HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
KHOA QUỐC TẾ VÀ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
*********
Bài tập tiểu luận môn Triết Học
Vai trò của cách mạng khoa học kỹ thuật
với sự nghiệp đổi mới hiện nay
Nhóm thực hiện: Nguyễn Trường Giang (Trưởng Nhóm)
Nguyễn Hồng Hạnh
Đỗ Việt Phương
Giảng viên hướng dẫn: Ths Nguyễn Thị Hồng Vân
Lớp: Truyền dữ liệu và mạng máy tính - M11CQCT01-B
Hà Nội, tháng 12 - 2011
TiÓu luËn triÕt häc
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài 3
!"#
$%&'()*+&' !",
#-./&.01)!23)4.056*
7/8
#9.:;<8
#$-..+ =
$%>'?#
$$%&)/"<*>@
$#%&/6*>A
$@B"&*>A
$A>'8
$C9D*>E5F"&!G7/$$
Chương 3. Khoa học - Công nghệ với sự nghiệp đổi mới hiện nay 26
#B"&.0.H*G>5E!IJJ5K*53.
.F$C
#$BK5"&*>$8
##!(#@
#@-5>G/"&F@
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 1
TiÓu luËn triÕt häc
LỜI NÓI ĐẦU
Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia
và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Bước vào thế
kỷ XXI, các lĩnh vực chính trị, quân sự, kỹ thuật, văn hoá, giáo dục-đào tạo,
môi trường … đều có những biến đổi sâu sắc. Cùng với sự xuất hiện các cơ
hội phát triển mới, nguy cơ tụt hậu về kinh tế, khoa học và công nghệ thông
tin … sẽ là những thách thức lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới.
Nhờ vận dụng nhanh chóng những thành tựu mới của khoa học công
nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả làn sóng đối với công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học … Cục diện hiện nay
của nhiều khu vực và nhiều nước trên thế giới đã có sự thay đổi về căn bản
trên quy mô toàn cầu, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhiều nước đang
tiến nhanh vào kỷ nguyên thông tin, trong đó cơ cấu sản xuất và nền tảng của
sự tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa vào việc nghiên cứu và ứng dụng những
thành tựu của khoa học công nghệ.
Khoa học - công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt
các cơ hội phát triển mới, rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới và làm biến đổi nền sản
xuất, điều này kéo theo sự thay đổi lớn trong các lĩnh vực kinh doanh cũng
như trong quản lý của mỗi một đơn vị doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa
học công nghệ cũng làm cho quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và
các quốc gia trở nên khốc liệt. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý kinh tế phải
có những chính sách phù hợp để phát triển nền sản xuất kinh doanh và thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá phát triển mạnh.
Nhóm sinh viên chúng em đã chọn đề tài: “Vai trò của cách mạng
khoa học công nghệ với sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam”. Nhưng
do kiến thức và kinh nghiệm còn ít, sự nghiên cứu về đề tài còn nhiều thiếu
sót, kính mong cô giúp đỡ và chỉnh sửa những thiếu sót giúp chúng em để
chúng em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 2
TiÓu luËn triÕt häc
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Cách đây hơn 100 năm, C.Mác đã dự đoán: “Đến một trình độ phát
triển nào đó thì “tri thức xã hội phổ biến” (khoa học) biến thành “lực lượng
sản xuất trực tiếp” ”. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
luận điểm đó của C.Mác đang dần trở thành hiện thực một cách đầy thuyết
phục.
1.1. Những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Khoa học và cùng với khoa học là công nghệ là những thành tố cơ bản
của lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học được vật hóa thành công cụ sản
xuất (công cụ lao động), như máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…, đó là yếu tố
động nhất và có vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất. Trong quan
hệ sản xuất, tri thức khoa học có mặt trong khoa học quản lý, tổ chức và phân
phối. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội nói chung, của phương
thức sản xuất nói riêng, vai trò của khoa học và công nghệ cũng ngày càng
được nâng cao, ngày càng thể hiện rõ ràng dưới dạng một thực tiễn xã hội
trực tiếp nhờ vào quá trình không ngừng biến đổi và hoàn thiện dần của
chúng. Từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, ngày nay, khoa học và công
nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bước chuyển này không
phải là ngẫu nhiên, mà chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện nhất định hay
“một trình độ phát triển nào đó” như C.Mác đã dự đoán. Vậy, những điều
kiện đó là gì?
Điều kiện đầu tiên phải thuộc về sản xuất: nền sản xuất xã hội phải đạt
đến một trình độ phát triển cao, tạo cơ hội và địa bàn để khoa học và công nghệ
phát huy vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp của mình.
Trong những nền sản xuất xã hội còn ở trình độ phát triển thấp trước
đây, khoa học không thể trực tiếp đi vào sản xuất, mà phải trải qua khâu trung
gian thực nghiệm khoa học, nhiều khi kéo dài hàng trăm năm. Tri thức khoa
học phải thông qua một quá trình thực nghiệm khoa học lâu dài, phức tạp, con
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 3
TiÓu luËn triÕt häc
người mới tìm ra cách vận dụng những thành tựu thu được qua thực nghiệm đó
vào sản xuất. Quá trình này thường diễn ra rất chậm chạp. Trong điều kiện như
vậy, khoa học chỉ có thể biểu thị như một lực lượng sản xuất tiềm năng, chứ chưa
thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ngày nay, khi sản xuất xã hội đã đạt đến trình độ phát triển cao, nhất là
ở các nước công nghiệp phát triển, chính sản xuất lại đặt ra những vấn đề
mới, phức tạp, đòi hỏi khoa học phải có phương thức giải quyết phù hợp, kịp
thời nhằm thúc đẩy sản xuất tiếp tục phát triển và qua đó, khoa học cũng phát
triển theo. Như vậy, trong điều kiện xã hội ngày nay, sản xuất đã tạo ra những
cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng, những nhu cầu cấp thiết cho sự xuất hiện
những tri thức khoa học mới, những ngành khoa học mới. Đến lượt mình,
những tri thức khoa học mới lại được nhanh chóng vật hóa để trở thành công
cụ sản xuất mới và trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất. Ở đây, khoa
học không phục vụ sản xuất một cách thụ động, mà tham gia một cách tích
cực, chủ động và trở thành một yếu tố không thể thiếu được của lực lượng sản
xuất nói riêng, của quá trình sản xuất xã hội nói chung. Do vậy, chỉ có đến lúc
này, khoa học mới có đầy đủ điều kiện để trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
Điều kiện thứ hai thuộc về sự phát triển của bản thân khoa học:
khoa học phải đạt đến một trình độ phát triển cao đến mức đủ sức giải quyết
những vấn đề cấp thiết do thực tiễn xã hội, đặc biệt là những vấn đề do thực
tiễn sản xuất trực tiếp đặt ra.
Trong nền khoa học hiện đại, không một vấn đề nào do sản xuất đặt ra
mà tri thức của một ngành khoa học, thậm chí là của vài ngành khoa học cụ
thể, có thể tự thân giải quyết được hoàn toàn. Bởi vậy, ngày nay, sự thống
nhất khoa học, tổng hợp tri thức khoa học là xu hướng phát triển tất yếu của
khoa học và điều này cũng hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thực tiễn sản
xuất hiện đại. Trong thời đại ngày nay, trong khoa học đang diễn ra quá trình
tương tác mạnh mẽ giữa các khoa học, quá trình liên kết khoa học theo hướng
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 4
TiÓu luËn triÕt häc
tổng hợp tri thức của các khoa học hiện đại nhằm giải quyết những vấn đề
bức xúc do thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội đặt ra, như vấn đề khai thác
và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
sống, vấn đề phát triển bền vững, vấn đề hội nhập toàn cầu mà trước hết, là
hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là những vấn đề về con người (tăng cường
sức khỏe, phòng, chống bệnh tật, nâng cao tuổi thọ, và sự phát triển toàn diện
cả về thể chất lẫn tinh thần của con người…). Bởi thế, sự phát triển của khoa
học nói riêng, xã hội nói chung đều nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu
ngày càng cao của con người, phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con
người với tư cách một thực thể sinh học - xã hội, một thực thể sống hài hòa
giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Những khám phá mới của
khoa học về con người, như làm rõ nguồn gốc và bản chất của con người, lập
và giải mã bản đồ gien người, nhân bản vô tính người, làm rõ vai trò và chức
năng của tế bào gốc ở người, trí tuệ nhân tạo, những khả năng còn tiềm ẩn ở
con người, v.v. đang chứng tỏ rằng, con người không chỉ là chủ thể sáng tạo
khoa học, chủ thể của quá trình sản xuất xã hội, của lịch sử, mà còn là đối
tượng khai thác của khoa học và công nghệ hiện đại.
Rõ ràng là, ngày nay, khoa học đang tiến rất gần đến mục tiêu như
C.Mác đã tiên đoán: “Khoa học tự nhiên bao hàm trong nó khoa học về con
người cũng như khoa học về con người bao hàm trong nó khoa học tự nhiên:
đó sẽ là một khoa học”. Với trình độ phát triển cao như hiện nay, khoa học
hoàn toàn có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều kiện thứ ba để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực
tiếp là sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước, nhất là ở các nước công
nghiệp phát triển; là xu thế toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế
trên cái nền của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt
là cách mạng công nghệ thông tin. Nhờ sự phát triển của công nghệ hiện đại,
mà chủ đạo là công nghệ thông tin, những phát minh, những thành tựu mới
của khoa học không còn là sở hữu riêng, độc quyền của các nhà khoa học hay
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 5
TiÓu luËn triÕt häc
của các nước có những phát minh đó; chúng đã nhanh chóng lan tỏa đi khắp
thế giới và được ứng dụng kịp thời vào quá trình sản xuất xã hội ở nhiều nước
khác nhau, bằng nhiều cách thức khác nhau, như chuyển giao công nghệ,
nhượng quyền sử dụng, mua bán phát minh, sáng chế, thông qua các công ty
liên quốc gia, v.v Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, WTO (Tổ
chức Thương mại thế giới) đang giữ vai trò rất quan trọng. Chính sự liên
minh, liên kết toàn cầu về kinh tế này đã tạo địa bàn, tạo cơ hội thuận lợi thúc
đẩy khoa học nhanh chóng đi vào sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
Điều kiện thứ tư để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp
đó chính là sự thấm nhuần sâu sắc, dù dưới hình thức tự giác hay tự phát,
nguyên lý triết học mácxít về sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn, mà nếu ứng dụng vào quá trình sản xuất vật chất thì đó là sự thống
nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động khoa học. Theo nguyên lý
về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thực tiễn sản xuất xã hội vừa là
nguồn gốc, động lực, mục tiêu của nhận thức khoa học, vừa là tiêu chuẩn của
chân lý. Thực tiễn sản xuất xã hội kiểm nghiệm tính đúng đắn của tri thức
khoa học. Do vậy, việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là con
đường ngắn nhất, đáng tin cậy nhất để xác định độ chính xác, tính khoa học,
tính chân lý của tri thức khoa học. Sự thống nhất giữa thực tiễn (hoạt động
sản xuất xã hội) và lý luận (tri thức khoa học) là đặc trưng cơ bản của xã hội
hiện đại, được xây dựng trên cơ sở của nền sản xuất hiện đại và nền khoa học
tiên tiến.
Như vậy, cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của khoa học ngày
càng được tăng cường, nhất là trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học vừa là sự biến đổi, là
quyền lực, là sự giàu có, thịnh vượng, vừa là một trong những yếu tố quan
trọng nhất quyết định sự phát triển, sự thịnh suy của một công ty, một dân tộc,
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 6
TiÓu luËn triÕt häc
một đất nước, một khu vực trong cuộc cạnh tranh khốc liệt về kinh tế của thế
giới hiện đại.
1.2. Các hình thức biểu hiện của quá trình khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp
Quá trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất có nhiều biểu hiện
khác nhau, song, ở đây, chúng tôi chỉ có thể nêu lên một số biểu hiện chủ yếu.
Trước hết, tri thức khoa học được vật hóa thành các công cụ sản xuất ngày
càng tinh xảo hơn, càng hoàn thiện hơn và nhanh hơn. Đó là các loại máy
móc, trang thiết bị dùng trong công nghệ thông tin, như máy vi tính, máy siêu
vi tính, mạng Internet; trong công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học,
công nghệ năng lượng mới, công nghệ nguyên tử, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ nano, v.v Các thế hệ người máy (robot) ngày càng hoàn thiện, có
thể đảm nhiệm không chỉ các chức năng về trí tuệ, mà cả cảm xúc. Ngày nay,
các máy móc, trang thiết bị được tạo ra từ tri thức của khoa học hiện đại được
sử dụng trong các công nghệ hiện đại không chỉ mang lại hiệu quả và năng
suất lao động cao hơn, chất lượng tốt hơn, mà còn góp phần quan trọng vào
việc tiết kiệm nguyên vật liệu; tạo ra các loại vật liệu mới vốn không có sẵn
trong tự nhiên; giảm thời gian lao động phải chi phí cho một đơn vị sản phẩm.
Thực tế sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển đã cho thấy rằng, tri thức
khoa học ngày càng chiếm hàm lượng cao hơn trong giá trị các sản phẩm làm
ra, nguồn lợi do khoa học mang lại cũng ngày càng lớn hơn. Điều đó được thể
hiện ở chỗ, nếu như trong những năm đầu của thế kỷ XX, khi chỉ có một bộ
phận nhỏ của thế giới, chủ yếu là các nước tư bản phát triển ở phương Tây
bước vào công nghiệp hóa, khi sự phát triển của khoa học chưa sự gắn kết
chặt chẽ với kỹ thuật và sản xuất, thì lao động cơ bắp của con người, tính
trung bình, chiếm một tỷ lệ rất cao, lên đến 9/10 trong giá trị sản phẩm. Đến
những năm 90 của thế kỷ trước, khi hầu hết các nước trên thế giới đã và đang
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và ở nhiều nước đã và đang diễn ra
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 7
TiÓu luËn triÕt häc
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng khoa học - công nghệ, tỉ lệ
đó đã giảm xuống còn khoảng 1/5 hoặc thấp hơn, trong khi đó, số lượng sản
phẩm tăng khoảng hơn 10 lần. Với đà phát triển tiếp tục của khoa học và công
nghệ hiện đại, tỉ lệ trên còn tiếp tục giảm mạnh. Trong thời đại thống trị của
công nghệ thông tin, trí năng hóa sản xuất đang là xu hướng tất yếu và cũng là
động lực mạnh mẽ của sự phát triển sản xuất nói riêng, sự phát triển của xã
hội nói chung.
Một biểu hiện quan trọng khác là ở chỗ, khoa học, công nghệ cùng với
quá trình giáo dục - đào tạo đã và đang tạo ra những con người lao động
mới. Đó là những người lao động chất xám vừa có trí tuệ sáng tạo, có tri thức
chuyên môn sâu một hoặc một vài ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, có tầm
nhìn xa, bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau. Họ là những người rất năng động,
nhạy bén, tinh thông một nghề và vững vàng trong nghề nghiệp được đào tạo,
nhưng cũng có thể làm được nhiều nghề khác nhau để khi cần phải chuyển
đổi thì sẵn sàng chuyển đổi. Người lao động với sức lao động, với thói quen
và kinh nghiệm nghề nghiệp, với tri thức khoa học - kỹ thuật đã được trang bị
chính là lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực, là động lực to lớn và quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của xã
hội.
Ngoài việc đào tạo ra nguồn nhân lực mới với đầy đủ những phẩm chất
cần thiết, đáp ứng được nhu cầu của sản xuất hiện đại, khoa học còn trực tiếp
tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối sản
phẩm. Với chức năng này, khoa học không chỉ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, mà còn là yếu tố không thể thiếu trong quan hệ sản xuất. Ngày nay,
việc tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất ở bất kỳ cấp độ nào: trong một dây
chuyền sản xuất, trong một phân xưởng, một xí nghiệp, một liên hợp các xí
nghiệp, v.v. đều rất cần đến tri thức khoa học, nhất là tri thức của khoa học
quản lý. Cùng một thế hệ máy móc như nhau, cùng sản xuất ra một loại sản
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 8
TiÓu luËn triÕt häc
phẩm như nhau, nếu biết tổ chức, quản lý, điều hành công việc một cách hợp
lý, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
Không chỉ thế, việc quản lý, điều hành trong sản xuất cũng như trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội đã có những biến đổi về chất so
với trước đây, như nhanh nhạy, chính xác, kịp thời nhờ có sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin. Xã hội ngày nay là xã hội đang được tin học hóa. Trong xã
hội thông tin, kẻ giàu, kẻ mạnh, kẻ chiến thắng không phải là kẻ trường vốn,
kẻ giàu về vật chất cụ thể, mà chính là kẻ biết nắm bắt một cách nhanh nhạy
các thông tin, đặc biệt là các thông tin khoa học - công nghệ và thông tin về
thị trường. Bởi vì, nhờ nắm bắt được thông tin mà thay đổi công nghệ để có
thể kịp thời sản xuất ra những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu và thị hiếu
của người tiêu dùng, giúp cho việc lưu thông hàng hóa nhanh hơn. Việc nắm
bắt thông tin kịp thời, nhanh chóng, chính xác còn giúp cho người sản xuất,
kinh doanh mở rộng thị trường, dự báo và đón đầu nhu cầu, thị hiếu của
người tiêu dùng và xã hội, nhờ đó, có thể giành được chiến thắng trong cuộc
cạnh tranh gay gắt trên thương trường.
1.3. Khoa học trở thành một lực lượng cách mạng, biến đổi căn bản diện
mạo và tính chất của nền sản xuất xã hội
1.3.1. Về mặt lý luận
Trong thời kỳ cổ đại, việc sử dụng khoa học vào sản xuất còn ít ỏi,
trồng trọt, chăn nuôi và nghề thủ công chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm.
Từ thế kỷ XVII, khoa học phát triển, vai trò của khoa học ngày càng quan
trọng đối với sản xuất và đời sống. Nền công nghiệp cơ khí lớn sẽ không thể
có được nếu không có sự vận dụng tự giác những quy luật của tự nhiên do
khoa học khám phá ra. Càng về sau, khoa học càng tác động mạnh mẽ đến
sản xuất, khoa học trở thành một lực lượng cách mạng, biến đổi căn bản diện
mạo và tính chất của nền sản xuất xã hội. Trong sự phát triển của lực lượng
sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 9
TiÓu luËn triÕt häc
gắn liền với sản suất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngày nay khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của
nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “ Lực lượng
sản xuất trực tiếp”. Khoa học ngày càng thu nhận được những xung động lực
mới mạnh mẽ cho sự phát triển của mình, bởi vì bản thân việc áp dụng khoa
học vào sản xuất trực tiếp đối với nó, đã trở thành một trong những yếu tố
quyết định và thúc đẩy khoa học tiếp tục phát triển.
Quá trình tự động hóa sản xuất do cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật
đem lại đã mở ra một thời đại mới cho sự tiến bộ kỹ thuật gắn với những
thành tựu khoa học trong lĩnh vực điện tử, tin học, kỹ thuật máy tính, kỹ thuật
điều khiển tự động. Điều đó tạo ra khả năng chuyển sang những hình thức tự
động hoá cao nhất, tự động hoá toàn bộ phân xưởng hoặc cả nhà máy, tạo ra
những “nhà máy không có người”. Những biến đổi căn bản trong lực lượng
sản xuất hiện nay đang được hoàn thành tự động hoá hoàn toàn nền sản xuất
trên quy mô toàn xã hội. Trong điều kiện cách mạng khoa học – kỹ thuật, máy
móc ngày càng thực hiện nhiều chức năng mà trước đây chính con người phải
đảm nhiệm. Đồng thời nhờ những khả năng gắn với việc tự động hoá quá
trình sản xuất và với việc chuyển sang cho các máy tính một loạt những thao
tác trí tuệ, con người được giải phóng để tiến hành những hoạt động riêng biệt
của mình như hoạt động sáng tạo, thiết kế và lập đề án. Như vậy, tiến bộ kỹ
thuật là nhân tố cực kỳ quan trọng để tăng năng suất lao động, để phát triển
lực lượng sản xuất của xã hội và qua đó làm biến đổi cả bản thân con người.
Cách mạng khoa học – kỹ thuật làm thay đổi tận gốc các yếu tố của lực
lượng sản xuất. Nó tạo điều kiện tìm ra và sử dụng những nguồn năng lượng
mới, chế tạo ra hàng loạt những vật liệu nhân tạo với những thuộc tính hoàn
toàn mới, thực hiện tự động hoá từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất,
đổi mới nhanh chóng công nghệ, tự động hoá cả các quá trình quản lý. Cách
mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại là sự cải tổ căn bản trong sự phát triển của
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 10
TiÓu luËn triÕt häc
lực lượng sản xuất mà những nét chủ yếu của nó là biến khoa học thành lực
lượng chủ đạo của sản xuất, áp dụng quản lý tự động hoá, sử dụng các
phương pháp công nghệ của sản xuất và những hình thức tổ chức sản xuất.
Như vậy, bước sang thế kỷ XXI, khoa học đã phát triển cực kỳ mạnh
mẽ và nhanh chóng, vai trò của khoa học đối với đời sống cũng như mối quan
hệ giữa khoa học và thực tiễn, sản xuất biến đổi to lớn, khoa học đã thâm
nhập vào mọi lĩnh vực, mọi quá trình và mọi mặt của đời sống xã hội và đã
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
1.3.2. Kiểm nghiệm qua thực tiễn
Ngày nay toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành
một xu thế khách quan của thế giới đương đại. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế bắt
nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hoá của lực
lượng sản xuất trên phạm vi quốc gia và quốc tế, từ nền kinh tế thị trường thế
giới. Sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với
quá trình biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát triển của
các công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ vũ trụ ) đã làm thay đổi về chất lực lượng sản xuất của
loài người, đưa loài người từ nền văn minh công nghiệp lên văn minh tin học,
từ cơ khí hoá sản xuất lên tự động hoá, tin học hoá sản xuất. Cách mạng khoa
học và công nghệ đang tạo ra những biến đổi căn bản và sâu sắc không những
trong công nghệ, trong sản xuất, mà còn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Nửa sau của thế kỷ XX, nhất là trong những thập kỷ cuối, loài người
đang chứng kiến những thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội do ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của cuộc cách mạng khoa học – kỹ
thuật hiện đại. Với việc phát triển và phổ cập nhanh chóng của vi điện tử,
công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ, v.v người ta ngày càng nói nhiều tới
cái gọi là “chiến tranh công nghệ” và coi công nghệ là biến số có ý nghĩa
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 11
TiÓu luËn triÕt häc
chiến lược trong lựa chọn con đường phát triển quốc gia. Ngày nay các nước
kém phát triển buộc phải hành động theo một phương châm hoàn toàn mới là
hoặc bắt đầu kịp thời “hoặc không bao giờ đuổi kịp” các nước phát triển. Đặc
biệt nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để
tiến lên chủ nghĩa xã hội nên vấn đề ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
đóng vai trò quan trọng. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ:” Khoa
học và công nghệ hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản
phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, xây dựng
năng lực công nghệ quốc gia, ứng dụng một cách sáng tạo những công nghệ
nhập khẩu, từng bước tạo ra những công nghệ mới. Đi nhanh vào một số
ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh học,
vật liệu mới, tự động hoá). Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi
mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học
và công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ. Có chính sách
khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công
nghệ”.
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 12
TiÓu luËn triÕt häc
Chương 2. Những lý luận chung về công nghệ
2.1. Công nghệ là gì ?
Công nghệ luôn được hiểu theo một nghĩa rộng là sự ứng dụng các tri
thức khoa học vào giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn. Như vậy công nghệ là
một sản phẩm do con người tạo ra, làm công cụ để sản xuất ra của cải vật
chất. Cho tới này định nghĩa về công nghệ chưa toàn diện thống nhất, điều
này được lý giải là do số lượng các công nghệ có nhiều đến mức không thể
thống kê được. Người sử dụng công nghệ trong những điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau dẫn đến sự hiểu biết về công nghệ cũng khác nhau.
Theo UNIDO (United Nation’s Industrial Development organization)
tổ chức phát triển công nghệ của liên hợp quốc thì : công nghệ là việc áp
dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên
cứu và sử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
Theo ESCAP (Economic and Social Commission for asia and the Pacific)
uỷ ban kinh tế và xã hội châu á Thái Bình Dương thì : công nghệ là một
hệ thống kiến thức về quy trình kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và
thông tin. Sau đó ESCAP mở rộng định nghĩa của mình: Nó bao gồm tất
cả các kỹ năng kiến thức thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất
chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin.
Định nghĩa này được coi là bước ngặt trong lịch sử quan niệm về công
nghệ. Định nghĩa này không coi công nghệ phải gắn chặt với quá trình sản
xuất chế tạo ra các sản phẩm cụ thể mà mở rộng khái niệm ra các lĩnh vực
mới như dịch vụ và quản lý.
Cuối cùng một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ : công
nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 13
TiÓu luËn triÕt häc
2.2. Các bộ phận cấu thành của công nghệ
Công nghệ là phương tiện để giải quyết các mục tiêu kinh tế nên thước
đo của hoạt động công nghệ là phần tăng trưởng kinh tế, góp phần vào việc
nâng cao năng suất lao động, thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội.
Công nghệ phụ thuộc vào môi trường kinh tế, môi trường xã hội trong
thực tế. Yêu cầu chất lượng, xu thế phát triển của thị trường, sản phẩm là
nhân tố hạn chế sự lựa chọn. Đồng thời lựa chọn công nghệ lại bị ràng buộc
bởi quan hệ buôn bán trong nước và quốc tế, do đó vấn đề áp dụng công nghệ
vào quá trình phát triển kinh tế giải quyết một mục tiêu cụ thề là một tập hợp
các vấn đề cần tính toán và đồng bộ.
Bất cứ một công nghệ nào, dù công nghệ đơn giản hay công nghệ phức
tạp thì cũng đều được cấu thành từ 4 yếu tố cơ bản, bốn thành phần đó tác
động qua lại lẫn nhau và hợp thành một chính thể khoa học.
Con người- đội ngũ lao động kỹ thuật vận hành điều khiển và quản lý có
kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm (Human ware - Viết tắt là H)
Thiết bị máy móc, dụng cụ, phụ tùng. Đây là phần vật chất, phần cứng
của công nghệđược gọi là kỹ thuật (Techro ware - viết tắt là T)
Thông tin dữ liệu, dữ kiện, thuyết minh kỹ thuật, đặc trưng kỹ thuật, tài
liệu hướng dẫn (Inforware- viết tắt là I)
Quản lý là chỉ các hoạt động giữ mối liên kết trong phân bổ các nguồn
lực, thiết kế và thực thi các chính sách quản lý sản xuất và kinh doanh. Có
thể gọi đây là phần tổ chức của công nghệ (Orga ware - viết tắt là O)
Vậy trong 4 bộ phận cấu thành cơ bản đó thì con người đóng vai trò chủ
đạo trong quá trình vận hành và biến đổi công nghệ. Nhờ đó sử dụng tốt hơn
các nguồn lực, thiết bị là cốt lõi. Nhưng thiết bị lại do con người lắp đặt và
vận hành: thông tin là sự tích luỹ kiến thức. Khối lượng kiến thức càng tăng
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 14
TiÓu luËn triÕt häc
càng đỏi hỏi công tác quản lý thông tin ngày càng cao; tổ chức là quá trình
điều phối thông tin.
Nhận xét tổng thể lại, con người, thiết bị cùng với vật tư tạo thành các
nguồn lực cho sản xuất và kinh doanh, hay nói một cách khác công nghệ được
phân thành :
Phần cứng là sản phẩm tồn tại ở dạng vật chất.
Phần mềm là sản phẩm của trí tuệ, các bí quyết thông số, phương pháp…
2.3. Các thuộc tính của công nghệ
Công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt, tuy nhiên với tư cách là một hệ
thống công cụ chế biến vật chất và chế biến thông tin, hàng hoá công nghệ có
những thuộc tính riêng. Các thuộc tính này quy định và ảnh hưởng trực tiếp
đến việc mua bán định giá, trao đổi, sử dụng công nghệ. Công nghệ bao gồm
4 thuộc tính cơ bản :
Tính hệ thống
Tính sinh thể
Tính đặc thù
Và tính thông tin
Cũng như 4 bộ phận cấu thành một công nghệ, 4 thuộc tính cơ bản này
cũng có thể được xem là 4 tiêu thức cơ bản để mọi người có thể nhìn nhận
một công nghệ.
2.4. Sự phát triển chung của công nghệ
Con người là chủ thể của sản xuất và là yếu tố quyết định. Song sự phát
triển của con người về tri thức và kỹ năng sản xuất thì lại biểu hiện hay kết
tinh ở tư liệu lao động. Việc sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động tuy
đã có mầm mống ở một vài loài động vật nào đó. Nhưng vẫn là một nét đặc
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 15
TiÓu luËn triÕt häc
trưng riêng của quá trình lao động của con người. Đối với việc đánh giá
những hình thái kinh tế xã hội cũng nhưđánh giá sự phát triển của tiến bộ
khoa học loài người thì chúng ta nên đánh giá từ những mốc lịch sử khám phá
sơ khai của loài người.
Những thời đại Kinh tế khác nhau ở chỗ không phải là chúng sản xuất ra
cái gì mà là chúng sản xuất bằng cách nào. Với những tư liệu lao động gì và
khám phá được gì cho nền sản xuất kinh doanh. Như vậy sự phát triển của kỹ
thuật công nghệ có thể được biết tới qua những mốc lịch sử lớn sau đây:
Thứ nhất - những công cụ nguyên thuỷ: hòn đá, cây gậy nhọn, cung tên và
những tư liệu lao động khác như ngọn lửa, một số động vật được thuần
dưỡng … Đây có thể xem như là sự khám phá tìm tòi. Nghiên cứu cùng
như là những phát minh của con người ở thủa còn sơ khai.
Thứ hai - thời đại đồ đá, đây là một giai đoạn phát triển khá dài vàđược
phân rõ thành 2 giai đoạn:
o Thời đại đồ đá cũ
o Thời đại đồ đá mới
Thứ ba - thời đại đồ đồng
Thứ tư - thời đại đồ sắt
Thứ năm - thời đại cơ khí hoá. Mở đầu bằng cuộc công nghệ công nghiệp
cuối thế kỷ 18 và được phát triển mạnh hơn cao hơn với việc ứng dụng
rộng rãi của điện khí hoá từđầu thế kỷ 19.
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hay còn gọi là cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ. Khởi đầu từ những thập niên 50 của thế kỷ 20 với tên
gọi này người ta muốn nhấn mạnh đến sự kết nối trực tiếp từ những phát minh
khoa học đến những ứng dụng vào kỹ thuật công nghệ. Nếu trước đây từ
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 16
TiÓu luËn triÕt häc
những phát minh khoa học đến những ứng dụng vào kỹ thuật công nghệ
thường phải mất một thời gian khá dài, có khi cả trăm năm, nghìn năm, thì
ngày nay khoảng cách đó được rút ngắn đi rất nhiều. Vào thời đại của C.Mác
đã sớm nhận thấy xu hướng ấy khi đưa ra nhận định : “Khoa học ngày trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp”
Ở Châu Âu, sau đêm dài trung cổ, nhiều ngành khoa học đã có bước phát
triển nhảy vọt trong 2 thế kỷ 17 và 18. Khởi đầu là toán học, thiên văn học,
vật lý học, hoá học, với những nhà bác học điển hình như :
Galia (1564- 1642) là nhà thiên văn học người Italia. Người đầu tiên dùng
kính viễn vọng quan sát mặt trời, mặt trăng và các hành tinh. Ông nổi tiếng
về công lao chứng minh thuyết vũ trụ của Copernic, phát minh ra luật quán
tính, luật rơi tự do…
Newton (1642- 1727) nhà khoa học người Anh, ông là nhà toán học, vật lý
học, thiên văn học, cơ học, phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn. Các
quy luật của cơ học cổ điển … kể từ đây, mở ra thời kỳ mới- thời đại cơ
giới hoá.
Leonard de Vinci- danh hoạ vĩ đại. Ông đã vẽ các kiểu máy tiện, máy
bơm, vũ khí, máy bay, nghiên cứu địa chất.
Copernic (1473-1543)-người Ba Lan, phát hiện ra mặt trời là trung tâm vũ
trụ.
Lavoisier (1743-1794) nhà khoa học người Pháp phát hiện thành phần hoá
học của nước và cấu tạo nguyên tố hoá chất.
Cuộc cách mạng khoa học đã mở đường cho một cuộc cách mạng kỹ
thuật công nghệ lớn nhất trong lịch sử loài người vào cuối thế kỷ 18 mà nội
dung là chế tạo ra máy móc, cơ khí hoá nền sản xuất xã hội chuyển từ lao
động thủ công sang lao động bằng máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật – công
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 17
TiÓu luËn triÕt häc
nghệ được gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lớn nhất của nhân loại. Bởi nó
đưa máy móc vào công nghiệp thay thế thủ công bằng cơ khí hoá và dùng
máy móc để sản xuất ra máy móc như một quy luật quan trọng – như Mác đã
phát hiện ra - của sản xuất đại công nghiệp nhằm cơ khí hoá tiếp các ngành
sản xuất khác như vận tải, nông nghiệp…
Cuộc cách mạng công nghệ diễn ra đầu tiên ở Anh (trong khoảng thời
gian 1750-1830) rồi sau đó lan rộng sang Pháp, Đức và một số nước Châu Âu
cụ thể là:
- Máy kéo Sợi (1735) và tiếp sau là máy dệt.
- Máy hơi nước (1784) và tiếp sau đó làôtô chạy bằng hơi nước (1789).
- Đầu tàu hoả chạy bằng hơi nước (1803)
- Tàu biển chạy bằng hơi nước (1851)
- Động cơ đốt trong (1860) và tiếp sau là ôtô chạy bằng động cơ đốt
trong (1886).
- Điện tín (1843), liên lạc điện thoại (1875), trạm điện thoại (1878)
- Đèn điện (1878)
-Từ đầu thế kỷ XX, điện được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và vào
nhiều ngành kỹ thuật cơ khí hoá được phát triển và nâng cao nhờ Điện
khí hoá.
Tất cả những thành tựu về công nghệ đã dẫn đến kết quả làm cho lực
lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng cao. Nhờ đó mà loài người
chuyển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác cao hơn,
chuyển từ nền văn minh này lên nền văn minh khác tiên tiến hơn.
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 18
TiÓu luËn triÕt häc
Cuộc cách mạng công nghệ diễn ra nửa thế kỷ nay cũng đang gây ra
những biến đổi sâu sắc trong các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã
hội, sản xuất tự động hoá ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng
cao, sản phẩm dồi dào. Tỷ lệ lao động trí óc trong sản xuất tăng lên trong khi
tỉ lệ lao động chân tay giảm xuống, nảy sinh nạn thất nghiệp cơ cấu. Hợp chất
mới sáng tạo ra thay thế một số vật lực có sẵn trong thiên nhiên, tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên, con người quá hạn hẹp mà thiên hiên đã ban tặng cho họ.
Xuất hiện một số ngành sản xuất mới trong khi một số ngành sản xuất cũ suy
thoái. Khoảng cách giữa những nước tiên tiến vốn có ưu thế về kỹ thuật-công
nghệ và phần lớn những nước lạc hậu ngày càng giãn ra, lợi thế của một số
nước giàu tài nguyên thiên nhiên, giàu lao động giảm xuống. Xu thế toàn cấu
hoá nền kinh tế với sự kiên doanh kiên kết, đầu tư, chuyển giao công nghệ
ngày càng phát triển mạnh.
Ngày nay vị thế của công nghệ-kỹ thuật đã có vị trí xứng đáng trong quỹ
đạo của nền sản xuất-xã hội và nó cũng được xem như một chiến lược phát
triển lâu dài của mỗi một quốc gia.
2.5. Những công nghệ điển hình
Công nghệ vật liệu mới
Trong vòng 40 năm trở lại đây, khoa học và công nghệ đã tạo ra được
các loại vật liệu đáp ứng được tất cả các yêu cầu trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người. Trong nhiều trường hợp phát minh vật liệu mới, làm nảy sinh
ngành công nghiệp mới (bán dẫn-vi mạch, máy tính điện tử, tin học, thông
tin…) một vài thành tựu nổi bật về công nghệ vật liệu mới là:
- Vật liệu siêu dẫn
- Vật liệu composit ( vật liệu tổ hợp hay phức hợp)
- Gốm kim loại.
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 19
TiÓu luËn triÕt häc
Vật liệu mới là đặc trưng quan trọng đánh dấu sự phát triển của công
nghệ (kỷ nguyên phát triển nhân loại đánh dấu bằng đồ đá, đồ đông, thép tổng
hợp, phức hợp)
Một công nghệ mới, cao cấp cần có các thiết bị làm bằng các vật liệu đặc
biệt (nhẹ, cách âm, cách nhiệt…) ngược lại muốn có các vật liệu đăc biệt lại
đòi hỏi công nghệ cao cấp về cơ khí chính xác, chân không siêu sạch…
Công nghệ Điện tử và vi điện tử
Trong rất nhiều lĩnh vực khoa học-kinh tế, người ta phải dùng đến các
thiết bị điện tử để thực hiện các chức năng như khuyếch đại, phát tín hiệu
điện, biến đổi tín hiệu điện.
-Tạo hình, tạo âm thanh… lúc đầu, linh kiện chính trong các thiết bị đó
là đèn điện tử, được phát minh vào năm 1906, năm 1947 xuất hiện các linh
kiện bán dẫn, năm 1961 xuất hiện mạnh tích hợp IC và năm 1971 là các mạch
vi xử lý thường phát minh các dụng cụ điển tử mở ra kỷ nguyên của máy tính
điện tử.
Công nghệ thông tin
Thành quả của công nghệ Điện tử-Vi điện tử tạo ra máy tính điện tử
cùng với phần mềm là các chương trình ứng dụng, tạo ra một công nghệ mới
là tin học (informaties).
Cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX xuất hiện kỹ
thuật số (digital) tạo bước ngoặt trong lĩnh vực truyền tin, do các ưu việt:
- Độ tin cậy cao
- Số lượng truyền lớn.
- Tốc độ trao đổi nhanh.
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 20
TiÓu luËn triÕt häc
Kỹ thuật số kết hợp với vật liệu quang truyền dẫn thông tin bằng Laze
trong cáp quang.
Tin học cùng viễn thông tạo ra ngành công nghiệp mới, công nghệ thông
tin qua các hoạt động lưu trữ và truyền số liệu điện tử (EDI) dẫn đến các hoạt
động như vay vốn chuyển vốn ngoại tệ, mua bán cổ phần, tìm chênh lệch giá
tín dụng, chứng khoán… Tạo ra một xã hội hoàn toàn mới trong thế kỷ XXI.
Công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học sử dụng các tác nhân sinh vật vào quá trình sản xuất,
có đặc trưng công nghiệp, sản xuất tư liệu sản xuất cho nó và các ngành khác,
có quy mô sản xuất là tế bào trong lĩnh vực này có 3 khía cạnh cụ thể:
- Công nghệ Vi sinh
- Kỹ thuật enzim
- Kỹ thuật nuôi cấy tế bào
Công nghệ tự động hoá
Tự động hoá là một quá trình trong sự phát triển sản xuất mà các chức
năng điều khiển và kiểm tra do máy móc và thiết bị tự động điều khiển, nhờ
tự động hoá quá trình sản xuất mà chất lượng sản phẩm hoàn hảo, năng suất
lao động cao và tránh được các nguy hiểm đối với con người.
Sự ra đời của máy tính điện tử đã làm thay đổi về chất của tự động hoá
và mở rộng nó ra không chỉ trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà cả trong
thông tin, dịch vụ và quản lý, đưa các lĩnh vực này trở thành các ngành công
nghệ mũi nhọn trên phạm vi toàn thế giới.
Trong lĩnh vực sản xuất, các thành tựu của tự động hoá bao trùm lên tất
cả các ngành sản xuất, là cơ sở của các thành tựu trong lĩnh vực kỹ thuật cao:
Du hành vũ trụ thông tin, năng lượng mới, kỹ thuật hai dương, công nghệ sinh
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 21
TiÓu luËn triÕt häc
học… thiết bị chủ yếu trong tự động hoá là Người máy các loại, có thể hoạt
động theo một chương trình cứng, hay thao tác theo sự điều khiển trực tiếp
của con người hoặc hoạt động nhờ trí năng nhân tạo.
Sự phát triển của tự động hoá và Công nghệ thông tin hứa hẹn những
thành tựu cho những bước ngoặt trong xã hội loài người ở thế kỷ XXI.
2.6. Vai trò của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
Khoa học công nghệ là một trong bốn nguồn lực quyết định sự phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Ngày nay, khi mà nhân loại bước vào
kỷ nguyên tri thức thì khoa học công nghệ càng khẳng định hơn vai trò quyết
định đến quá trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển trong quá trình tiến hành CNH- HĐH, nó chính là
động lực lớn thúc đẩy và góp phần tích cực rút ngắn quá trình này.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, việc
tìm ra những công nghệ mới, vật liệu mới và những nguồn năng lượng mới đã
xuất hiện một kiểu tăng trưởng mới về chất - tăng trưởng kinh tế theo chiều
sâu trong điều kiện sản xuất phát triển dựa trên cơ sở cuộc cách mạng khoa
học hiện đại. Khoa học công nghệ là điều kiện để có sản phẩm cuối cùng đạt
chất lượng cao, tăng năng suất lao động, đảm bảo an toàn sản xuất, chống ô
nhiễm môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên quốc gia, góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của xã hội.
Kết quả phân tích của Ngân hàng Thế giới ở 38 quốc gia và khu vực cho
thấy, tiến bộ công nghệ đóng góp 50% vào tăng trưởng kinh tế ở các nước
phát triển, hơn 30% ở các nước đang phát triển. Tại Hàn Quốc, đột phá trong
KH&CN giúp kinh tế-xã hội tăng trưởng mạnh, mức thu nhập bình quân đầu
người tăng cao từ 1.040USD (1977) lên 3.360USD sau 10 năm. Đầu tư cho
KH&CN của nước này tăng nhanh từ 378 triệu USD lên 5 tỉ USD, tăng 13
lần. Với Trung Quốc, đầu tư cho KH&CN tăng mạnh từ 0,6 % GDP (2001)
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 22
TiÓu luËn triÕt häc
lên 1,43% GDP (2007) đã tạo đòn bẩy đưa GDP bình quân đầu người tăng từ
1.047USD lên 2.604USD.
Theo tài liệu của TS Cù Chí Lợi, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện Khoa học
- Xã hội Việt Nam): Ở nước ta, trong thời kỳ 1998-2002, tỉ trọng đóng góp
của yếu tố KH&CN vào tăng trưởng GDP đã chiếm hơn 23%, kéo mức thu
nhập bình quân đầu người từ vài trăm USD đạt ngưỡng 1.000USD. Trong khi
dân số không ngừng tăng (từ hơn 50 triệu người năm 1979 lên hơn 85 triệu
người năm 2009), diện tích đất canh tác bị thu hẹp nhưng nhờ áp dụng nhiều
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, ngành nông nghiệp vẫn đóng góp hơn 65% vào
tăng trưởng kinh tế.
Nhiều năm gần đây, hàng nghìn các kết quả nghiên cứu KH&CN được
ứng dụng rộng rãi, đã và đang trở thành đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội. Trong nông nghiệp, KH&CN đóng vai trò lớn về lai tạo, nhân giống cây
trồng mới, tăng năng suất, thay thế giống nhập ngoại. Việc ứng dụng công
nghệ mới giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng giá trị
sản xuất, đưa nước ta vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo,
cà phê, hạt tiêu, điều, cao su. Đến nay, hơn 170 giống lúa được công nhận,
trong đó có nhiều giống lúa lai tốt như VL20, TH3-3, TH304, HY83, HYT92,
HYT100. Gần 90% diện tích đất được trồng bằng các giống lúa cải tiến. Năng
suất lúa bình quân năm 2007 đạt 49,5 tạ/ha, gấp 2,4 lần năm 1980 và năm
2010 đạt trên 52,3 tạ/ha, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực triền miên đã
trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới.
Với thuỷ sản, đóng góp lớn nhất của KH&CN là công nghệ sản xuất
giống, công nghệ nuôi trồng, chế biến giúp tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu
thuỷ sản. Năm 2009, giá trị xuất khẩu đạt 4,26 tỉ USD, tăng hơn 47 lần so với
năm 1985. Giá trị kim ngạch xuất khẩu từ nuôi trồng thuỷ sản chiếm bình
quân từ 57%-58% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Các mặt hàng thuỷ sản
chế biến xuất khẩu của Việt Nam đảm bảo yêu cầu về chất lượng thị trường
Nhật Bản, EU và Mỹ.
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 23
TiÓu luËn triÕt häc
Trong y - dược, Việt Nam đã lần đầu tiên ghép tim thành công trên người,
ghép gan, thận từ người cho chết não; làm chủ được quy trình phân lập, bảo
quản tế bào gốc từ tuỷ xương, máu ngoại vi, vùng rìa giác mạc và bước đầu
ứng dụng thành công trong điều trị các bệnh xương, khớp, ung thư, Nghiên
cứu, sản xuất thành công 10 loại vaccin cho Chương trình Tiêm chủng mở
rộng, vaccin Rota phòng bệnh tiêu chảy đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Trong công nghiệp, KH&CN giúp cải tiến, đổi mới công nghệ của các
ngành, lĩnh vực. Ngành cơ khí chế tạo đã làm chủ thiết kế và công nghệ chế
tạo các thiết bị siêu trường, siêu trọng phục vụ thi công xây dựng nhà máy
thuỷ điện có công suất lớn, đặc biệt là công trình thuỷ điện Sơn La (công trình
phát điện sớm 2 năm so với tiến độ ban đầu, làm lợi cho đất nước 2 triệu
USD); thiết bị cẩu trục chân đế 180 tấn sử dụng cho các nhà máy đóng tàu,
bến cảng, khai khoáng,
Từ kết quả nghiên cứu, chúng ta đã thiết kế, chế tạo thành công máy biến
áp (MBA) 220kV–250 MVA với giá thành thấp hơn giá nhập khẩu (khoảng 2
triệu USD so với giá nhập khẩu 2,4 triệu USD). Năm 2010, Việt Nam chế tạo
thành công MBA 500kV đầu tiên, tạo điều kiện cho ngành điện chủ động mở
rộng, phát triển hệ thống lưới điện truyền tải 500kV quốc gia.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay đã tạo ra thời cơ rất thuận
lợi để các nước đang phát triển nhanh chóng thực hiện Công nghiệp hoá đất
nước. Nhiều nhà kinh tế cũng dự báo rằng, trong giai đoạn tới “tương lai sẽ
phụ thuộc vào các quốc gia có tiềm năng ứng dụng”. Vì vậy, để nhanh chóng
rút ngắn thời gian Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, các nước đang phát triển
phải quan tâm và khai thác tốt những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, phát huy được lợi thế là các nước đi sau. Thực tế lịch sử cho thấy,
nước Anh cần 120 năm để Công nghiệp hoá, Mỹ và Tây Âu cần 60 năm, còn
các con rồng Châu Á chỉ mất 30 năm là hoàn thành. Trong tương lai sẽ hứa
hẹn thời gian hoàn thành Công nghiệp hoá tiếp tục rút ngắn.
Nhóm 1- Lớp TDL&MMT 24