Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Vảy nến da đầu - Kẻ quấy nhiễu mùa đông potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.4 KB, 3 trang )

Vảy nến da đầu - Kẻ quấy
nhiễu mùa đông


Không đến nỗi làm cho bệnh nhân đau đớn, không đe dọa tính mạng người bệnh, nhưng
bệnh vảy nến da đầu (VNDĐ) gây cho người bệnh sự khó chịu do ngứa ngáy, ảnh hưởng
đến chất lượng cuộc sống, thậm chí gây những chấn thương tâm thần bởi cảm thấy xấu
hổ, ngượng ngùng, muốn xa lánh bạn bè, cách ly xã hội. Mới đây, Hội nghị khoa học về
đối phó với những thách thức của bệnh VNDĐ đã
được tổ chức tại Hà Nội.
Nhận diện kẻ thù
Vảy nến là một bệnh da liễu mạn tính và da đầu là
một trong những khu vực bị ảnh hưởng thường
xuyên nhất với sự tróc vảy và những mảng vảy nến
sưng đỏ. Nó dai dẳng hơn vảy nến ở những vùng
khác trên cơ thể. Dấu hiệu đặc trưng của VNDĐ là
hiện tượng tróc vảy, có nhiều sưng đỏ thành từng
vùng có ranh giới rõ ràng, dễ nhận thấy dọc theo
mép tóc, trên trán hoặc sau tai. Nếu không được
điều trị, sẽ thường làm xuất hiện các miếng vảy
màu trắng bạc và bóng giống như paraffin.
Theo TS. Nguyễn Duy Hưng - Tổng thư ký Hiệp
hội Bệnh vảy nến, mấy năm gần đây tỉ lệ bệnh nhân tới điều trị bệnh da đầu ngày càng
cao. Nhiều người đến trong tình trạng tổn thương nặng do tự bôi thuốc hoặc sử dụng
những bài thuốc dân tộc cổ truyền theo sự mách bảo của người quen. Với bệnh VNDĐ,
không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ và tâm lý người bệnh mà còn có thể liên quan đến
một số bệnh lý quan trọng khác: hội chứng chuyển hóa, bệnh lý tim mạch dẫn đến tình
trạng tuổi thọ thấp.

Vảy nến da đầu gây khó chịu, mất
tự tin cho người bệnh.


VNDĐ - Bệnh không của riêng quốc gia nào
Tại hội thảo, GS. Thomas Luger - Giám đốc, Chủ tịch khoa Da, Trường đại học
Westphalian Wihelons, Munster (Đức), Chủ tịch Hội da của Đức cho biết một thông tin
thú vị: tỉ lệ mắc bệnh vảy nến ở châu Âu (da trắng) cao hơn châu Á, châu Phi (da vàng,
da đen). Ở Đức, vảy nến là một trong các bệnh da phổ biến nhất, VNDĐ chiếm khoảng
50% bệnh nhân vảy nến và là một thách thức lớn vì da đầu là vùng rất khó điều trị. Bệnh
VNDĐ thường phát triển ở độ tuổi sau dậy thì, nhưng ngày nay bệnh nhân là trẻ em cũng
nhiều. Ở Đức, tỉ lệ trẻ em mắc bệnh VNDĐ khoảng 1%, bệnh nhân độ tuổi này điều trị
rất khó vì các thuốc dùng hiện nay đều được khuyến cáo chỉ dùng cho trẻ em từ 10 tuổi
trở lên. Bệnh VNDĐ thường phát triển vào mùa đông, không khí khô hanh thường kích
hoạt vảy nến phát triển. Đặc biệt bệnh nhân ở tình trạng căng thẳng thần kinh cũng là
nguyên nhân bùng phát bệnh vảy nến.
GS. Thomas cũng thông báo kết quả nghiên cứu sự kết hợp giữa calcipotriol và
betamethasone dipropionate trong công thức dạng gen để điều trị VNDĐ. Sự kết hợp
giữa hai hoạt chất này là một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả, các phản ứng phụ
rất thấp, hiệu quả lâm sàng được cải thiện rõ rệt, hoàn toàn thích hợp cho việc quản lý
bệnh VNDĐ trong thời gian điều trị lâu dài.


Tổn thương vảy nến trên da.
Đối phó thách thức của bệnh VNDĐ
Tại hội thảo, TS. Trần Văn Tiến - Phó giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương cho biết,
hiện nay cả nước có 800 bác sĩ chuyên khoa da liễu trình độ khác nhau, chủ yếu tập trung
ở thành phố. Tỉ lệ 800 bác sĩ/83 triệu dân là quá thấp. Nhiều bệnh nhân đã tự ý xử lý bệnh
của mình không theo sự chỉ định của bác sĩ hoặc theo kinh nghiệm dân gian truyền cho
nhau, chẳng hạn như dùng vảy tê tê. Theo TS. Trần Văn Tiến, chưa có kết luận khoa học
về tác dụng của vảy tê tê trong điều trị bệnh vảy nến, có thể nó chỉ có tác dụng điều trị tại
chỗ bên ngoài.
Lời khuyến cáo của các bác sĩ là bệnh nhân khi có triệu chứng của bệnh vảy nến cần phải
đi khám để xác định thể bệnh vì một số bệnh ngoài da rất giống bệnh vảy nến. Điều trị

bệnh vảy nến phải cân nhắc về tuổi, thể bệnh, vị trí thương tổn, diện tích da tổn thương,
các thuốc bệnh nhân đã sử dụng
Thực tế hiện nay, bệnh nhân VNDĐ không mấy hài lòng với những liệu pháp chữa trị
hiện có và mong muốn có sự giảm việc sử dụng thuốc trong các liệu pháp điều trị mới đối
với bệnh này. Một trong những cách để tăng sự tuân thủ đối với liệu pháp điều trị bệnh
VNDĐ là việc cải thiện việc sử dụng thuốc, mang lại tính hiệu quả cao so với những liệu
pháp hiện có.
Tuy nhiên, TS. Nguyễn Duy Hưng cho rằng, điều trị bệnh vảy nến phải dựa vào từng
trường hợp cụ thể vì có một số thuốc điều trị tốt nhưng lại gây tác dụng xấu đến các bệnh
khác. Dựa trên 7 yếu tố để chỉ định điều trị phù hợp: mức độ bệnh, diện tích thương tổn;
sự ảnh hưởng của bệnh đến chất lượng sống; mức độ ảnh hưởng của bệnh đến tâm lý
người bệnh; mức độ nguy hại của trị liệu với hiệu quả trị liệu; các bệnh lý toàn thân; nhu
cầu và mong muốn điều trị của người bệnh; giá thành trị liệu để đưa ra tiêu chuẩn lựa
chọn thuốc: dễ sử dụng; thuận tiện; an toàn; hiệu quả nhanh và lâu dài.
Hiện nay chưa xác định được nguyên nhân đích thực của bệnh vảy nến, người ta chia ra
các nhóm bệnh với những nguyên nhân khác nhau: cơ địa (gen di truyền: nếu bố hoặc mẹ
bị bệnh thì có khoảng 8% con bị bệnh, nếu cả bố và mẹ đều bị bệnh thì có tới 41% con
mắc bệnh); yếu tố khởi động (mắc các bệnh nhiễm khuẩn, sang chấn tâm lý, sang chấn tại
chỗ ); rối loạn miễn dịch.
Hương Lan

×