CHƯƠNG 1:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TRÌNH THUỶ
CÔNG.
Công trình thủy công được hình thành vào những năm 1500
trước công nguyên. Đó là công tr
ình loại mái nghiêng và loại hố
thuyền
Loại công trình mái nghiêng xuất hiện đầu tiên ở bờ Địa
Trung Hải, ở đây là vùng biển không có thủy chiều. kết cấu đường
trượt rất thô sơ và bằng gỗ. Loại công tr
ình dạng hố thuyền xuất
hiện rất sớm dọc theo bờ Đại Tây Dương, Bạch Hải, ở những vùng
bi
ển này độ chênh mực nước thủy triều rất lớn, do đó người ta lợi
dụng mực nước để đưa tàu lên cạn hoặc xuống nước. khi triều lên,
người ta cho thuyền vào một cái hố kín ba mặt, khi triều rút thuyền
được đặt tr
ên những bệ đá kê sẵn, sau đó dùng đất đắp mặt còn lại
để sửa chữa tàu trong đó. Khi sửa chữa xong cần đưa xuống nước
thì ta đào bỏ mặt đã được đắp chờ nước lên rồi kéo tàu ra ngoài.
Đến đầu thế kỉ 18 bắt đầu xuất hiện ụ tàu có kết cấu bằng đá
xây và dùng máy bơm để hút nước, nên nó đ
ã được xây dựng ở cả
những nơi không có thủy triều. Năm 1702 ụ tàu Salaman một trong
nh
ững ụ khô đầu tiên được xây dựng ở Nga. Vào thời kì này cũng
bắt đầu xuất hiện ụ tàu nổi. Năm 1705 người ta đã dùng sà lan
nâng thuy
ền để sửa chữa.
Đầu thế kỉ 19, công tr
ình nâng tàu đã phát triển một bước
đáng kể về kết cấu, kỹ thuật xây dựng v
à thiết bị sản xuất. Các
công trình bằng bê tông và bê tông cốt thép đã xuất hiện nhiều và
thay th
ế các công trình bằng gỗ và đá xây.
Đầu thế kỉ 20, công nghệ h
àn phát triển vượt bậc thì công
nghi
ệp tàu thủy đã phát triển một bước nhảy vọt về đóng mới, từ
việc đóng đơn chiếc chuyển sang đóng hàng loạt. Trong điều kiện
đó, các công tr
ình thủy công cũng được cải tiến đáng kể, chúng
được trang bị thêm các phương tiện vận chuyển v
à bố trí kết hợp
với bệ tàu tạo thành dây chuyền sản xuất có mức độ cơ giới hóa
cao.
Ngày nay, ngành công nghi
ệp đang phát triển mạnh ở nhiều
nước tr
ên thế giới, hàng loạt con tàu có trọng tải hàng trăm ngàn
tấn được đóng mới, đặc biệt là loại tàu chuyên chở hàng hóa và du
l
ịch. Điều đó nói lên sự phát triển về quy mô, kết cấu của các công
trình nâng, hạ tàu.
Ở nước ta, ngành công nghiệp tàu thủy được hình thành từ
giữa thế kỉ 20, lúc đầu chỉ là những xưởng nhỏ với những thiết bị
còn thô xơ. Đến nay, ngành công nghiệp tàu thủy nước ta đã và
đang phát triển mạnh ở khắp các địa phương trên cả nước, chúng ta
đ
ã đóng được những con tàu có trọng tải hàng trục ngàn tấn như ở
Hình 1.1: Cấu tạo đà dọc.
nhà máy Nam Triệu (Hải Phòng) đóng được tàu có trọng tải
53000DWT. Và trong một tương lai không xa với sự phát triển của
các nhà máy đóng và sửa chữa tàu như, Nam Triệu (Hải Ph
òng),
Dung Qu
ất (Quảng Ngãi), Huyndai Vinashin (Khánh Hòa)…
Chúng ta s
ẽ đóng đựoc những con tàu có trọng tải hàng trăm ngàn
tấn.
1.2 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC CÔNG TRÌNH THỦY
CÔNG.
1.2.1 Công trình hạ thủy nhờ trọng lượng tàu.
1.2.1.1 Đà tàu.
1. Khái niệm.
Đà tàu là một công trình có mặt nghiêng dùng để hạ thuỷ tàu
sau khi đóng mới. Đà tàu bao gồm 2 đoạn:
Đoạn tr
ên khô: là bệ đóng mới
Đoạn dưới nước: là đường trượt
Sau khi đóng xong, tàu tự trượt xuống nước theo mái nghi
êng
nh
ờ trọng lượng bản thân.
2. Đặc điểm chung của đà.
Giá thành xây dựng thấp (chỉ bằng 40-50% ụ tàu).
Công tác duy tu b
ảo dưỡng ít. Kết cấu đơn giản
Có thể đóng mới loại tàu có trọng tải dưới 20000T
Với việc hạ thủy tàu yêu cầu khu nước phải có kích thước lớn
Việc hạ thuỷ tàu không an toàn, dễ gây ứng suất phụ làm biến
dạng thân tàu
K
ỹ thuật hạ thuỷ khó khăn và phải kê thêm các đường trượt
(nếu hạ thuỷ tàu lớn) làm cho giá thành đà và đường trượt tăng
cao, khối lượng công việc hạ thuỷ tăng lên
Khó b
ố trí hợp lý dây chuyền công nghệ sản xuất, nhất là
vi
ệc bố trí mặt bằng tổng thể và giao thông nội bộ.
3. Phân loại đà tàu.
Theo phương pháp hạ thủy và vị trí đóng mới
Đà dọc: là đà có trục dọc thẳng góc với tuyến bờ khi hạ thủy
tàu chuyển động theo dọc thân tàu
Đà ngang: là đà có trục dọc song song với tuyến bờ khi hạ
thủy tàu chuyển động theo phương ngang thân tàu
Theo hình thức kết cấu
Đà có móng nổi: móng nổi dùng để đưa phần dưới nước lên
kh
ỏi mặt nước, bôi dầu mỡ và lắp đường trượt tạm thời
Đà có đê quai sanh: dùng đê bao phần dưới nước có cánh
phai để bơm khô nước rồi bôi dầu mỡ vào đường trượt tạm thời để
hạ thủy tàu
Đà có đường trượt thông thường: dùng để hạ thủy tàu không
l
ớn nên không làm thêm móng nổi hoặc đê quai. Việc bôi dầu mỡ
và lắp đường trượt tạm thời thực hiện bằng cách lợi dụng mực
nước thấp của thủy triều
4. Các bộ phận chủ yếu của đà.
Bệ tàu: là bộ phận ở trên cạn, là nơi tiến hành đóng tàu. Mỗi đà
ch
ỉ có một bệ giống như bệ trong triền hay ụ nước, nhưng khác ở
chỗ bệ tàu là một mặt nghiêng với phương nằm ngang một góc nào
đó, còn bệ trong triền hay ụ nước là mặt nằm ngang.
Đường trượt: là phần nối tiếp với bệ tàu kéo dài xuống dưới
nước và dùng để hạ thủy t
àu. Có kết cấu vững chắc hơn bệ vì chịu
tải trọng động
Hố sâu: được làm ở cuối đường trượt để đảm bảo an toàn khi
h
ạ thủy
Đường trượt tạm thời: là bộ phận để tàu trượt trên nó khi xuống
nước. Đường trượt tạm th
òi làm bằng gỗ và dùng riêng cho từng
chiếc tàu, vì nó được lắp vào đường trượt sau khi tài đã đóng xong.
Chỉ dùng lúc hạ thủy, khi hạ thủy xong nó được tháo ra và đưa lên
cạn
Đệm lườn tàu: là những thanh chống hai bên lườn tàu, có tác
d
ụng chống đỡ để tàu không bị lay động trong khi chế tạo
Đệm sống tàu: là những gối tựa kê đỡ thân tàu khi đóng, trọng
lượng t
àu chủ yếu đặt lên đệm sống tàu. Nó có thể là những căn cát
ch
ồng lên nhau hoặc gỗ. Cứ 1,25 - 2,5m thì đặt một đệm có chiều
cao không thấp hơn 1,2m, tốt nhất khoảng từ 1,4 - 1,6m để tiện
làm việc dưới đáy tàu, với tàu rất nhỏ có thể lấy nhỏ hơn 1m
Đê quai xanh: chỉ có tác dụng để lắp đường trượt tạm thời đoạn
dưới nước. Khi cần lắp th
ì đóng cửa phai bơm nước ra, lắp xong
đường trượt tạm thời th
ì lại tháo cửa phai để cho tàu trượt