷ 60, kể từ kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm lần thứ nhất ra đời năm 1962, nền kinh tế đã duy trì được tốc
độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Bình quân tốc độ tăng GDP hàng năm là 9% cao hơn
rất nhiều so tốc độ tăng bình quân của thế giới. Trong cùng thời gian công nghiệp,
nhất là công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trên 20% năm, dịch vụ tăng trên 14%/
năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đã giúp cho Hàn Quốc giải quyết được
nhiều vấn đề như giảm thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo đói, giảm mức chênh lệch về
thu nhập giữa nông
thôn và thành thị.
Tài trợ cho các nhu cầu đầu tư trước tình hình kinh tế trong nước kém phất
triển, nguồn tích luỹ từ nội bộ ít, nguồn tài trợ bên ngoài giảm sút chính phủ đã
khuyến khích đầu tư làm tăng việc sử dụng nguyên liệu trong công nghiệp, khuyến

khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích du nhập công nghệ kỹ thuật mới.
Sử dụng công cụ thuế và tăng cường tiết kiệm của chính phủ, sử dụng công
cụ thuế như một công cụ kích thích đầu tư, tăng cường sử dụng chính sách lãi suất
thấp, chính phủ đưa ra các điều kiện để hoàn lại vốn và trả lãi cho các nhà đầu tư.
Để tập trung vốn cho phát triển các ngành mũi nhọn.
3.3 Kinh nghiệm ở Anh
Học thuyết Mác đã nhận định là sự tích luỹ tư bản nguyên thuỷ nhất thiết
phải diễn ra trước khi có sự phát triển kinh tế. Cơ sở thực tiễn của học thuyết này
bắt nguồn từ thực tiễn kinh nghiệm phát triển kinh tế của nước Anh, nơi mà buôn
bán, bóc lột thuộc địa và một số hình thức khác đã tạo cho nước Anh có được
nguồn vốn tích luỹ khổng lồ. Đến cuối thế kỷ XIIX nguồn vốn tích luỹ của nước
Anh biến thành tư bản đầu tư vào công nghiệp. Từ thực tiễn đó cho thấy, trước
cách mạng công nghiệp nước Anh đã trải qua chủ nghĩa tư bản thương mại hàng
thế kỷ. Như vậy thì con đường và giải pháp cơ bản để tạo dựng vốn đầu tư vào
công nghiệp hoá và phát triển kinh tế là phát triển mạnh tự do thương mại nhằm
tạo ra từ tích luỹ nội bộ nền kinh tế kết hợp với sự cướp bóc từ các nước thuộc địa.
3.4 Bài học rút ra cho thành phố HCM
Từ thực tế tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các quốc gia
trên trong thời gian qua. Chúng ta có rút ra được một số bài học kinh nghiệm:
Sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh
công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tăng cường
điều tiết và vai trò của chính phủ trong nền kinh tế quốc dân, mở rộng thị trường.
Tài trợ cho các nhu cầu đầu tư trước tình hình kinh tế trong nước kém phất
triển, nguồn tích luỹ từ nội bộ ít, nguồn tài trợ bên ngoài giảm sút chính phủ đã
khuyến khích đầu tư làm tăng việc sử dụng nguyên liệu trong công nghiệp, khuyến
khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích du nhập công nghệ kỹ thuật mới.
II. Thực trạng thu hút FDI trong các KCN trên địa bàn thành phố HCM thời gian
qua
1. Tình hình thu hút FDI trong các KCN thời gian qua
2.1. Những thành tựu

1 Đầu tư nước ngoài đã góp phần bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực trong nước. Mặt khác đầu tư nước ngoài cũng đóng góp phần quan trọng
vào việc bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế.
1 Tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP liên tục tăng qua các năm.
1 Nguồn thu ngân sách cũng liên tục tăng qua các năm.
1 Kinh ngạch xuất khẩu tăng liên tục qua các năm. Tính đến 31.12.2009 đã có
350 công ty đi vào hoạt động, sản xuất và nhiều hàng hoá có chất lượng tốt xuất
khẩu đi trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tổng kim gạch xuất khẩu
từ khi thành lập đến nay đạt trên 3 tỷ USD. Riêng năm 2001 kim gạch xuất khẩu
của các KCN thành phố đạt 880 triệu USD. Trong đó 2 khu Tân Thuận và Linh
trung đạt doanh số xuất khẩu 812,4 triệu USD, chiếm 95,5 % doanh số xuất khẩu
của các KCN thành phố HCM. Mức tăng trưởng xuất khẩu năm 2001 đạt 9,6% so
với năm 2008. Riêng trong 3 tháng đầu năm 2010 kim gạch xuất khẩu đạt xấp xỉ
200 triệu USD.
1 Góp phần hình thành một số ngành công nghiệp mới, có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế như chế biến dầu khí, sản xuất, lắp ráp ôtô, sản
phẩm điện tử.
1 Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tham gia phát
triển nguồn nhân lực.
Giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100.000 lao động trực tiếp làm việc
trong các doanh nghiệp KCX – KCN Tp. HCM và hàng ngàn lao động tham gia
phục vụ hoạt động của các KCX – KCN. Trong đó, riêng KCX Linh Trung1 dù
diện tích chỉ 62 ha, nhưng đã tạo công ăn việc làm cho hơn 46.000 lao động dẫn
đầu về giải quyết công ăn việc làm trong các KCX – KCN trong cả nước.
7 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH để phát triển
lực lượng sản xuất
7 Góp phần quan trọng vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ
thống cơ sỏ hạ tầng đặc biệt là giao thông vận tai, bưu chính viễn thông, năng
lượng.

2. Những mặt còn hạn chế
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn
một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành.
Vì vậy trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho
việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp
xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án (hầu hết các địa phương
đều phản ánh vấn đề này).
Thứ hai,công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn
yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu
tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Một số địa phương
cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính
đến khả năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp.
Thứ ba, sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố
quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư
tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng công
trình hạ tầng ngoài hàng rào, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao
thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa để tránh
tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ
thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu.
Nhưng hệ thống kết cấu hạ tầng ở các khu kinh tế mới được thành lập gần đây như
Chân Mây, Nhơn Hội, Nam Phú Yên… phát triển quá chậm so với nhu cầu đầu tư
phát triển các dự án FDI, gây quan ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài và cản trở
việc giải ngân triển khai dự án lớn trong các khu kinh tế này.
Tình trạng thiếu điện dẫn tới cắt điện luân phiên, cắt điện không theo lịch khiến
cho các doanh nghiệp gặp khó khăn không nhỏ trong việc điều hành và hoàn thành
kế hoạch sản xuất.
Thứ tư, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân
kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt.
Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong 3 năm trở lại đây
càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án đầu tư nước ngoài, đặc biệt

là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện.
Trong khi đó, chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước quá
lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp.
Tình trạng đình công đang diễn ra và trở thành áp lực đáng kể với các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Thứ năm, công tác giải phòng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục của
môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được các
địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói chung và
thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng. Nhiều địa phương đang
lâm vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án quy mô lớn như
đã cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Việc đền bù thu hồi đất, tái định cư, giải phóng mặt bằng và xây dựng các công
trình hạ tầng ngoài hàng rào kết nối vào khu vực dự án đầu tư đang là khó khăn lớn
nhất đối với triển khai một số dự án FDI quy mô lớn hiện nay, đặc biệt đối với dự
án 100% vốn nước ngoài.
Theo quy định của Luật Xây dựng, chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn
bộ khâu giải phóng mặt bằng và bàn giao đất sạch cho nhà đầu tư. Tuy nhiên do
phải sử dụng ngân sách địa phương để đền bù thu hồi đất và thủ tục giải ngân đối
với nguồn vốn ngân sách quá phức tạp và mức đền bù theo quy định chung của
Nhà nước không đáp ứng yêu cầu của người được đền bù nên tiến độ giải phóng
mặt bằng rất chậm.
Mặt khác, còn tâm lý e ngại nhà đầu tư không triển khai dự án đúng tiến độ sẽ làm
ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Như vậy trên thực tế ngân sách nhà
nước phải chi một khoản rất lớn ngay từ lúc giải phóng mặt bằng, trong khi đó nếu
thực sự dự án có hiệu quả thì cũng phải nhiều năm sau mới có thu ngân sách. Điển
hình là một số dự án đầu tư quy mô lớn, sử dụng nhiều diện tích đất mới được cấp
giấy chứng nhận đầu tư tại một số địa phương.
Việc sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư các khu công nghiệp, khu đô thị, sân golf
đang được dư luận gần đây quan tâm. Do các địa phương chưa có quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất nên có tình trạng cấp phép nhiều dự án sử dụng diện tích lớn đất
nông nghiệp để đầu tư khu công nghiệp, khu đô thị, sân Golf.
Thứ sáu, chủ trương phân cấp trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư nước
ngoài là đúng đắn, tuy nhiên trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, kịp
thời, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước
ngoài tại một số địa phương còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ nên đã nảy sinh vấn đề
cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, thiếu sự liên kết
vùng, khu vực, ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, lĩnh vực đầu tư.
Một số địa phương không thẩm tra kỹ về năng lực của các nhà đầu tư trong các dự
án có quy mô lớn, chạy đua với nhau trong việc cấp phép các dự án lớn có quy mô
hàng tỷ USD. Do vậy, khả năng triển khai các dự án này sẽ rất khó khả thi theo
đúng cam kết của nhà đầu tư.
Với chủ trương phân cấp như hiện nay, việc cung cấp thông tin đầu tư nước ngoài
kịp thời của các địa phương lên trung ương, để phục vụ công tác quản lý, điều
hành, phân tích và dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam của
Chính phủ chưa được quy định rõ ràng.
Việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI hiện đang
là khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan quản lý đầu tư các cấp, kế cả Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, trong khi cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin
kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu.
Thứ bảy, việc xử lý chất thải của các dự án đầu tư nước ngoài tập trung tại các khu
công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh hưởng nhất
định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là đối với các dự
án sản xuất quy mô lớn.
Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng đã phát hiện một số vi phạm pháp
luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan
tâm ở tất cả các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển khai thực
hiện dự án cũng như quá trình hoạt động của dự án đầu tư.
CHƯƠNG II: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT FDI VÀO CÁC KCN TRÊN

ĐỊA BÀN TP HỒ CHÍ MINH
I. Những giải pháp của bản thân các khu công nghiệp
1. Quy hoạch tổng thể các khu và hoạt động sản xuất cho mỗi khu một cách hợp lý.
Ban quản lý các khu công nghiệp tham gia cùng các ngành chức năng xây
dựng quy hoạch tổng thể các khu và hoạt động sản xuất của khu một cách hợp lý.
Xem xét đánh giá lại quy hoạch chi tiết trong từng khu công nghiệp (so với
thực tế) đặc biệt là chú ý quy hoạch bố trí ngành nghề.
2. Phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.
Trước mắt cần tập trung các nguồn lực đẩy nhanh tốc độ xây dựng và hoàn
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng bên trong các khu công nghiệp hiện có Theo kinh
nghiệm của Trung Quốc cần có chính sách khuyến khích đặc biệt (về giá cả, dịch
vụ, thuế) đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư phát
triển mới hệ thống cơ sở hạ tầng ở các khu công nghiệp.
Kiến nghị UBND TP. Hồ Chí Minh nhanh chóng triển khai các công trình hạ
tầng bên ngoài gắn liền với các khu công nghiệp như: Đường, cầu, giao thông …
Đề nghị Trung ương cho phép TP. Hồ Chí Minh giữ lại 50 – 60% các nguồn
thu trong các khu công nghiệp để sử dụng xây dựng phát triển hạ tầng bên ngoài
các khu công nghiệp.
Ban quản lý khu công nghiệp cần theo dõi chặt chẽ quá trình và chất lượng
xây dựng các công trình kết cấu cơ sở hạ tầng đồng thời sớm có tiêu chuẩn, quy
phạm xây dựng đối với các công trình cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.
3. Đẩy mạnh công tác xúc tiến vận động đầu tư
Sớm thành lập Website về khu công nghiệp TP. Hồ Chí Minh trên mạng
Internet nhằm tăng cường khả năng vận động khuyến khích đầu tư và đáp ứng nhu
cầu tìm hiểu về hoạt động của các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố.
Kiến nghị UBND Thành Phố chủ động thành lập các bộ phận chuyên trách
đảm nhận công việc xúc tiến đầu tư ở nước ngoài nhằm chủ động đa phương hoá
các đối tác đầu tư nước ngoài. Ngoài các thị trường ở Châu á cần nghiên cứu kỹ
lưỡng đối tác đầu tư ở Tây Âu, Bắc Âu, Mỹ nhằm tranh thủ về công nghệ, kỹ thuật
hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh.

Ưu tiên cho các dự án vừa và nhỏ nhưng có công nghệ hiện đại. Mạnh dạn
khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với các sản phẩm dịch vụ mà Việt Nam nhận
được.
Ngoài ra một điểm rất đáng quan tâm là chính sự thành công của các nhà
doanh nghiệp nước ngoài đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam có tác
động rất quan trọng đối với việc tuyên truyền vận động thu hút đầu tư tại nước
ngoài. Điều trước tiên và thiết thực nhất là cần phải đảm bảo môi trường đầu tư
thông thoáng, hấp dẫn để các nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả.
Bên cạnh đó chúng ta cần tăng cường chủ động trong hoạt động vận động
thu hút đầu tư. Sớm xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư cho các khu công
nghiệp và xác định rõ thị trường tiềm năng để từ đó có các giải pháp thích hợp.
Đồng thời đề nghị và phối hợp với chính phủ thường xuyên tổ chức hội thảo
chuyên đề, xúc tiến vận động đầu tư ở nước ngoài
4. Hoàn thiện chế độ quản lý một cửa.
Một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với các khu công nghiệp là cơ chế một
cửa, đây là cơ chế cho phép tinh giản tối đa các thủ tục mà nhà đầu tư phải thực
hiện. Để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý một cửa. Chính phủ, các bộ ngành hữu
quan cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
- Cần “pháp lý hoá” cơ chế quản lý “một cửa“.
- Tiếp tục thực hiện quy định đã có của chính phủ nêu tại quy chế khu công
nghiệp – khu chế xuất.
- Đề nghị bộ tài chính uỷ quyền cho ban quản lý các khu công nghiệp thực
hiện ra các văn bản chấp thuận về một số vấn đề liên quan trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời uỷ quyền cho ban quản lý thực hiện việc
quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
- Kiến nghị bộ lao động thương binh xã hội sớm cải thiện thủ tục cấp giấy
phép lao động cho người nước ngoài.
- Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9002 đối với
các dịch vụ hành chính công nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của
ban quản lý. Thiết lập hệ thống mạng đối với các khu công nghiệp và ban quản lý

nhằm kịp thời trao đổi các thông tin cung cấp văn bản pháp quy, nhu cầu mua
hàng, nhu cầu tuyển dụng lao động, báo cáo định kỳ, khai báo hải quan, trả lời các
thắc mắc của các doanh nghiệp.
Trong tương lai TP. Hồ Chí Minh có thể phát triển đa dạng hơn các loại hình
bất động sản công nghiệp. Khu phát triển kinh tế và kỹ thuật hay đặc khu kinh tế
như các nước đã làm.
2. Những giải pháp của nhà nước.
2.1 đối với khu vực kinh tế quốc doanh
Như nghị định 42/cp và nghị định 92/cp quy định về đầu tư, xây dựng theo
xu hướng giảm bớt các yêu cầu phải có quyết định đầu tư và giâý phép đầu tư đối
với các nhà đầu tư không sử dụng tiền. Nhà nước bỏ khâu phê duyệt dự án thay
bằng giải trình các phương án kinh doanh, thực hiện việc phân cấp xem xét ưu đãi
đầu tư đến cấp quận huyện để các nhà đầu tư sẵn sàng tiếp cận được với các chính
sách ưu tiên đầu tư.
2.2 Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước và tài sản công
+ Ngân sách nhà nước phải để dành từ 10- 20% GDP để đầu tư cho cơ sở hạ
tầng, y tế, giáo dục
+ Sử dụng các tài khoản công để tăng thu cho ngân sách nhà nước.
+ Phát hành trái phiếu chính phủ trung hạn và dài hạn.
2.3 Đối với các doanh nghiệp nhà nước
+ Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp theo hướng cơ
cấu lại cơ cấu vốn sản xuất và tài sản doanh nghiệp một cách hợp lý tính đủ giá trị
sử dụng đất vào vốn và tài sản của doanh nghiệp.
+ Cho phép khấu hao nhanh để tái đầu tư sản xuất.
+ Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, để tăng thêm vốn đầu
tư cho doanh nghiệp, cũng là để nhà nước tăng các khoản thu cho đầu tư phát triển
kinh tế.
+ Hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện phát triển cho các nhà đấu tư.
2.4 Đối với khu vực dân cư
+ Đa dạng hoá các hình thức và công cụ huy động vốn để cho mọi người dân

ở bất cứ nơi đâu, thời điểm nào, cũng có những cơ hội thuận tiện để đưa đồng vốn
vào phát triển kinh tế.
+ Tăng lãi suất tiết kiệm đảm bảo lãi suất dương.
+ Khuyến khích sử dụng tài sản cá nhân, thực hiện chế độ thanh toán gửi
tiền ở một nơi và rút ra ở bất cứ nơi nào, có vậy chúng ta mới đưa được nguồn vốn
dưới dạng cất giữ vào lưu thông.
+ Tạo môi trường đầu tư thông thoáng và thực hiện theo luật pháp để người
dân dễ dàng bỏ vốn đầu tư.
+ Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích tư nhân trong nước tự
đầu tư hoặc góp với chính phủ xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ
tầng kinh tế- xã hội.
+ Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích các hộ gia đình ở các
vùng nông thôn, vốn vào sản xuất kinh doanh, trên cơ sở khai thác thế mạnh của
từng vùng.
+ Thực hiện chính sách xã hội hoá đầu tư phát triển kinh tế, sự nghiệp giáo
dục, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của nhân dân.
KẾT LUẬN
Như vậy trong hơn 10 năn qua FDI đã góp phần thúc đẩy TP Hồ Chí Minh
thực hiện được mục tiêu kinh tế mở của và hội nhập.
Thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp TP. Hồ Chí Minh đã đạt được
những kết quả đáng kể góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của kinh tế TP. Hồ
Chí Minh.
Tuy nhiên trong quá trình huy động vốn FDI cũng vấp phải nhiều khó khăn
và những hạn chế cần phải khắc phục để tăng nhanh tốc độ phát triển của kinh tế
TP. Hồ Chí Minh xứng đáng với tiềm năng thành phố là trung tâm kinh tế của cả
nước.

×