Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phong cách lãnh đạo độc đáo của Hồ Chí Minh pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.15 KB, 4 trang )

Phong cách lãnh đạo độc đáo của Hồ Chí Minh
Nguyễn Trần Bạt
Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị kiệt xuất, có những giá trị vượt thời gian và quan trọng hơn là
có giá trị đương đại. Ông là một nhà chính trị có những địa vị không thể nào so sánh được, có
những giá trị không thể nào nhầm lẫn được. Giá trị chính trị, phong cách lãnh đạo, tài năng chính
trị của ông bộc lộ trong hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đang có những cuộc chiến tranh giải phóng
dài nhất thế giới và những cuộc đụng độ với các đối tượng lớn nhất thế giới.
1. Tài năng tổ chức ra tâm lý thời bình ngay cả trong thời chiến
Một trong các giá trị quan trọng nhất tạo ra tính không thể nhầm lẫn đó là tài năng tổ chức ra tâm
lý thời bình ngay cả trong thời chiến.
Khi Johnson đưa nửa triệu quân Mỹ sang Việt Nam và mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền
Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một thông điệp cứu quốc trong đó có đoạn: “Này Tổng thống
Johnson, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá nhưng nhân dân Việt
Nam quyết không sợ…” Hồ Chí Minh gọi tên kẻ thù mà như không có sự phân biệt nào cả. Tôi
nghe không chỉ ngôn từ mà cả lời nói của Hồ Chí Minh và nhận thấy sự khôn ngoan và phải chăng
chính trị của ông, sự phải chăng không đạt đến được đối với những người khác. Hay trong lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến giọng điệu của Hồ Chí Minh vẫn rất hoà bình: “Chúng ta muốn hoà
bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Lời tuyên chiến ấy giống như phản ứng
của một con người đang cày dở thửa ruộng, đang dở dang một công việc rất thông thường của đời
sống con người, tức là ông không dập tắt tâm lý hoà bình ngay cả khi viết lời tuyên chiến. Hồ Chí
Minh đủ tầm nhìn để hình dung ra kết cục của cuộc kháng chiến từ khi nó chưa kết thúc. “Ai có
súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc…” Ông
xếp súng, gươm, cuốc, thuổng, gậy gộc với nhau tức là xếp những công cụ lao động hòa bình cùng
với các công cụ chiến tranh hiện đại, làm cho ngôn ngữ chiến tranh dù rất mạnh mẽ, thôi thúc
nhưng giọng điệu lại rất hòa bình. Đấy chính là thiên tài. Một con người trong tâm tưởng phải hình
dung ra kết cục của cuộc chiến tranh khi nó chưa kết thúc thì mới có đủ trí tuệ để tổ chức ra tâm lý
hoà bình. Và đó chính là tầm nhìn chính trị, là sự trung dung vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Có một thời trong chiến tranh chúng ta cấm hát những bài hát về tình yêu vì sợ ảnh hưởng đến tâm


lý nhất quán của chiến tranh mà không hiểu rằng đó là những nhu cầu tinh thần không thể thiếu
của con người. Người ta quên mất rằng nếu những nhu cầu tinh thần như vậy bị tiêu diệt thì con
người chỉ còn tình yêu đối với chiến tranh. Vậy chiến tranh kết thúc thì con người sẽ quay về cuộc
sống bình thường như thế nào khi con người đã đánh mất các giá trị tinh thần đối với đời sống bình
thường ấy? Hơn ai hết, nhà lãnh đạo, nhà chính trị là người cần phải biết chăm sóc những giá trị
hòa bình của con người để dẫn dắt con người đi qua một cuộc chiến tranh mà vẫn còn là con
người. Hồ Chí Minh nhìn thấy con người trong chiến tranh, sau chiến tranh và hình dung cuộc
sống một cách liên tục. Tầm nhìn con người và tầm nhìn chính trị hợp nhất với nhau tạo ra giá trị
có ý nghĩa thời đại của Hồ Chí Minh. Nếu nhận thức được điều ấy thì chúng ta sẽ hiểu tại sao Hồ
Chí Minh ngay cả sau khi mất vẫn tiếp tục có giá trị.
1
Nếu không nghiên cứu Hồ Chí Minh bằng tâm hồn của con người Hồ Chí Minh mà bằng tâm hồn
chiến tranh thì không thể tìm ra giá trị Hồ Chí Minh đích thực được. Tài năng tổ chức tâm lý thời
bình ngay cả trong thời chiến thể hiện sâu sắc sự phải chăng chính trị hay sự đa dạng của đời sống
tinh thần Hồ Chí Minh. Sở dĩ Hồ Chí Minh có được tài năng ấy là do ông tuân thủ phép biện
chứng về sự đa dạng của đời sống tinh thần con người. Có thể nói, giá trị chính trị sau khi chết
của Hồ Chí Minh là tầm nhìn chính trị của Hồ Chí Minh về thân phận của con người, về cơ
cấu tâm lý của con người, về phép biện chứng tâm hồn của con người. Chúng ta còn thấy cả
điều này trong chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh.
2. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa yêu nước cũng là một giá trị của Hồ Chí Minh, nó không chỉ là một giá trị nhân văn mà
còn là một giá trị chính trị. Thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám và của cả mấy cuộc chiến
tranh trong nửa thế kỷ XX ở Việt Nam chính là kết quả của chủ nghĩa yêu nước mà Hồ Chí Minh
là đại diện tiêu biểu. Có thể nói, giá trị yêu nước là một trong các giá trị quan trọng nhất và phổ
biến nhất của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Marx đem lại cho Hồ Chí Minh khả năng thành công lớn
nhất chứ không phải khả năng thành công duy nhất. Hồ Chí Minh thành công là nhờ lý tưởng yêu
nước của mình cùng với nhận thức đúng đắn về độc lập, tự do, tiếp nữa là biết huy động sức mạnh
của cả dân tộc bằng sự phải chăng chính trị của mình.
Chúng ta có nhiều nhà chính trị yêu nước hay nói cách khác chủ nghĩa yêu nước không phải là độc
quyền của Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh trở thành nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước

Việt Nam là bởi vì ông là nhà chính trị thành công nhất ở Việt Nam. Phần lớn những phẩm chất
trong các giá trị được gọi là thiên tài của Hồ Chí Minh là kết quả của sự chung thủy với các sứ
mệnh chứ không phải là sự kiên nhẫn thông thường. Hồ Chí Minh là người có mục tiêu chính trị rõ
ràng và suốt cả cuộc đời ông đi tìm mục tiêu ấy. “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Đối với Hồ Chí Minh, nhân dân là tất cả nội dung cuộc
sống của ông, nội dung chính trị của ông. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà dân tộc
chủ nghĩa vì ông luôn luôn đặt giải phóng dân tộc lên nhiệm vụ hàng đầu. Một nhà dân tộc chủ
nghĩa có thể là người không phải chăng về chính trị, một người dân tộc chủ nghĩa có thể không
phải là một người có trình độ văn hoá và sự phát triển văn hoá cao, nhưng Hồ Chí Minh lại là
người có trình độ văn hoá phát triển ở mức rất cao. Hồ Chí Minh là một người yêu nước chủ
nghĩa chứ không thuần túy là một nhà dân tộc chủ nghĩa. Hồ Chí Minh tôn thờ độc lập dân tộc chứ
không phải tôn thờ dân tộc bởi vì hơn ai hết, Hồ Chí Minh biết rõ những nhược điểm của dân tộc
mình. Một kẻ dân tộc chủ nghĩa thì chỉ nhìn thấy dân tộc của mình còn người yêu nước là một
người nhìn thấy dân tộc của mình trong mối tương quan với những dân tộc khác. Vì theo chủ nghĩa
yêu nước cho nên Hồ Chí Minh không trở thành một người theo chủ nghĩa Marxist cực đoan được.
Ở đây ranh giới giữa yêu nước chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa cũng phản ánh sự phải chăng
chính trị của Hồ Chí Minh. Sự phải chăng chính trị đã ngăn con người Hồ Chí Minh không trở
thành một người cộng sản cực đoan hay một người dân tộc chủ nghĩa cực đoan và bảo tồn nguyên
vẹn tính đa dạng tinh thần của Hồ Chí Minh.
Chúng ta vẫn nói về việc Hồ Chí Minh kêu gọi đoàn kết nhưng dường như không mấy ai nghiên
cứu xem ông làm thế nào để kêu gọi đoàn kết. Hồ Chí Minh kêu gọi đoàn kết bằng sự phải chăng
chính trị của mình chứ không chỉ thuần túy xem đoàn kết là quan trọng. Theo tôi, nhận định rằng
Hồ Chí Minh tổ chức đoàn kết chính trị bằng sự phải chăng của các phương pháp chính trị là
một phát hiện lý luận quan trọng trong lịch sử chính trị hiện đại Việt Nam. Hồ Chí Minh có lẽ là
người hiểu rõ nhất nguyên nhân thành công của Cách mạng tháng Tám là do sự có mặt của cơ cấu
2
lực lượng đông đảo và đa dạng với rất nhiều trường phái, phong cách và mức độ tự giác về chính
trị. Cơ sở của chủ nghĩa đoàn kết Hồ Chí Minh chính là tính phải chăng chính trị của ông. Sự phải
chăng chính trị ấy thể hiện ở chỗ ông chiếu cố tất cả các lực lượng, các lợi ích, ông tôn trọng tính

đa dạng tinh thần của đời sống chính trị. Cách tiếp cận này mang tính bản năng nhưng có giá trị
khoa học bởi trên thực tế nó xúc tiến được sự đồng thuận. Đối với Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc
là để phấn đấu vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, tức là đoàn kết có mục đích, đoàn kết cho
các mục tiêu cụ thể. Điều này giải thích sự hẫp dẫn của Hồ Chí Minh với tất cả các lực lượng, các
tầng lớp trong xã hội và tạo ra sự thành công của nhà chính trị Hồ Chí Minh.
3. Giá trị nhận thức về tự do, dân chủ
Một giá trị chính trị quan trọng nữa của Hồ Chí Minh là giá trị nhận thức về tự do, dân chủ. Hồ
Chí Minh là người dịch chuyển nhiều, ông tắm trong các nền văn hóa khác nhau, tắm trong những
dòng nước khác nhau của đời sống con người, đặc biệt là tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn
Pháp nên Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc giá trị của tự do, dân chủ. Ông hiểu rất rõ giá trị của con người
và chính vì thế trong ông luôn có khát vọng về nhân quyền. Hồ Chí Minh là nhà chính trị duy nhất
và sớm nhất ở Việt Nam nói về nhân quyền “Con người sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” Đó là nhà chính trị đầu tiên trong lịch sử chính trị của dân tộc
chúng ta nói về nhân quyền một cách công khai, rõ ràng trong tuyên ngôn độc lập do chính ông
soạn thảo.
Hồ Chí Minh khi viết “Tuyên ngôn độc lập” đã hình dung rất rõ ràng nội dung của độc lập và tự
do. Không có sự hình dung mập mờ về độc lập, tự do trong nhận thức của Hồ Chí Minh, trong cảm
nhận tinh thần của Hồ Chí Minh. Trong mỗi con người đều có cái gọi là tinh thần dân tộc, danh dự
dân tộc cho nên ai cũng có khát vọng độc lập dân tộc. Con người mất nước thì con người đi tìm
độc lập dân tộc, tìm độc lập dân tộc thực chất là tìm tự do cho dân tộc. Trong khái niệm độc lập
dân tộc của Hồ Chí Minh luôn bao hàm cả khái niệm tự do, tự do cho dân tộc của mình, cho nhân
dân của mình. Điều đó có nghĩa là nếu kết quả của cách mạng là mang về một gói tự do cho dân
tộc thì cần phải chia gói tự do ấy, phải phân phối gói tự do ấy cho từng con người, phải biến tự do
ấy trở thành quyền con người. Độc lập dân tộc là quyền của các dân tộc mà dân tộc đã tự do thì
con người phải tự do, con người phải được hưởng cả cái tự do công cộng và cái tự do riêng. Một
con người sống trong một cộng đồng độc lập thì con người ấy phải có hạnh phúc. Hạnh phúc của
mỗi người tạo ra hạnh phúc của dân tộc. Hơn ai hết Hồ Chí Minh là người thấu hiểu điều đó.
Nhiều người không hiểu rằng nỗi bức xúc của ông về độc lập dân tộc không phải là sự sĩ diện của
công dân một nước không có độc lập, mà là sự bức xúc của một con người khi thấy dân tộc mình
bị cùm kẹp và nhân dân mình thiếu tự do. Hai trạng thái tâm lý đó rất khác nhau. Bởi nếu như ông

không có khát vọng tự do cho con người mà chỉ có khát vọng độc lập dân tộc thì ông sẽ làm vua.
Ông sẽ được hoan nghênh hơn nhiều bởi các đế quốc nếu ông làm vua, nhưng ông đã không làm
như thế vì khát vọng tự do con người, cho dân tộc của ông lớn hơn. Trong cương lĩnh chính trị của
mình, Hồ Chí Minh phấn đấu vì một nước Việt Nam “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc“. Hồ Chí
Minh đã trở thành một người cộng sản bởi vì vào giai đoạn ấy trạng thái chính trị của thế giới hỗ
trợ những người cộng sản.
Như vậy, cuộc cách mạng của Hồ Chí Minh là cuộc cách mạng về con người, trong đó độc lập dân
tộc chỉ là một chặng. “Nếu độc lập mà không đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân thì độc lập
ấy cũng không có ý nghĩa gì“. Hồ Chí Minh trở thành một thủ lĩnh của phong trào giải phóng dân
tộc thế giới bởi vì ở trong ông có sự cảm thông với thân phận con người, với sự mất nước hay mất
tự do của con người. Hồ Chí Minh hiểu rằng tự do là nguồn sống của con người. Nếu là một nhà
dân tộc chủ nghĩa thì Hồ Chí Minh chỉ nghĩ đến Việt Nam và nếu là một người chỉ nghĩ đến sự
3
nghèo khổ của con người thì ông chỉ trở thành một thủ lĩnh của giai cấp vô sản thế giới. Ngay cả
với những dân tộc không được lãnh đạo bởi chủ nghĩa cộng sản thì Hồ Chí Minh cũng trở thành
tấm gương. Đóng góp của Hồ Chí Minh là sự đóng góp tinh thần vô giá đối với tiến trình phát triển
chính trị thế giới thông qua việc khích lệ sự đòi độc lập dân tộc. Càng ngày, thế giới càng hiểu ra
rằng họ đã may mắn như thế nào khi thoát khỏi chủ nghĩa thực dân. Ngay cả các nước thực dân,
các nước đế quốc cũng thấy rằng họ đã có cơ may thoát ra khỏi chủ nghĩa thực dân như thế nào để
trở về nguyên trạng là các quốc gia lương thiện, và họ càng hiểu được giá trị của Hồ Chí Minh,
càng cảm ơn những con người như Hồ Chí Minh. Khích lệ nhu cầu tự do của con người là một
trong những khích lệ nhân văn nhất. Ai ngăn cản tự do, từ chối tạo điều kiện để con người tự
do, từ chối hỗ trợ con người hình thành khát vọng tự do thì đó là kẻ chống lại con người.
Một trong những cái vĩ đại của Hồ Chí Minh là ông không định làm cho mình giống với nhân dân.
Ông là người tiên phong trong việc làm cho mình giống với lý tưởng về một người lãnh tụ nhân
dân, tức là, ông trở thành vẻ đẹp lý tưởng của nhân dân chứ không phải nhân dân. Đấy là cái khôn
ngoan, cái tinh khôn của Hồ Chí Minh mà hầu như các thế hệ sau không phát hiện ra. Khi xem các
bộ phim tài liệu về Hồ Chí Minh, chúng ta thấy ông đi dọc đường, ông tắm, rồi ông vác cái sào
trên vai để phơi áo… Những hình ảnh đó thật đẹp và lúc nào cũng gây ra sự xúc động ở người
xem. Một con người thênh thang giữa trời, giữa đất, tự do mà gần gũi biết bao. Trong phong thái

Hồ Chí Minh vừa có chất lượng của một nghệ sỹ, vừa có chất lượng của tự do. Đó không phải là tự
do của một người thông thường mà là tự do của một người nghệ sỹ. Đối với người nông dân,
người lao động Việt Nam thì thái độ tự do ấy là một trong những vẻ đẹp vĩ đại nhất mà họ tôn thờ.
Chưa có ai hiểu nhân dân và tự tạo mình thành hình ảnh, thành lý tưởng của nhân dân một cách
vừa hấp dẫn, vừa khôn ngoan như Hồ Chí Minh. Ông mặc chiếc áo bà ba rất Việt Nam, nhưng tác
phong của ông cùng với điếu thuốc lá trên tay và chiếc khăn len Pháp buộc ở cổ thì như là thủ lĩnh
của một nước phương Tây. Hồ Chí Minh đã hiện đại hoá các vẻ đẹp chính trị của mình trở thành
hình mẫu về lý tưởng, về thẩm mỹ con người của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã mất từ cách đây gần 40 năm nhưng rõ ràng chúng ta vẫn thấy ông hiện hữu trong
cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam. Đó là sự tồn tại không phải của con người Hồ Chí
Minh mà là tinh thần Hồ Chí Minh hay là tinh thần tự do Hồ Chí Minh. Mỗi một lúc chúng ta nói,
chúng ta hành động, bỗng nhiên chúng ta lại nhớ đến Hồ Chí Minh bởi đấy là sự bất tử của tinh
thần Hồ Chí Minh. Tinh thần Hồ Chí Minh vẫn đang hiện hữu trong các quy tắc hành xử của con
người bởi vì con người còn tồn tại dưới dạng các giá trị văn hóa nữa. Con người Hồ Chí Minh với
tư cách là một thực thể vật lý thì không còn nhưng con người Hồ Chí Minh với tư cách là các giá
trị tinh thần được cô lại dưới hình thức của những giá trị văn hóa thì vẫn có sức sống mãnh liệt.
Đấy là sự vĩ đại của Hồ Chí Minh.
4

×