Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN Bắc Ninh: thực trang và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 91 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
o0o


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại

HOẠT ĐỘNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP



Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Hà
Mã sinh viên : 1001010238
Lớp : Anh 21 – Khối 7 KT
Khóa : 49
Người hướng dẫn khoa học : ThS Trần Thanh Phương




Hà Nội, tháng 5 năm 2014



MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT (i)


DANH MỤC BẢNG BIỂU (ii)
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ
KHU CÔNG NGHIỆP 3
1.1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của FDI 3
1.1.2 Các hình thức FDI 7
1.1.3 Tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư 10
1.2 Khái quát chung về khu công nghiệp 15
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp 15
1.2.2 Phân loại khu công nghiệp 19
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào khu công nghiệp 20
1.3 Kinh nghiệm thu hút FDI vào khu công nghiệp một số nước 24
1.3.1 Trung Quốc 24
1.3.2 Thái Lan 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP
TỈNH BẮC NINH 29
2.1 Giới thiệu về khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh 29
2.2 Tình hình thu hút FDI vào khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh 32
2.2.1 Số lượng dự án 32
2.2.2 Quy mô dự án 36
2.2.3 Cơ cấu dự án đầu tư 37
2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào khu công nghiệp tỉnh
Bắc Ninh 41
2.3.1 Cơ chế chính sách, thủ tục hành chính 42
2.3.2 Kết cấu hạ tầng, kỹ thuật 46
2.3.3 Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên 48
2.3.4 Công tác xúc tiến đầu tư 49
2.4 Những đóng góp của FDI đối với kinh tế - xã hội của Bắc Ninh 50



2.5 Đánh giá tình hình thu hút FDI vào các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh 54
2.5.1 Thành công đạt được 54
2.5.2 Hạn chế 55
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN VIỆC
THU HÚT FDI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH 63
3.1 Định hướng thu hút FDI vào khu công nghiệp của tỉnh Bắc Ninh 63
3.1.1 Định hướng thu hút đầu tư giai đoạn 2013 – 2020, tầm nhìn 2030 64
3.1.2 Định hướng ngành, lĩnh vực ưu tiên 64
3.1.3 Định hướng đối tác 66
3.1.4 Định hướng về thu hút công nghệ 67
3.1.5 Định hướng về hiệu quả kinh tế xã hội của dự án đầu tư 67
3.1.6 Định hướng địa bàn thu hút đầu tư: 69
3.2 Giải pháp nhằm cải thiện tình hình thu hút FDI vào khu công nghiệp tỉnh
Bắc Ninh 70
3.2.1 Chính sách khuyến khích thu hút các dự án có quy mô lớn và ổn định dự án
đầu tư 70
3.2.2 Đơn giản thủ tục hành chính 72
3.2.3 Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, giải quyết nhanh chóng công tác giải phóng
mặt bằng 73
3.2.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 75
3.2.5 Chuyên nghiệp hóa công tác xúc tiến đầu tư 76
3.2.6 Hoàn thiện chức năng bộ máy quản lý 79
KẾT LUẬN 82









DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
Nghĩa tiếng Anh
Nghĩa tiếng Việt
CNHT

Công nghiệp hỗ trợ
ĐKKT

Đặc khu kinh tế
GCN

Giấy chứng nhận
GCNĐT

Giấy chứng nhận đầu tư
KCN

Khu công nghiệp
IMF
International monetary fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước nước
ngoài
M&A

Mergers and Acquisitions
Mua lại và sáp nhập
PCI
Provincial Competitiveness
Index
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh
OECD
Organization for Economic Co-
operation and Development
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát
triển
UNCTAD
United Nations Conference on
Trade and Development
Diễn đàn Thương mại và Phát
triển Liên Hiệp quốc
TNCs
Transnational Corporation
Các công ty xuyên quốc gia
VCCI
Vietnam Chamber of
Commerce and Industry
Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới




DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình
Nội dung
Trang
1.1
Thu hút FDI vào các khu công nghiệp Thái Lan (2008 –
2011)
27
2.1
Sơ đồ quy hoạch các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
30
2.2
Chỉ số PCI của Bắc Ninh giai đoạn 2005 - 2012
42
2.3
Giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp FDI tại các
KCN tỉnh Bắc Ninh
51
2.4
Biểu đồ kim ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp
FDI trong KCN tỉnh Bắc Ninh
53

Bảng
Nội dung
Trang
2.1
Tổng hợp tình hình cấp giấy phép đầu tư giai đoạn 2001 -
2013

33
2.2
Lũy kế tình hình cấp giấy chứng nhận đầu tư các dự án
theo KCN (2001 – 2013)
35
2.3
Quy mô dự án FDI vào các KCN tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
2001- 2013
36
2.4
Tổng hợp các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các
KCN Bắc Ninh giai đoạn 2001 - 2013
38
2.5
Tình hình thu hút FDI theo ngành nghề vào các KCN Bắc
Ninh giai đoạn 2001 - 2013
39
2.6
So sánh thủ tục hành chính tổ chức thực hiện thu hút FDI
của Bắc Ninh với Hưng Yên và Vĩnh Phúc
43
2.7
So sánh chính sách ưu đãi thu hút FDI vào Bắc Ninh với
các tỉnh Hưng Yên và Vĩnh Phúc
45
2.8
Thu ngân sách nhà nước của doanh nghiệp FDI trong các
KCN Bắc Ninh (2001–2013)
52
1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang
được coi là một trong những biện pháp khai thác ngoại lực nhằm thúc đẩy nội lực
để phát triển kinh tế, xã hội. Thu hút nguồn vốn FDI có ý nghĩa quan trọng đối với
các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Đối với Việt
Nam, thu hút nguồn vốn FDI đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ,
cùng với đó là những chính sách ưu đãi của từng địa phương.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã cho xây dựng các khu công nghiệp (KCN) tập
trung nhằm huy động và phát huy thế mạnh của vùng, đồng thời cũng tạo đà thu hút
vốn, khoa học kỹ thuật từ bên ngoài.
Bắc Ninh là một tỉnh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc (khu vực
đồng bằng Bắc Bộ) của Việt Nam. Ngay từ khi tái thành lập tỉnh năm 1997, Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân Bắc Ninh đã xây dựng định hướng phát triển kinh tế -
xã hội là “Tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các KCN, cụm công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp… Phấn đấu đưa tỉnh trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015”
(Nghị quyết số 12 - NQ/TU của Ban thường vụ tỉnh Uỷ về phát triển các KCN,
Cụm CN - Tiểu thủ công nghiệp). Bắc Ninh được đánh giá là địa phương có chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) cao, xếp thứ 10/63 tỉnh, thành phố năm 2012, là
tỉnh dẫn đầu khu vực đồng bằng sông Hồng và khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
về môi trường kinh doanh. Trong những năm gần đây, Bắc Ninh là một trong những
tỉnh dẫn đầu trong việc thu hút FDI, góp phần vào việc thực hiện những thắng lợi về
mục tiêu kinh tế, xã hội của tỉnh. Nhận thức được tầm quan trọng của FDI, Bắc
Ninh tập trung vào phát triển các khu công nghiệp hiện đại nhằm tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư. Những thành công về thu hút vốn FDI vào các
KCN Bắc Ninh như: Tính đến tháng 11/2013, KCN Tiên Sơn thu hút được 237 dự
án với tổng vốn đầu tư là 1034,26 triệu USD, KCN Yên Phong thu hút 81 dự án,
tổng vốn đầu tư là 3129,91 triệu USD,… Tuy nhiên, tình hình chung các doanh

nghiệp nước ngoài đầu tư vào các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh đa số là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, những dự án có quy mô và giá trị lớn chưa có nhiều.
2

Xuất phát từ thực tế trên, người viết chọn đề tài: “Hoạt động thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh: thực trạng và giải
pháp” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận của mình nhằm tìm ra giải pháp để Bắc
Ninh thu hút nhiều và đồng đều hơn nguồn vốn FDI.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về FDI và FDI trong các khu công nghiệp, phân tích
thực trạng thu hút FDI vào các KCN Bắc Ninh. Từ đó đưa ra một vài giải pháp
nhằm cải thiện tình hình thu hút FDI vào khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: dòng vốn FDI vào khu công nghiệp tỉnh Bắc
Ninh
Phạm vi nghiên cứu: khóa luận tập trung tìm hiểu, phân tích về tình hình thu
hút FDI vào các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2001 đến
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như: thu thập,
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài danh mục bảng biểu, sơ đồ, danh mục từ viết tắt, lời mở đầu, kết luận,
tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và khu công nghiệp
Chương 2: Thực trạng thu hút FDI vào khu công nghiệp của tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Định hướng và giải pháp cải thiện việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2014
Nguyễn Thị Hà


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀ KHU CÔNG NGHIỆP
1.1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của FDI
Đầu tư nước ngoài nói chung là hoạt động di chuyển vốn từ nước này sang
nước khác nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Vốn đầu tư nước ngoài được
thể hiện dưới dạng tiền mặt, vật thể hữu hình, các giá trị vô hình hoặc các phương
tiện đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu, các chứng khoán cổ phần khác. Người bỏ
vốn đầu tư gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Nhà đầu tư có thể là một cá nhân, một
doanh nghiệp, hay một tổ chức trong đó kể cả Nhà nước.
Có hai hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp. Trong đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài là hình thức phổ biến và quan trọng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF (1997): FDI nhằm đạt được những lợi ích lâu dài
trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh
tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh
nghiệp (PGS.TS Vũ Chí Lộc, 2012).
Theo khái niệm trên, lợi ích lâu dài là những mục tiêu lợi ích dài hạn mà khi
tiến hành đầu tư FDI các nhà đầu tư thường đặt ra. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi
phải có một mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhận
đầu tư nước ngoài, đồng thời có một mức ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý
doanh nghiệp này.
Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp chính là quyền kiểm soát doanh nghiệp.
Quyền kiểm soát doanh nghiệp là quyền tham gia vào các quyết định quan trọng
ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như thông qua chiến lược
hoạt động của công ty; thông qua, phê chuẩn kế hoạch hành động do người quản lý
của doanh nghiệp lập ra; quyết định việc chia lợi nhuận doanh nghiệp, vốn góp giữa

các bên, tức là quyền ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, sống còn của doanh nghiệp.
Theo tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD: Đầu tư trực tiếp được thực
hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt
là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh
4

nghiệp nói trên bằng cách: (i) Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một
chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; (ii) Mua lại toàn bộ doanh
nghiệp đã có; (iii) Tham gia vào một doanh nghiệp mới; (iv) Cấp tín dụng dài hạn
(> 5 năm), (v) Quyền kiểm soát: nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu
quyết trở lên (PGS.TS Vũ Chí Lộc, 2012).
Khái niệm của OECD về cơ bản cũng giống khái niệm của IMF về đầu tư trực
tiếp nước ngoài, đó là cũng thiết lập các mối quan hệ lâu dài (tương tự với việc theo
đuổi lợi ích lâu dài trong khái niệm của IMF), và tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm của OECD chỉ ra cụ thể hơn các cách thức để
đầu tư tạo ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý của doanh nghiệp, đó là:
Hoặc thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc
toàn quyền quản lý của chủ đầu tư.
Hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có (M&A).
Hoặc tham gia vào một doanh nghiệp mới.
Cấp tín dụng dài hạn (>5 năm): là hoạt động cấp tín dụng của công ty mẹ dành
cho công ty con với thời hạn >5 năm cũng được coi là hoạt động FDI.
Về quyền kiểm soát doanh nghiệp FDI, OECD quy định rõ là từ 10% cổ phiếu
thường hoặc quyền biểu quyết trở lên.
Hai định nghĩa trên nhấn mạnh đến mục tiêu thực hiện các lợi ích dài hạn của
chủ đầu tư nước ngoài. Mục tiêu dài hạn đòi hỏi nhà đầu tư và doanh nghiệp nhận
đầu tư phải có mối quan hệ lâu dài và nhà đầu tư có mức độ ảnh hưởng đáng kể đối
với việc quản lý doanh nghiệp.
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy
ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có một tài sản ở nước khác

(nước nhận đầu tư) cùng với quyền kiểm soát tài sản đó. Quyền kiểm soát là dấu
hiệu để phân biệt FDI với các hoạt động đầu tư khác (PGS.TS Vũ Chí Lộc, 2012).
Theo khái niệm này thì hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là chủ
đầu tư có tài sản tại nước nhận đầu tư và có quyền kiểm soát đối với doanh nghiệp
FDI bằng cách góp một lượng vốn tối thiểu để có thể phân biệt với các hình thức
đầu tư khác.
5

Tại Việt Nam, khái niệm về FDI cũng được đề cập tại Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1996: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo
quy định của luật này (Luật đầu tư nước ngoài, 1996).
Theo khái niệm này, thì Việt Nam đứng dưới góc độ là nước nhận đầu tư,
được nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào để tiến hành hoạt động đầu tư. Khái niệm
chưa đề cập đến hoạt động đầu tư nước ngoài của nhà đầu tư nước ta.
Luật đầu tư 2005 tại Việt Nam, luật này có đưa ra khái niệm về “đầu tư”, “đầu
tư trực tiếp” và “đầu tư nước ngoài”, tuy nhiên, không đưa ra khái niệm “đầu tư trực
tiếp nước ngoài”. Từ những khái niệm đưa ra đó ta cũng có thể hiểu: Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham
gia kiểm soát hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư
và tham gia kiểm soát hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan (Luật đầu tư, 2005).
Theo khái niệm của luật này, góc nhìn của Việt Nam về FDI đã đầy đủ hơn,
bao gồm cả FDI vào Việt Nam và FDI của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.
Như vậy, có thể hiểu khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: đầu tư
trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông
qua việc nhà đầu tư của một nước đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư
cho một dự án ở nước khác nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát
dự án đó, trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về
vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý… để đạt mục đích thu lợi nhuận.

Với cách hiểu khái niệm FDI như trên ta có thể thấy các hoạt động FDI có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ
vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của mỗi nước
nhận đầu tư để họ có quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án đầu tư. Tỷ lệ
này không giống nhau ở các nước. Luật của Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Anh và
Pháp là 20%. Còn theo tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD (1996), thì tỷ lệ
này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của doanh nghiệp (PGS.TS Vũ
Chí Lộc, 2012). Luật đầu tư Việt Nam 2005 thì chưa quy định rõ về tỷ lệ vốn góp.
6

Dựa vào tỷ lệ vốn góp để các bên phân chia quyền, nghĩa vụ, cũng như lợi
nhuận và rủi ro của doanh nghiệp.
Thứ hai, về quyền điều hành, quản lý doanh nghiệp: điều này phụ thuộc vào
tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% thì quyền
điều hành toàn bộ thuộc về họ, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý doanh
nghiệp. Đồng thời, quyết định sản xuất kinh doanh và chịu các khoản lỗ, lãi
(Nguyễn Tiến Quyết, 2010).
Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
mà họ bỏ vốn đầu tư.
Thứ ba, phân chia lợi nhuận: FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích
chính là tìm kiếm lợi nhuận. Việc phân chia lợi nhuận phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp và theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ
các khoản đóng góp với nước chủ nhà và các khoản nợ khác (Nguyễn Tiến Quyết,
2010).
Thứ tư, FDI thường kèm chuyển giao công nghệ: các nước nhận đầu tư
thường được đầu tư thông qua việc đưa máy móc, thiết bị, bằng phát minh, sáng
chế, bí quyết kỹ thuật, cán bộ,… vào nước mình để thực hiện dự án đầu tư (PGS.TS
Vũ Chí Lộc, 2012).
Có thể nói, FDI là hoạt động tất yếu, khách quan đối với phía chủ đầu tư cũng

như đối với nước tiếp nhận đầu tư. Về phía chủ đầu tư, thường là các công ty đa
quốc gia thuộc các nền kinh tế phát triển trên thế giới, các nền kinh tế mới nổi, do
yêu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh, tìm kiếm lợi
nhuận trong khi chịu tác động bởi tỷ suất lợi nhuận giảm dần, các công ty phải tận
dụng nguồn vốn sẵn có của mình để đầu tư ra các nước khác, mở rộng thị trường để
tìm kiếm lợi nhuận. Họ trở thành nguồn cung cấp vốn cho thị trường thế giới. Về
phía nước tiếp nhận đầu tư, họ thường là các nước đang phát triển, thu nhập cũng
như tích lũy còn thấp. Phần lớn thu nhập nhằm để đảm bảo mức tiêu dùng tối thiểu
do đó phần dành cho tiết kiệm rất nhỏ. Trong khi các nước này cần một khoản đầu
tư lớn để có thể đầu tư phát triển đất nước. Mặt khác, các nước này chủ yếu là
những nước chưa phát triển nên chủ yếu xuất khẩu mặt hàng nguyên liệu sơ, trong
khi phải nhập khẩu máy móc, trang thiết bị hiện đại có giá trị cao ở nước ngoài dẫn
7

đến tình trạng nhập siêu lớn. Vì thế, việc du nhập tư bản nước ngoài là một yếu tố
tất yếu.
1.1.2 Các hình thức FDI
Trên thế giới có nhiều cách phân loại khác nhau về FDI, tuy nhiên, phổ biến
hiện nay là phân loại theo 2 tiêu chí: theo cách thức xâm nhập và theo hình thức
pháp lý.
Thứ nhất, theo cách thức thâm nhập:
Theo tiêu chí này FDI được chia thành hai hình thức:
Đầu tư mới (Greenfield investment): Chủ đầu tư nước ngoài góp vốn để xây
dựng một cơ sở sản xuất, kinh doanh mới tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư
này thường được các nước nhận đầu tư đánh giá cao vì nó có khả năng tăng thêm
vốn, tạo thêm việc làm và giá trị gia tăng cho nước nhận đầu tư (PGS.TS Vũ Chí
Lộc, 2012).
Mua lại và sáp nhập (M&A): Chủ đầu tư nước ngoài mua lại, sáp nhập hoặc
hợp nhất một cơ sở sản xuất kinh doanh sẵn có ở nước nhận đầu tư. Theo quy định
của Luật cạnh tranh được Quốc Hội Việt Nam thông qua tháng 12/2004 và có hiệu

lực ngày 1/7/2005. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ
hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ
hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Sáp nhập doanh nghiệp là việc
một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị sáp nhập. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh
nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để
hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh
nghiệp bị hợp nhất (Luật cạnh tranh, 2005). FDI chủ yếu được diễn ra dưới hình
thức M&A bởi vì với hình thức đầu tư này chi phí đầu tư thường thấp và cho phép
chủ đầu tư tiếp cận thị trường nhanh hơn.
Thứ hai, theo hình thức pháp lý:
Tùy theo quy định của pháp luật từng nước nhận đầu mà FDI có thể được tiến
hành dưới các dạng hình thức pháp lý khác nhau. Có các hình thức pháp lý chủ yếu
là:
8

Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp
đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác
kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư
trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham
gia mà không cần thành lập pháp nhân mới. Hình thức FDI này có sự tham gia của
cả chủ đầu tư của nước nhận đầu tư và chủ đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài.
Đặc điểm của hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp
mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện
các nghĩa vụ của mình trước nhà nước. Hình thức này thường được áp dụng đối với
một số ngành kinh tế đặc biệt như dầu khí, viễn thông,… hoặc chỉ áp dụng khi chủ
đầu tư nước ngoài thâm nhập vào một thị trường mới, chưa hiểu rõ (PGS.TS Vũ Chí
Lộc, 2012).
Doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua

đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp
mới này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp
đồng liên doanh. Hình thức FDI này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành
lập theo hình thức công ty, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà.
Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng.Nhưng
doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia.Khi các bên
đó đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh
nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với
doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định
(PGS.TS Vũ Chí Lộc, 2012).
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài bỏ toàn bộ vốn góp để thành lập tại
nước nhận đầu tư, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Khác với hai hình thức trên, hình thức FDI này không có sự tham gia của
bên nước nhận đầu tư. Hình thức này cũng thành lập doanh nghiệp mới và có tư
cách pháp nhân cũng giống như hình thức liên doanh.Ở Việt Nam thì hình thức
doanh nghiệp này vẫn chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp
Việt Nam (PGS.TS Vũ Chí Lộc, 2012).
9

Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình
xây dựng, theo Nguyễn Tiến Quyết (2010) còn có hình thức:
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT): là một phương thức
đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước
ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định,
hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho
nước chủ nhà. Hình thức BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài,
cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp của chính phủ
hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. Nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền

tổ chức xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư
và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho nước chủ nhà mà không
được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (BTO): là hình thức đầu tư
dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và
nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà.
Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong
một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao: là một phương thức đầu tư nước ngoài trên
cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và
nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính
phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để
thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Ngoài các hình thức kể trên, ở một số nước, nhằm tạo điều kiện cho việc thu
hút nguồn vốn FDI từ nước ngoài, đa dạng hóa nguồn vốn FDI, còn có một số hình
thức FDI như: thành lập công ty quản lý vốn, thành lập văn phòng đại diện, hoặc chi
nhánh công ty tại nước chủ nhà. Có thể thấy, mỗi hình thức đầu tư FDI đều có
những hấp dẫn riêng đối với chủ đầu tư, vì thế, đa hạng hóa hình thức đầu tư góp
phần thu hút cả về số lượng cũng như về chất lượng của các dự án đầu tư.
10

1.1.3 Tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư
Đối với nước nhận đầu tư, FDI có những tác động tích cực đối với tăng trưởng
kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thu hút công nghệ tiên
tiến, cũng như góp phần nâng cao mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Tác động tích cực:
Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện
cán cân thanh toán của quốc gia:

Với bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều cần vốn đầu tư để phát triển và
tăng trưởng kinh tế. Để có nguồn vốn đầu tư, các quốc gia đều dựa vào hai nguồn:
vốn tích luỹ trong nước và vốn nước ngoài. Theo lý thuyết “cái vòng luẩn quẩn” và
“cú huých” từ bên ngoài của Samuelson, đa số các nước đang phát triển đều thiếu
vốn, thu nhập của họ chỉ đủ để người dân sống ở mức tối thiểu, không có tích lũy
vốn (Nguyễn Tiến Quyết, 2010).
Vì vậy, vốn tích lũy trong nước là không có hoặc có rất ít, để phát triển, tăng
trưởng kinh tế thì thu hút nguồn vốn từ nước ngoài là tất yếu. Trong các nguồn vốn
nước ngoài thì nguồn vốn FDI được đánh giá là rất quan trọng, chiếm tỷ trọng cao
trong tổng vốn đầu tư của các nước đang và chậm phát triển. Nguồn vốn FDI không
chỉ dừng lại là đồng vốn trực tiếp đưa vào mà nó còn khơi dậy, sử dụng các nguồn
lực trong nước cùng vận hành như đất đai, tài nguyên, vốn của các doanh nghiệp
trong nước trực tiếp tham gia đầu tư. FDI kéo theo hoạt động các doanh nghiệp
trong nước như xây dựng, vận tải, cung ứng, dịch vụ,…
Cán cân thanh toán có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của nước
đang phát triển, là một chỉ tiêu mà các nhà hoạch định chính sách luôn theo dõi chặt
chẽ. Hoạt động đầu tư nước ngoài với tính chất là nguồn vốn đầu tư ổn định đã góp
phần quan trọng duy trì, cải thiện cán cân thanh toán thông qua hoạt động xuất khẩu
và thay thế nhập khẩu. Xuất khẩu được đẩy mạnh sẽ mang lại nguồn thu ngoại tệ
cho nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sản
xuất những mặt hàng mà nước tiếp nhận đầu tư trước đây chưa có khả năng sản xuất
đó giúp cho nước này không phải nhập khẩu những hàng hóa đó, giảm lượng ngoại
tệ phải thanh toán và dẫn đến cải thiện cán cân thanh toán.
11

Thứ hai, FDI góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và đào tạo nguồn nhân
lực:
FDI giúp các nước đang và chậm phát triển tận dụng được nguồn lao động dồi
dào. Khu vực có vốn đầu tư FDI thu hút số lượng lớn lao động của nước chủ nhà,
tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt trong lĩnh vực chế

tạo. FDI cũng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản lý, trình độ
công nghệ. Nhờ vào nguồn vốn FDI, các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận,
học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm như: xây dựng và đánh giá dự án, tổ chức
và điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, quản lý công nghệ, nghiên cứu thị
trường, tổ chức mạng lưới dịch vụ,… Đồng thời đã tạo cho lao động nước nhận đầu
tư có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng, công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước
ngoài. Thu hút vốn FDI, đồng nghĩa với nó là giải quyết việc làm cho người lao
động. Thậm chí, đối với một số nước có dân số lớn, thu hút FDI được coi là giải
pháp cơ bản trong chiến lược giải quyết việc làm cho người lao động. Thông qua
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI, nhờ việc tiếp cận với máy móc, thiết
bị mới, công nghệ hiện đại mà người lao động có điều kiện nâng cao trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật lao động, phương thức sản xuất tiên tiến (Nguyễn
Tiến Quyết, 2010).
Thứ ba, FDI góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ:
Các nước đang phát triển không những thiếu về nguồn vốn để phát triển đất
nước thì còn có nhu cầu rất lớn về công nghệ hiện đại. Công nghệ trong nước của
các nước này thường đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với sự phát triển như
vũ bão của nền công nghệ thế giới. Để tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng cao
hiệu quả đầu tư, các nhà đầu tư về nguyên tắc đều phải trang bị các loại máy móc
thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Vì thế, không
còn cách nào khác là các quốc gia này phải nhập khẩu các trang thiết bị, máy móc,
công nghệ hiện đại từ nước ngoài. Tuy nhiên, nguồn vốn trong nước rất hạn chế
không cho phép các nước này nhập khẩu được nhiều công nghệ. Kinh nghiệm của
các nước công nghiệp mới (NICs) cho thấy, đầu tư FDI là một trong những giải
pháp nhanh nhất để nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, sớm tiếp cận với
12

những thành tựu khoa học mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh (Nguyễn Tiến
Quyết, 2010).

FDI không chỉ cung cấp công nghệ cho các nước qua con đường chuyển giao
công nghệ từ nước ngoài vào mà còn tạo lập, xây dựng các cơ sở nghiên cứu và
phát triển, đào tạo đội ngũ cán bộ để phục vụ cho các dự án đầu tư.
Thứ tư, FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế:
FDI thể hiện rõ nét trong việc góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng
thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với các nước đang phát triển, việc thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường
quốc tế là việc làm vô cùng khó khăn do chưa có nhiều kinh nghiệm, bạn hàng ít,
chất lượng hàng hóa chưa thực sự tốt, chưa đảm bảo yêu cầu của khách hàng. Bởi
vậy, để mở rộng thị trường, có thể thông qua chủ đầu tư để tiêu thụ sản phẩm. Mặt
khác, các dự án FDI tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn, phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế hơn nên sẽ dễ dàng thâm nhập vào thị trường thế giới. Ngoài ra,
doanh nghiệp FDI có thể sử dụng kinh nghiệm, uy tín của chủ đầu tư nước ngoài để
bán sản phẩm, thâm nhập, mở rộng thị trường thế giới. Như vậy, FDI vừa làm tăng
năng lực xuất khẩu, vừa mở rộng thị trường xuất khẩu cho nước nhận đầu tư. Ở
nhiều nước, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao
trong tổng kim ngách xuất khẩu của cả nước.
FDI đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa nước chủ đầu tư và nước
nhận đầu tư, làm cho quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu.
Quan hệ đầu tư FDI góp phần thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát
triển. Việc đảm bảo hoạt động của các dự án FDI đạt hiệu quả là cơ sở để thu hút
các nguồn vốn nước ngoài khác như: ODA, FPI, tín dụng quốc tế, … Ngày nay,
cùng với sự hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, các quốc gia đưa ra những chính
sách, cam kết nhằm tự do hóa đầu tư gắn với tự do hóa thương mại để tạo điều kiện
tốt nhất cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại nước mình (Nguyễn Tiến Quyết,
2010).
Thứ năm, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu
tư:
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế. Đứng trên góc độ
13


khác nhau, người ta có thể chia cơ cấu kinh tế thành: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Ta có thể thấy, FDI có ảnh hưởng đến cả
ba góc độ cơ cấu kinh tế trên, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. FDI chủ yếu được
tiến hành bởi các TNCs và thường tập trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Vì thế, FDI góp phần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, giảm tỷ trọng trong ngành nông
nghiệp, tăng tỷ trọng trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, cơ cấu ngành
đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định cơ cấu kinh tế của các loại hình cơ
cấu khác, vì vậy thay đổi cơ cấu ngành kinh tế sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế của
một quốc gia (Nguyễn Tiến Quyết, 2010). FDI đóng góp trong việc thay đổi cơ cấu
kinh tế của nước nhận đầu tư, cụ thể như sau:
Chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại
và tiếp đến là dịch vụ.
Chuyển đổi bên trong ngành sản xuất công nghiệp, từ sử dụng máy móc, thiết
bị lạc hậu, chủ yếu là sử dụng lao động chân tay sang nền công nghiệp hiện đại với
công nghệ tiên tiến, tiết kiệm sức lao động hơn.
Thay đổi cơ cấu bên trong mỗi lĩnh vực sản xuất, từ sử dụng những công nghệ
lâu đời, lạc hậu, giá trị hàng hóa và dịch vụ có hàm lượng công nghệ thấp, sang
ngành sản xuất có công nghệ tiên tiến, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm cao
hơn.
Tác động tiêu cực:
Bên cạnh những mặt tích cực mang lại, FDI cũng gây ra một số mặt bất lợi
cho nước nhận đầu tư, cụ thể như:
Về nguồn lực: Các doanh nghiệp FDI có thể cung cấp rất ít hoặc cung cấp
những nguồn lực không phù hợp với thị trường nước tiếp nhận đầu tư, tạo ra những
khó khăn trong việc tiến hành hoạt động FDI. Nếu đưa nguồn lực lao động nước
ngoài vào nước chủ nhà cũng có thể gây ra những ảnh hưởng về chính trị - xã hội
tại nước chủ nhà.
Năng lực kinh doanh: Về phương thức quản lý và thói quen làm việc nước
ngoài có thể không thích nghi với môi trường làm việc tại nước nhận đầu tư, hoặc

cũng có thể làm thay đổi văn hóa kinh doanh tại các địa phương. Đôi khi, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán
14

phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng
khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh, độc chiếm, khống chế thị trường, lấn át các
doanh nghiệp trong nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong
nước không phát triển được.
Chuyển giao công nghệ: Với hoạt động chuyển giao công nghệ, các công ty
nước ngoài có thể trợ giúp cho sự phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư, nhưng
cũng có thể làm cho nước đó phụ thuộc vào sự vận động của dòng công nghệ nước
ngoài. Bên cạnh đó, công nghệ được chuyển giao cho các nước đang phát triển có
thể là những công nghệ không phù hợp, đã lạc hậu và thuộc các ngành gây ô nhiễm
môi trường.
Doanh thu thuế: Các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình
đối với doanh nghiệp nước tiếp nhận trong trường hơp liên doanh để thực hiện biện
pháp “chuyển giá” thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, sản phẩm
dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này làm cho giá sản phẩm cao một cách
giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí “lỗ giả, lãi thật” gây thiệt hại cho người tiêu dùng
và giảm thu ngân sách của nước sở tại.
Gây mất cân đối trong đầu tư: Việc sử dụng FDI không tính toán trước có thể
dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong nước, gây ra sự
mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài); có thể
gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước
ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu,
tiêu thụ sản phẩm). Do đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư
phát triển thì tính độc lập tự chủ bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ
thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc, nhất là khi dòng vốn FDI có sự biến động, giảm
sút lớn.
Chính trị, văn hóa, xã hội: Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính,

các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây
ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế, chính trị, xã hội như làm tăng chênh lệch về
thu nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh
lệch phát triển trong một số vùng hoặc giữa cụm vùng. Ngoài ra việc đầu tư tràn
lan, kém hiệu quả sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên thiên nhiên và sự
15

gia tăng của ô nhiễm môi trường.
Những tác động tích cực và tiêu cực mà đầu tư nước ngoài mang lại cho nước
nhận đầu tư cũng là vấn đề nhiều tranh cãi. Xét trên góc độ lý thuyết thuần túy khó
có thể khẳng định được loại tác động nào chiếm ưu thế mà tùy thuộc vào sự thay
đổi của tình hình kinh tế thế giới, khu vực, cũng như từng nước. Nếu như vào
những năm của thập niên 70, nhiều nước đang phát triển cho rằng tác động tiêu cực
của FDI nhiều hơn tác động tích cực của nó, thì hiện nay, qua lợi ích kinh tế mà FDI
mang lại đã cho thấy vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế ở các nước này.
Kinh nghiệm cho thấy, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, hoạch định những chính sách
phù hợp thì nước tiếp nhận đầu tư hoàn toàn có thể giảm thiểu, hạn chế những mặt
bất lợi mà FDI gây ra, xử lý hài hòa giữa lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài và lợi
ích quốc gia, tạo ra lợi ích tổng thể, sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI để phát triển
kinh tế - xã hội theo những mục tiêu, định hướng phát triển của đất nước.
1.2 Khái quát chung về khu công nghiệp
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp
Khu công nghiệp đã được hình thành và phát triển từ rất lâu ở các nước tư bản
phát triển, nó được hình thành vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Khu
công nghiệp đầu tiên được thành lập năm 1896 ở Manchester (Anh) và vùng công
nghiệp Clearing Chicago (Mỹ). Năm 1940, Ý thành lập khu công nghiệp ở Napoli
Ngày nay, ở nhiều quốc gia, các khu vực trên thế giới, khu công nghiệp, khu chế
xuất được phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khu công nghiệp đầu tiên ở nước ta là KCN Tân Thuận được thành lập năm
1991, đã đánh dấu một bước phát triển mới của mô hình phát triển công nghiệp

nước ta.
Hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều khái niệm về khu công nghiệp. Tùy thuộc
vào điều kiện của từng nước mà đưa ra khái niệm khác nhau.
Theo NIZC (The National Industrial Zoning Committee), định nghĩa khu công
nghiệp như sau: Khu công nghiệp là một vùng đất mà sự kiểm soát và quản lý được
giao cho một cơ quan duy nhất, phù hợp cho mục đích công nghiệp, nhờ vị trí địa
lý, quy hoạch thích hợp và sự sẵn có của các tiện ích và khả năng tiếp cận với giao
thông vận tải. Việc sử dụng được cho phép được quy định bởi giới hạn bảo vệ tối
16

thiểu, bao gồm kích thước của địa điểm, bãi đậu xe và các quy định tải, và đường
xây dựng chướng ngại vật từ phía trước, phía bên và bãi phía sau. Bãi sân trước và
mặt tiếp giáp với đường phố sẽ được chỉnh sửa cho phù hợp với tiêu chuẩn kế hoạch
đặt ra cho khu đất. Tất cả các yêu cầu này nhằm tương thích với cộng đồng và việc
sử dụng đất xung quanh theo kế hoạch nhằm cho phép một nhóm công nghiệp hoạt
động trong khu vực một cách hiệu quả (James T. Walters, 1998).
Ngoài khái niệm trên, tùy theo từng quốc gia mà có khái niệm khác nhau về
khu công nghiệp như:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng lớn có nền tảng là sản xuất công
nghiệp đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp,
dịch vụ sinh hoạt, vui chơi, giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở,… Về thực
chất mô hình này là khu hành chính kinh tế đặc biệt như KCN Batam (Indonexia),
các khu công nghiệp ở Đài Loan, Trung Quốc và một số nước Tây Âu (Nguyễn Thị
Vân Anh, 2010).
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh
sống. Khái niệm này được sử dụng phổ biến ở một số nước như Malayxia,
Indonexia, Thái Lan, Đài Loan với việc hình thành nhiều khu công nghiệp với quy
mô khác nhau (Nguyễn Thị Vân Anh, 2010).
Theo Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP của

Chính phủ ngày 24/4/1997: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh
nghiệp chế xuất.
Theo khái niệm trên, khu công nghiệp là khu được quy hoạch tập chung,
không có dân cư sinh sống, được thành lập theo quyết định của Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ. Trong khu công nghiệp chủ yếu là thực hiện các loại hình sản
xuất, dịch vụ liên quan đến công nghiệp.
Khái niệm nêu rõ trong khu công nghiệp có doanh nghiệp chế xuất. Mà theo
Khoản 21 điều 3 Luật đầu tư 2005, khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản
17

xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoặt động
xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính
phủ. Theo định nghĩa thì khu chế xuất chính là một dạng đặc biệt của khu công
nghiệp, nó có thể nằm trong khu công nghiệp.
Theo khoản 20 điều 3 Luật đầu tư 2005: Khu công nghiệp là khu chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Nghị định 29/2008/NĐ - CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định: Khu
công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện,
trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Từ các khái niệm trên và thực tế phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam,
có thể hiểu một cách tổng quát về khu công nghiệp như sau: Khu công nghiệp là
khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định, có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật -
xã hội đồng bộ đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà ở và các điều kiện
sinh hoạt của người lao động và các tiêu chuẩn về môi trường; là nơi tập trung các
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp (bao gồm cả sản

xuất hàng công nghiệp với công nghệ cao và chuyên sản xuất hàng công nghiệp
xuất khẩu), dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp (dịch vụ xuất nhập khẩu, hoạt
động thương mại, tín dụng, ngân hàng, bưu chính viễn thụng…); nằm trong danh
mục quy hoạch tổng thể các khu công nghiệp được Chính phủ phê duyệt, được cơ
quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư quyết định thành lập theo quy định của pháp luật
về đầu tư và quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất của Chính phủ.
Qua việc tìm hiểu về khái niệm của khu công nghiệp, theo Bùi Ngọc Cường
(Giáo trình luật đầu tư trường đại học luật Hà Nội, 2006) ta có thể rút ra một số đặc
điểm của khu công nghiệp như sau:
Thứ nhất, về không gian: là khu vực ranh giới có địa lý xác định, phân biệt
với các vùng lãnh thổ khác và thường không có dân cư sống.
Các khu công nghiệp thường được xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống
hàng rào khu công nghiệp, phân biệt với vùng còn lại thuộc lãnh thổ quốc gia. Mọi
hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh bên trong hàng rào đó không chỉ được điều
18

chỉnh bởi hệ thống pháp luật hiện hành mà còn phải tuân thủ theo quy chế pháp lý
riêng dành cho khu công nghiệp và được hưởng nhiều ưu đãi. Toàn bộ cơ sở hạ tầng
được xây dựng để phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp và hoạt động cung
ứng dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp trong khu công nghiệp.
Thứ hai, về quy mô: Tập trung tương đối nhiều xí nghiệp công nghiệp trên
một khu vực có ranh giới rõ ràng, sử dụng chung kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội.
Khu công nghiệp là nơi Chính phủ cho phép xây dựng chung một kết cấu hạ tầng
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư, sản xuất tại đó. Trong
khu công nghiệp thì tập trung nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp sản xuất hàng hóa
công nghiệp.
Thứ ba, về sản phẩm: Sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong khu công
nghiệp dành chủ yếu cho thị trường thế giới, đối tượng chủ yếu phục vụ cho xuất
khẩu. Trong khu công nghiệp cũng nhập khẩu nhiều linh kiện, máy móc nước ngoài
nhằm tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Tuy nhiên để tăng thu ngoại tệ bằng

cách giảm tối đa việc nhập khẩu máy móc, thiết bị hàng hoá tiêu dùng.
Thứ tư, về quản lí và tổ chức sản xuất: Các xí nghiệp trong khu công nghiệp
được hưởng quy chế quản lí riêng, có ưu đãi, với ban quản lí thống nhất. Về phía
các xí nghiệp, khả năng hợp tác sản xuất phụ thuộc vào việc tự liên kết với nhau của
từng doanh nghiệp. Còn việc quản lí nhà nước được thể hiện ở chỗ nhà nước chỉ
quy định những ngành được khuyến khích phát triển, và những ngành không được
phép đặt trong khu công nghiệp tập trung vì các lý do nhất định như: môi trường
sinh thái, an ninh quốc phòng. Mọi hoạt động kinh tế trong khu công nghiệp trực
tiếp chịu sự chi phối của cơ chế thị trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi
vậy cơ chế quản lí trong khu công nghiệp lấy điều tiết của thị trường làm chính.
Thứ năm, chính sách ưu đãi: Các xí nghiệp trong khu công nghiệp được
hưởng quy chế ưu đãi riêng như: Về mức thuế ưu đãi, giá cả thuê mướn mặt bằng
sản xuất, thuế thu nhập như cắt giảm tối thiểu các thủ tục hành chính. Có chính sách
kinh tế đặc thù ưu tiên tạo môi trường đầu tư thụân lợi, hấp dẫn nhằm thu hót đầu tư
nước ngoài.
Thứ sáu, nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng: Chủ yếu là nguồn vốn thu hút
đầu tư tư nước ngoài hay các tổ chức cá nhân trong nước.
19

Thứ bảy, mô hình phát triển: Khu công nghiệp là mô hình tổng hợp phát triển
kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song
song; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác
kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh,
ngoài ra cũng có cả doanh nghiệp 100% vốn trong nước.
1.2.2 Phân loại khu công nghiệp
Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hóa, cùng với điều
kiện cụ thể của từng quốc gia, ngày nay có nhiều mô hình khu công nghiệp khác
nhau. Theo Đinh Hoàng Dũng (2011) có thể phân loại các khu công nghiệp theo các
tiêu chí sau:
Theo tính chất ngành nghề:

Theo tiêu chí này thì khu công nghiệp được chia thành 3 loại sau:
Thứ nhất, khu công nghiệp chuyên ngành: Được hình thành từ các xí nghiệp
công nghiệp cùng một ngành hoặc một số ít ngành công nghiệp khác nhau nhưng
cùng sản xuất ra một số loại sản phẩm, chủ yếu hình thành từ các ngành chủ đạo
như: hoá chất - hoá dầu, điện tử - tin học, vật liệu xây dựng, chế tạo và lắp ráp cơ
khí.
Thứ hai, khu công nghiệp đa ngành: Gồm nhiều xí nghiệp thuộc nhiều ngành
công nghiệp khác nhau. Khu công nghiệp đa ngành cho phép thoả mãn được yêu
cầu về lãnh thổ cho sản xuất công nghiệp, song trong quy hoạch xây dựng cần lưu ý
vấn đề nhóm môi trường nhằm hạn chế tác động ảnh hưởng xấu giữa các xí nghiệp
khác nhau, tiết kiệm đầu tư hạ tầng.
Thứ ba, khu công nghiệp sinh thái: Là mô hình mang tính cộng sinh công
nghiệp. Các ngành công nghiệp được lựa chọn sao cho các nhà máy có mối liên hệ
với nhau, hỗ trợ và tương tác với nhau tạo nên môi trường sạch và bền vững. Với
mô hình này thì phế liệu của nhà máy này có thể làm nguyên liệu cho nhà máy kia
hoặc sản phẩm của nhà máy này sẽ là nguyên liệu, vật tư của nhà máy kia
Theo quy mô diện tích:
Phân loại theo tiêu chí này, phụ thuộc vào quan điểm của từng nước, chủ yếu
để phục vụ cho việc xếp hạng khu công nghiệp. Thông thường có 4 loại là: khu
công nghiệp nhỏ, trung bình, lớn và rất lớn.
20

Theo các điều kiện hình thành:
Theo cách phân loại này có: các khu công nghiệp thành lập mới, khu công
nghiệp nâng cấp mở rộng và khu công nghiệp di dời tập trung.
Theo đặc điểm và cấp quản lý:
Theo tiêu chí này có 3 loại:
Một là khu công nghiệp do Chính phủ quyết định thành lập.
Hai là khu công nghiệp do UBND tỉnh, thành phố quyết định thành lập.
Ba là khu công nghiệp do UBND huyện, thị quyết định thành lập.

1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào khu công nghiệp
Thứ nhất, môi trường chính trị xã hội:
Môi trường chính trị xã hội biểu hiện ở các điểm chính là cục diện chính trị ổn
định, an ninh xã hội tốt, chính sách cởi mở, quan hệ quốc tế tốt đẹp, đối xử bình
đẳng giữa các nhà đầu tư. Với mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận và đảm bảo về vốn,
tài sản và tính mạng, các nhà đầu tư không thể an tâm đầu tư ở một khu công nghiệp
của quốc gia, địa phương không ổn định chính trị, có chiến tranh, rối loạn trật tự xã
hội hoặc có chính sách, luật pháp thay đổi tùy tiện bất lợi, thiếu thiện ý, bình đẳng
đối với người nước ngoài.
Nhiều quốc gia trên thế giới với lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, thị trường
rộng lớn, tuy nhiên, chính trị bất ổn đã làm cho quốc gia đó thu hút được rất ít
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào các khu công nghiệp, mặc dù nhà nước luôn
tạo mọi điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài với những chính ưu đãi về thuế cũng
như thủ tục đầu tư nhanh chóng. Điển hình như khi sự kiện Thiên An Môn xảy ra,
phải mấy năm sau Trung Quốc mới thu hút được các nhà đầu tư. Hoặc ở Nga, mặc
dù là một thị trường rộng lớn, giàu tiềm năng nhưng trong những năm bất ổn chính
trị từ 1986 đến 1993 chỉ thu hút được 2,7 tỷ USD đầu tư nước ngoài. Trong khi các
nước có nền chính trị ổn định như Singapore, Malaysia, Việt Nam… thì dòng vốn
FDI chảy vào ngày càng nhiều vào các khu công nghiệp, cùng với đó là tốc độ tăng
trưởng kinh tế ngày càng cao. Vì vậy, yếu tố về môi trường chính trị xã hội là yếu tố
đầu tiên, quan trọng nhất để các nhà đầu tư nước ngoài xem xét có nên đầu tư vào
khu công nghiệp của một quốc gia hay không ( Đặng Thị Lý, 2009).

×