Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Triển vọng xuất khẩu vào EU sau khi Việt Nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 24 trang )

VỤ CHÂU ÂU

TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU VÀO EU
SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO


A - Vài nét về Liên minh châu Âu
Đại chiến thứ 2 kết thúc, một số chính khách Âu thấy rằng châu Âu cần được liên
kết chặt chẽ, trước hết là kinh tế và chính trị để có vị trí xứng đáng hơn, tiến tới thành lập
Hợp chủng quốc châu Âu từng bước cạnh tranh với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hùng
mạnh.
Nỗ lực nhất thể hóa châu Âu được hình thành từ những năm 50 thế kỷ 20. Hiệp ước
thành lập Cộng đồng Than Thép ký năm 1952 đã đặt nền móng cho việc hình thành Liên
minh châu Âu rộng lớn ngày nay.
Liên minh châu Âu (EU) là hình thức hội nhập khu vực ở trình độ cao với nhiều
triển vọng tốt đẹp cho các nước thành viên và cho toàn châu Âu, đang phát triển sâu rộng
trên tất cả các lĩnh vực phấn đấu trở thành khu vực phát triển nhất hành tinh, đủ sức đối
phó với các thách thức toàn cầu trong thế kỷ 21, có lợi cho xu thế hoà bình và hợp tác
phát triển toàn cầu
Vị thế chính trị, tiềm lực kinh tế, thương mại, tài chính, khả năng phòng thủ của EU
không ngừng tăng sau mỗi lần mở rộng, đặc biệt mở rộng lần thứ năm thêm 10 thành
viên và lần thứ 6 thêm 2 thành viên mới ở Đông và Nam Âu. Việc này đặt ra cho tất cả
các thành viên EU, châu Âu và thế giới rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu xử lý,
không chỉ kinh tế thương mại.
Hiến pháp mới của EU được soạn thảo theo hướng minh bạch hơn, dân chủ hơn và
hiệu quả hơn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ do các bất đồng về quyền lực giữa nước
lớn và nhỏ, giữa chính phủ quốc gia thành viên và bộ máy hành pháp của khối, giữa
thành viên cũ và mới về khoảng cách phát triển, về nhập cư, lao động, an sinh xã hội,
thâm hụt ngân sách, chính sách đối ngoại, an ninh phòng thủ chung
Đồng tiền chung châu Âu (Euro) sau 21 năm chuẩn bị đã được lưu hành tại 12 nước
thành viên từ 1/ 1/ 2002, kết thúc quá trình nhất thể hoá về tiền tệ, một sự kiện quan


trọng thứ 2 sau việc Mỹ quyết định chấm dứt đổi USD ra vàng, làm cho vị thế của USD
bị hạ thấp.
Một số chỉ số kinh tế vĩ mô của EU
(%)
2002 2003 2004 2005 2006
2007
(Dự
bỏo)
Tốc độ tăng GDP
1,2 1,2 2,4 1,5 2,5 2,4
1
Tốc độ tăng tiêu dùng
1,6 1,6 2,1 1,6 1,6 2,1
Tốc độ tăng tổng đầu tư
-1,2 0,8 3,0 2,3 3,5 3,6
Tốc độ tăng việc làm
0,4 0,2 0,6 0,9 1,0 1,0
Tỷ lệ thất nghiệp
8,7 9,0 9,0 8,7 8,5 8,1
Tỷ lệ lạm phát
2,1 1,9 2,1 2,3 2,2 1,9
Nợ chính phủ (% GDP)
61,4 63,0 63,4 64,1 64,2 64,3
Cán cân tài khoản vãng lai (%
GDP)
0,3 0,1 0,0 -0,3 -0,4 -0,3
B - Quan hệ kinh tế thương mại Việtnam – EU
Nhìn chung quan hệ Việt Nam-EU phát triển toàn diện theo hướng tích cực đặc biệt
về kinh tế thương mại phù hợp với lợi ích chiến luợc của ta, góp phần tạo thế cân bằng
tích cực với các đối tác khác.

Chính sách của EU với Việt Nam nằm trong chính sách với các nước đang phát
triển, hợp tác trong khuôn khổ Việt Nam là thành viên của ASEAN, WTO. Chính sách
này được hình thành rõ nét trong các năm gần đây đang trong quá trình vừa hoàn thiện
vừa khai thác. Mặc dù thiện cảm về chính trị, ủng hộ giúp đỡ nhiều mặt, đặc biệt viện trợ
phát triển, cho đại bộ phận hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi GSP,
nhưng EU chưa công nhận Việt Nam là nước kinh tế thị trường.
Quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước thành viên và với thể chế
EU đã hình thành từ lâu, phát triển mạnh vào những năm đầu của thập kỷ 1990 , nhất là
sau khi hai bên ký các Hiệp định về Hợp tác kinh tế, Thương mại, Khoa học kỹ thuật
với các mục tiêu: (1) Đảm bảo các điều kiện cần thiết thúc đẩy phát triển thương mại,
đầu tư trên cơ sở cùng có lợi và dành cho nhau quy chế tối huệ quốc. (2) Trợ giúp phát
triển kinh tế bền vững ở Việt Nam , đặc biệt chú trọng cải thiện đời sống cho các tầng
lớp dân cư nghèo. (3) Trợ giúp các nỗ lực của Việt Nam trong việc cơ cấu lại nền kinh tế
theo cơ chế thị trường. (4) Trợ giúp nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng lâu dài nguồn
tài nguyên thiên nhiên theo hướng phát triển bền vững.
Cùng với các Hiệp định về hàng dệt may và giầy dép , Thoả thuận về mở cửa thị
trường trong đó có việc bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam từ 01/01/2005 và Thoả
thuận Việt Nam gia nhập WTO ký năm 2004, quan hệ thương mại giữa EU với Việt
Nam đã bước sang thời kỳ phát triển mới, mạnh mẽ và toàn diện hơn.
Buôn bán Việt Nam – EU tăng nhanh trong các năm gần đây, từ 3,6 tỷ USD năm
1999 lên 9,9 tỷ USD năm 2006, trong đó Việt Nam xuất khẩu 6,9 tỉ USD chiếm 17,4%
tổng ngạch xuất khẩu cả nước, chủ yếu giầy dép 1,9 tỷ USD, dệt may 1,2 tỷ USD, cà phê
478,5 triệu USD, chè 10 triệu USD, hạt tiêu 62 triệu USD, xe đạp và phụ tùng 54,8 triệu
USD, sản phẩm nhựa 102,7 triệu USD, cao su 155 triệu USD, thủ công mỹ nghệ 182
triệu USD, hải sản 730,8 triêụ USD, đồ gỗ 488 triệu USD
2
Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước E.U
(Đơn vị: Triệu$. Theo thống kê của Tổng Cục Hải quan)
Tên nước 2003 2004 2005 Ước 2006
Xuất Nhập Xuất Nhập Xuất Nhập Xuất tăng Nhập tăng

Ai-len 17,1 15,7 28,2 14,6
25,14 22,24 37,9
50,57
% 22,0
-1,08%
Anh 754,8 216,6 980,9 217,2
1015,8 185,05 1168,9
15,07
% 202,5
9,4%
Áo 38,3 44,0 54,6 55,0 88,9 50,95 95,7 7,65% 56,4 10,7%
Bỉ + Lux 391,6 168,7 497,5 136,1
544,3 172,43 672,2 23,5% 230,7
33,79
%
Bồ Đào Nha 10,4 3,2 15,3 4,0
22,91 11,93 32,3
41,05
% 10,2
-14,5%
Đan Mạch 71,2 72,0 74,8 77,2
88,23 70,54 103,1
16,85
% 111
57,35
%
Đức 854,7 609,8 1.017,6 679,9 1086,7 662,54 1386,5 27,5% 881,9 33,1%
Hà Lan 493,2 328,6 558,7 174,1
659,7 313,31 842,1 27,6% 359,2
14,65

%
Hy Lạp 42,0 1,1 43,1 -
55,08 4,85 63,8
15,83
% 1,8
-62,8%
I-ta-li-a 331,1 372,0 354,1 295,7
469,72 288,1 624,9
33,03
% 320,2
11,14
%
Phần Lan 28,1 33,4 38,6 52,5
57,14 42,65 67,4
17,95
% 83,5
23,88
%
Phỏp 496,1 414,0 529,4 612,3 652,7 447,8 780,9 19,6% 411,2 -8,17%
Tõy Ban Nha 234,1 79,2 298,3 90,0 410,4 76,77 533,4 29,9% 96,6 25,8%
Thụy Điển 90,0 113,6 102,9 112,9 133,6 139,43 169 26,5% 131,4 -5,76%
Balan
82,17 38,9 81,8 47,17 155,9 90,5% 55,8
18,29
%
Estonia 2 1,73 4,24 2,5 8,3 95,7% 2,2 12%
Hungary
21,64 16,4 27,03 18,47 31,8
17,64
% 25,2

36,43
%
Latvia
3,5 0,56 3,68 0,56 4,7 27,7% 1,7
63,84
%
Litva
7,3 0,9 16,33 0,85 14,5 -11,2% 1,2
41,76
%
Malta 0,76 0,1 2,12 0,1 1,9 -10,3% 0,5 400%
Sộc
43,73 14,6 49,05 15,9 69,3
41,28
% 21,9
37,73
%
Sớp
2,9 8,6 4,8 10,69 5,7
18,75
% 7,1
-33,5%
Slovakia 8,62 3,01 11,67 2,08 21,2 81,6% 2,7 29,8%
Slovenia
7 0,78 8,9 1,31 11,0 23,6% 3,2
144,2
%
EU 3.858,
8
2.472,

0
4.962,
6
2.667,
5
5.519,
9
2.588,
2
6.900,
8
25% 3.001,
2
15,9%
Các nhóm hàng tăng trưỏng xuất khẩu cao trong 2006 và các năm tiếp theo là thuỷ
sản, đồ gỗ, dệt may, sản phẩm cao su, sản phẩm cơ khí, điện dân dụng và sản phẩm công
nghệ thông tin, đồ chơi trẻ em.
Một số mặt hàng xuất khẩu chớnh của Việt Nam sang EU
(Đơn vị: triệu USD)
TT Tờn hàng 2001 2002 2003 2004 2005 Ước 2006 tăng
01 Hải sản 116,7 97,9 153,2 245,3 439,9 730,85 66,14%
3
02 Cà phờ 201,8 170,5 262,3 389 309,1 478,5 54,8%
03 Dệt may 607,7 551,9 537,1 760 882,8 1215,17 37,63%
04 Giày dộp 1.163,0 1.327,9 1602,5 1782,4 1783,4 1916,71 7,45%
05 Đồ gỗ 464,93 488,16 7,17%
06 Điện tử vi tính 196,5 275,15 43,21%
07 Thủ cụng mỹ nghệ 119,2 149,5 172 204 178,3 182,13 3,19%
08 Sản phẩm nhựa 32,32 60,28 102,73 93,63%
09 Cao su 83,55 125 155,45 70,81%

10 Xe đạp 178,78 102,1 54,81 -50,05%
Tổng Xuất 3.002,9 3.149,9 3.858,8 4.962,6 5.519,9 6.900,8 25%
Nguồn: Tổng Cục Hải quan

Việt Nam nhập khẩu từ EU nhiều máy móc, thiết bị công nghệ nguồn chất lượng
cao chiếm 10% kim ngạch nhập khẩu, chủ yếu gồm thiết bị toàn bộ, máy, phụ tùng,
phương tiện vận tải bao gồm cả máy bay, tàu biển, o tô, xe lửa, nguyên liệu, hoá chất, tân
dược, phân bón, vât liệu xây dựng, sắt thép, sản phẩm cơ khí, hàng tiêu dùng cao cấp…
Tuy vậy, thương mại dịch vụ chưa phát triển.
Một số mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chớnh từ EU
(Đơn vị: triệu USD)
TT Tờn hàng 2001 2002 2003 2004 2005 Ước 2006 tăng
01 Mỏy múc thiết bị 641,9 910,1 1270,8 1261,9 995,5 1230,35 23,59%
02 NPL Dệt may da 83,3 66,2 763 89,4 107,5 92,5 -14%
03 Tân dược 71,4 91,1 110,4 154,66 187,4 229,5 22,46%
04 Sắt thộp cỏc loại 68,3 49,9 71,4 73,5 76,7 52,9 -31%
05 Phõn bún cỏc loại 2,7 8,7 9,3 6,6 4,15 3,9 -6%
Tổng NK 1.527,4 1.841,1 2.472 2.667,5 2.588,5 3.001,2 15,9%
Nguồn: Tổng Cục Hải quan
EU đồng thời là nhà cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam trong 19 lĩnh vực
gồm các dự án quản lý kinh tế, quản trị phát triển, tài nguyên, nông lâm thuỷ sản, phát
triển vùng, công nghiệp, năng lượng, thương mại, vận tải, truyền thông, xã hội, y tế,
phòng chống thiên tai, viện trợ nhân đạo, hỗ trợ về giới tính v.v…Trong đó, các lĩnh
vực/ngành nghề được tài trợ nhiều nhất là nông lâm thủy sản (17,58%), tài nguyên
(13,15%), y tế (9,59%), phát triển xã hội (9,58%). Ngoài ra, các nước thành viên EU còn
cung cấp vốn ODA thông qua các tổ chức tài chính đa phương.
Hiện nay 19 trong số 27 nước thành viên EU có các dự án đầu tư vào Việt Nam.
Tính đến 3/2006, EU có 551 dự án với tổng vốn đăng ký 7,34 tỷ USD, thực hiện 4,06 tỷ
USD. Trong đó, Pháp dẫn đầu với 168 dự án tổng vốn đầu tư 2,8 tỷ USD, tiếp theo là Hà
Lan 62 dự án với tổng vốn đăng ký gần 2 tỷ, Anh 70 dự án, tổng vốn đăng ký là 1,28 tỷ

USD.
Các nhà đầu tư EU đó có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của Việt
Nam nhưng tập trung nhiều nhất vào công nghiệp và xây dựng (280 dự án với tổng vốn
đầu tư là 4,18 tỷ USD, chiếm 54,8 % số dự án và 59,8 % tổng vốn đầu tư), trong đó công
nghiệp nặng có 118 dự án với tổng vốn đầu tư gần 1,97 tỷ USD, tiếp theo là khai thác
dầu khí 6 dự án với 1,32 tỷ USD. Trong lĩnh vực dịch vụ, EU có 181 dự án với tổng vốn
2,43 tỷ USD (chiếm 35,4 % số dự án và 34,6 % tổng vốn đầu tư). Còn lại là nông, lâm
nghiệp - 50 dự ỏn với tổng vốn đầu tư là 457,6 triệu USD.
Nhìn chung, các nhà đầu tư Châu Âu có ưu thế về công nghệ, vì vậy đã góp phần
tích cực trong việc tạo ra một số ngành nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công
4
nghệ cao. Một số tập đoàn lớn của EU đang hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam như BP
(Anh), Shell Group (Hà Lan), Total Elf Fina (Pháp Bỉ), Daimler Chrysler (Đức), Siemen,
Alcatel Comvik (Thuỵ Điển)…. Xu thế đầu tư của EU chủ yếu vẫn tập trung vào các
ngành công nghiệp công nghệ cao, tuy nhiên, gần đây có xu hướng phát triển tập trung
hơn vào các ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, văn phũng cho thuờ, bỏn
lẻ).
Tính đến hết tháng 3/2006, Việt Nam đã có 12 dự án đầu tư sang CHLB Đức, CH
Séc, Ba lan, Luxembourg, Bỉ Anh và Pháp với tổng vốn đầu tư 7,26 triệu USD, thực
hiện 192.647 USD.
Tuy nhiên, các kết quả nêu trên còn thấp so với tiềm năng và lợi thế của mỗi bên,
chủ yếu do:
Phía Liên minh châu Âu:
+ Trên thực tế, cho đến 1995 chính sách thương mại đầu tư của EU chủ yếu nhằm vào
các thị trường truyền thống là châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và Địa Trung Hải. Với châu
á, trong đó có Việt Nam, chính sách thương mại đầu tư của EU mới được hình thành,
đang trong quá trình vừa khai thác vừa hoàn thiện.
+ Mặc dầu dành cho Việt Nam thiện cảm, nhưng EU chưa thực sự dành mối quan tâm
tới Việt Nam như đối với Trung Quốc và các đối tác khác ở châu á. EU vẫn xếp Việt
Nam vào danh sách những nước có nền kinh tế phi thị trường và thực hiện chế độ quản

lý hạn ngạch hàng dệt may cho tới 31/1/2004.
+ Thời gian qua, kinh tế phần lớn các nước EU tăng chậm. Khi EU triển khai chính
sách hướng về Châu á cuối những năm 1990 thì lúc này Châu á lại rơi vào khủng hoảng
tài chính tiền tệ, làm giảm đáng kể hoạt động thương mại và đầu tư của EU vào khu vực,
trong đó có Việt Nam.
Phía Việt Nam:
+ Môi trường kinh doanh và đầu tư ở Việt Nam chưa thật sự hấp dẫn. Tình trạng
thiếu minh bạch, không ổn định của pháp luật cũng như thiếu nghiêm minh trong việc thi
hành luật pháp và tệ tham nhũng, thủ tục hành chính phiền hà đôi khi làm cho các nhà
đầu tư châu Âu nản chí.
+ Việc hình thành và phát triển quan hệ với các nước EU chủ yếu tuỳ thuộc vào nhận
thức của từng ngành, từng địa phương, thiếu phương hướng rõ rệt và không chủ động
trong việc đề ra các ý tưởng và sáng kiến để thúc đẩy quan hệ Việt Nam và EU.
+ Trong điều hành đôi khi chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, địa phương
và doanh nghiệp nhằm tạo thế và lực tổng hợp trong quan hệ giữa Việt Nam với EU.
Để khơi dậy và khai thác các tiềm năng trong quan hệ với EU, ngày 26/5/2005, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Đề án tổng thể quan hệ Việt Nam – EU và Chương trình
hành động của Chính phủ đến 2015. Đây là các định hướng quan trọng định ra các giải
pháp chung và riêng đối với tất cả các lĩnh vực, trọng tâm là kinh tế và thương mại vì
kinh tế và thương mại là nền tảng và là điều kiện vật chất thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác
khác có hiệu quả, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ký với EU hiệp định hợp
tác mới sâu rộng hơn vào thời điểm thích hợp, sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
C – Triển vọng Xuất khẩu vào thị trường EU

5
Thị trường EU 27 gồm hầu hết các nước châu Âu với gần 4 triệu km2 và 456 triệu
dân có thu nhập cao. GDP gần 11.000 tỷ USD chiếm 27% GDP thế giới. Tổng ngạch
ngoại thương gần 1.400 tỷ USD chiếm gần 20% thương mại toàn cầu. Nếu tính cả mậu
dịch nội khối thì tổng ngạch mậu dịch là 3.092 tỷ chiếm 41.4% thị phần thế giới. EU
đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ chiếm 43,8% thị phầm thế giói gấp 2,5 lần Mỹ

và chiếm 42,7 nhập khẩu dịch vụ thế giới. Đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI toàn
cầu và nhận 20% đàu tư từ bên ngoài.
Dự báo xuất khẩu vào EU năm 2007 đạt 8,3 tỷ USD, tăng 22% so với 2006 trong
đó, các mặt hàng dệt may, thuỷ sản, cao su tự nhiên, đồ gỗ, cà phê, túi xách, thủ công mỹ
nghệ, điện tử vi tính, sản phẩm nhựa sẽ tăng khá cao.
Xuất khẩu dệt may có khả năng tiếp tục tăng trưởng nhưng khó duy trì được mức
37% như năm 2006 do từ 11/ 1/ 2007, dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường 149
nước Thành viên WTO không phải chịu hạn ngạch sẽ tạo ra sự điều chỉnh lớn trong
chiến lược và kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoa Kỳ sẽ là thị trường có sức
hút rất mạnh đối với nhiều doanh nghiệp và nhiều mặt hàng nhất là các doanh nghiệp lớn
và các chủng loại mặt hàng được giảm thuế nhập khẩu và/hoặc được bãi bỏ hạn ngạch.
Thủy sản tiếp tục sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực có mức tăng trưởng cao, dự
kiến kim ngạch đạt ngưỡng 1,5 tỷ USD tăng 49%. Sẽ không có tỡnh trạng hỳt hàng của
thị trường Mỹ như đối với hàng dệt may do tỡnh hỡnh xuất khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ
cũn bị nhiều hạn chế bởi thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, khó có tăng trưởng đột biến
vỡ EC kiểm tra chất lượng thủy sản nhập khẩu rất nghiêm ngặt. Nhiều năm qua EC đó
cử thanh tra thỳ y vào Việt Nam kiểm tra cỏc cơ sở nuôi và chế biến tôm xuất khẩu của
Việt Nam. Vấn đề dư lượng hoá chất và nguy cơ nhiễm khuẩn thuỷ sản nếu không được
giải quyết một cách triệt để sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc xuất khẩu mặt hàng này.
Trong thị trường thuỷ sản EU, Tây Ban Nha dường như có nhiều khó khăn hơn cả. Tây
Ban Nha theo dừi thủy sản nhập khẩu rất chặt và hay ban hành cỏc lệnh cảnh báo thú y
thậm chí trong cả các trường hợp EC chỉ ra thông báo.
Đồ gỗ và Thủ cụng mỹ nghệ dự kiến tăng trưởng 6% với kim ngạch tương ứng
509 và 192 triệu USD.
Cà phê tăng 30% đạt 621,4 triệu USD.
Sản phẩm nhựa và cao su tăng 59 và 50%, kim ngạch 164,3 triệu và 233,2 triệu
USD.
Các sản phẩm điện tử - vi tính tiếp tục tăng trưởng mạnh, có thể đạt mức 40% với
kim ngạch 385,2 triệu USD.
Dự kiến xuất khẩu một số mặt hàng vào EU

Đ/v: triệu USD
2006 DK 2007 Tăng trưởng
Giày dép (Hải quan) 1916.71 2089,2
9%
Dệt may 1215.17 1494,6
27%
Thủy sản 730.55 1095,7
49%
Đồ gỗ 480.16 509,0
6%
TCMN 182.13 191,9
6%
Cafè 478.50 621,4
30%
Sản phẩm nhựa 102.73 164,32
59%
6
Cao su 155.45 233,18
50%
Điện tử, Vi tính 275.15 385,21
40%
Do EC áp thuế chống phá giá, xe đạp và giày mũ da là hai mặt hàng tiếp tục gặp
khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu xe đạp có thể sút giảm hơn nữa. Giày mũ da tuy vẫn có
khả năng tăng trưởng nhưng khó có thể đạt mức cao như trước khi bị áp thuế chống phá
giá. Dự bỏo mức tăng trưởng năm 2007 khoảng 10%.
EU là thị trường mở chứa đựng các yếu tố cạnh tranh rất cao, đồng thời yêu cầu cao
về chất lượng hàng, về sinh môi trưòng, nhãn mác, bao bì Khung pháp lý về thị trường
đã được mở hoàn toàn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam ngoài việc tiếp tục được hưởng
ưu đãi GSP.
Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU nói riêng, thị trường thế giới nói

chung, các giải pháp có thể là :
- Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách theo hướng khuyến khích nước ngoài đầu tư
vào sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần giải quyết khâu yếu nhất hiện nay là không có
nhiều hàng để xuất khẩu, không đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trưòng.
- Ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt ổn định giá đất, điện, nước, cước vận
tải và các yếu tố khác liên quan đến giảm giá thành sản xuất để nâng cao năng lực cạnh
tranh hàng xuất khẩu. Tiếp tục cấp tín dụng xuất khẩu.
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thị trường ngoài nước. Xử lý tốt các rào cản
thương mai. Mở rộng liên doanh hợp tác với các tập đoàn đa quốc gia để mở rộng thị
trưòng xuất khẩu. Mạnh dạn mở của thị trường dịch vụ để giảm chi phí giao dịch.
- Triệt để cải cách thủ tục hành chính theo hướng thuận lợi cho xuất khẩu
- Đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng nâng cao hiệu quả. Tập trung
vào các thị trường và mặt hàng trọng điểm, thị trường và mặt hàng mới.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần hiểu rõ chính sách thương mại, các định chế, quy
định và các yêu cầu sau đây của thị trường EU :
1 -Chính sách thương mại:
Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật pháp cho phù
hợp với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ
nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. EU trợ cấp sản
xuất nông nghiệp trong khối đồng thời đánh thuế cao và áp dụng hạn ngạch đối với một
số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, chuối, sắn lát Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm v.v luôn được thực hiện nghiêm ngặt.
7
Bên cạnh cam kết với các nước thành viên WTO, EU ký nhiều hiệp định thương
mại và các hiệp định ưu đãi khu vực và song phương và dành chế độ MFN toàn phần
dành cho sản phẩm nhập khẩu từ úc, Canada, Đài-loan, Hồng-kong, Trung-quốc, Nhật-
bản, Hàn-quốc, Tân-tây-lan, Sing-ga-po và Hoa-kỳ và các hiệp định ngành hàng song
phương khác.
Bên cạnh các cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ WTO về nông nghiệp,
EU duy trì hạn ngạch áp dụng thuế quan đối với một số sản phẩm, giảm dần trị giá và số

lượng các sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu. Trong một số lĩnh vực dịch vụ, EU đã có
cam kết cụ thể thực hiện theo lịch trình chung của GATS, kể cả lĩnh vực viễn thông cơ
bản, tài chính và dịch vụ nghe nhìn.

EU áp dụng Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) dành cho 143 quốc gia và
36 vùng lãnh thổ, trong đó các nước chậm phát triển nhất được ưu đãi nhiều hơn theo
sáng kiến "Mọi sản phẩm trừ vũ khí- EBA".

EU áp dụng nhiều biện pháp tác động trực tiếp đến nhập khẩu vào EU như thủ tục
hải quan, quy tắc xuất xứ, thuế quan, thuế gián tiếp, giấy phép, biện pháp tự vệ, quy tắc
và tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, chống bán phá giá
Tất cả các nước thành viên EU áp dụng chính sách ngoại thương chung đối với
ngoại khối. Uỷ ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong đàm phán,
ký các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại
thương của EU gồm chính sách thương mại tự trị (Autonomous Commercial) và chính
sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định (Treaty based Commercial policy), được xây
dựng dựa trên các nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh
tranh cụng bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chớnh sỏch này là thuế
quan, hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật, chống bỏn phỏ giỏ và trợ cấp xuất khẩu.
EU đang thực hiện chương trỡnh mở rộng hàng hoỏ dưới hỡnh thức đẩy mạnh tự do
hoỏ thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá XNK và tiến tới xoá bỏ hạn
ngạch, GSP). Hiện nay, 27 nước thành viên EU áp dụng một biểu thuế quan chung đối
với hàng hoá XNK. Đối với hàng nhập khẩu, mức thuế trung bỡnh đánh vào hàng nông
sản là 18%, hàng công nghiệp là 2%.
2 - Một số quy định hải quan đối với các hoạt động xuất nhập khẩu:
Tự do lưu thông
Hàng hoá nhập khẩu vào EU được tự do lưu thông trên lónh thổ 27 nước thành viên
EU như hàng hoá được sản xuất tại EU sau khi đóng các khoản thuế nhập khẩu quy
định.
Gia cụng tại EU

Cho phép hàng bán thành phẩm hoặc nguyên liệu thô được nhập vào EU để gia
công và được các nhà sản xuất của EU tái xuất khẩu trong EU mà các nhà sản xuất
không cần phải nộp thuế hải quan và VAT đối với hàng hoá đó được sử dụng. Có 2 cách
để liên quan đến thuế là miễn thuế hoặc đóng thuế trước và được hoàn thuế.
8
Gia công dưới sự quản lý của hải quan: Nghĩa là hàng hoá được gia công phải chịu
mức thuế thấp hơn trước khi đưa vào tự do lưu thụng (vớ dụ cỏc vật liệu nhựa PVC chịu
mức thuế 8,3% cú thể gia cụng thành màn phim với mức thuế chỉ 2,7%). Mức thuế nhập
khẩu chờnh lệch sẽ dành cho việc bảo tồn hoặc thêm mới các hoạt động gia công tại
Cộng đồng.
Kho Hải quan : Kho hải quan cho phép doanh nghiệp giữ hàng nhập khẩu tại Cộng
đồng và lựa chọn thời gian đóng thuế hoặc tái xuất hàng hoá.
Khối lượng công việc và gia công cho phép đối với hàng hoá lưu kho hải quan được
không chế trong phạm vi bảo quản hàng hoá. Tuy nhiờn cũng cú thể tiến hành gia công
để bán vào Cộng đồng hoặc gia công dưới sự kiểm soát của hải quan tại kho hải quan.
Khu vực tự do
Khu vực tự do là khu vực đặc biệt trên lónh thổ hải quan EU. Hàng hoá trong khu
vực này được miễn thuế nhập khẩu, thuế VAT và cỏc loại thuế nhập khẩu khỏc. Hàng
hoá nhập khẩu được lưu tại khu vực này được coi là chưa nhập khẩu vào Cộng đồng,
hàng hoá của Cộng đồng lưu tại đây được coi là đó xuất khẩu.
Đối với hàng nhập khẩu, khu vực tự do được dùng như là nơi lưu kho đối với hàng
hoá không có nguồn gốc Cộng đồng cho đến khi hàng hoá này được đưa vào tự do lưu
thông.
Tạm nhập
Tạm nhập là hàng hoá có thể được sử dụng tại Cộng đồng mà không phải nộp thuế
nhập khẩu và thuế VAT theo một số điều kiện nhất định và phải tái xuất theo đúng tỡnh
trạng mà hàng hoỏ được nhập vào.
Đối với loại này, EU cho phép sử dụng kê khai bằng lời (nghĩa là trả lời hải quan như
trường hợp đối với hành lý xỏch tay). Tuy nhiờn, hải quan có thể yêu cầu liệt kê danh
sách hàng hoá để bổ sung cho việc khai bằng lời.

Hàng quỏ cảnh
Luật hải quan EU cho phép hàng hoá được quá cảnh qua lónh thổ hải quan EU nếu
đáp ứng các quy định về thủ tục quá cảnh:
- Cỏc bảo lónh riờng;
- Các phương tiện vận chuyển;
- Cỏc bản khai theo quy định;
- Hoàn thành cỏc thủ tục tại hải quan xuất phát, trên đường và tại điểm đến;
- Cỏc thủ tục kiểm soỏt hàng xuất cảnh.
Doanh nghiệp cũng cú thể sử dụng các thủ tục quá cảnh được đơn giản hoá gồm:
- Sử dụng giấy bảo lónh toàn diện hoặc gia hạn bảo lónh;
- Sử dụng danh sách vận chuyển đặc biệt;
- Sử dụng dấu niêm phong đặc biệt;
- Miễn áp dụng các quy định để sử dụng lộ trỡnh theo yờu cầu;
- Quy chế người gửi hàng ủy quyền;
- Quy chế người nhận hàng ủy quyền;
- Các thủ tục đơn giản hoá áp dụng cho việc vận chuyển hàng bằng tầu hoặc các
công ten nơ loại lớn;
9
- Các thủ tục đơn giản hoá áp dụng với hàng vận chuyển qua đường hàng không,
hàng hải và qua ống dẫn.
Quy tắc xuất xứ
Cộng đồng châu Âu áp dụng hai loại quy tắc về xuất xứ không ưu đói và ưu đói.
Cỏc quy tắc khụng ưu đói về xuất xứ được đề cập trong Luật thuế. Quy định của Uỷ ban
đang được thực thi và được áp dụng đối với tất cả các công cụ chính sách thương mại
không ưu đói, chẳng hạn cỏc biện phỏp tự vệ về thuế quan và thương mại. Cũn cỏc quy
tắc ưu đói được nêu trong các nghị định thư liên quan từng hiệp định thương mại ưu đói
riờng biệt, vớ dụ như đối với các nước trong hiệp định mậu dịch tự do, các nước được
hưởng ưu đói GSP Đặc biệt EU có các yêu cầu chặt chẽ về xuất xứ đối với những
trường hợp được hưởng ưu đói. Một khía cạnh đáng chú ý trong các quy định ưu đói
xuất xứ hàng hoỏ là hỡnh thức lũy tiến, trong đó các yếu tố đầu vào từ Cộng đồng hoặc

từ các đối tác khác trong cùng một khu vực thương mại được tính như là các nguyên liệu
xuất xứ, chẳng hạn như nguyên liệu và thành phẩm đều cùng nguồn gốc từ các nước
trong ACP, hay trong cùng khu vực Hiệp định châu Âu
Thuế quan
Hàng năm Uỷ ban châu Âu sẽ đăng trên Công báo về biểu thuế quan hưởng theo
Tối huệ quốc (MFN) đối với tất cả danh mục hàng hoá nhập khẩu vào Cộng đồng. Danh
mục thuế hải quan của EU gồm 10.399 dũng thuế cú 8 chữ số. Mức thuế trung bỡnh cỏc
mặt hàng ngoài nụng sản (theo định nghĩa của WTO) giảm từ 4,5% năm 1999 xuống cũn
4,1% năm 2002. Đối với nụng sản giảm trung bỡnh từ 17,3% năm 1999 xuống cũn
16,1% năm 2002. Nếu so sỏnh mức tối thiểu và tối đa thỡ mức thuế cao nhất vẫn là thịt,
sản phẩm sữa, ngũ cốc, rau hoa quả chế biến và khụng chế biến. Đối với nông sản, mức
thuế từ 0% đến 470,8% (gạo); đối với hàng phi nông sản mức thuế từ 0% đến 36,6%.
Thuế nhập khẩu được áp dụng đối với tất cả các sản phẩm nhập khẩu vào EU. Thuế
hải quan chung của EU được xây dựng dựa trên Hệ thống Mó mụ tả hàng hoỏ hài hoà
(HS). Biểu thuế quan của EU được xác định theo Quy định EC 2658/87 ngày 23/7/1987
thống nhất áp dụng cho tất cả các thành viên EU. Về cơ bản, biểu thuế quan này được
chia thành ba nhóm nước:
- Nhóm nước có thực hiện Quy chế tối huệ quốc (MFN).
- Nhóm nước đang phát triển được hưởng đơn thuần ưu đói GSP của EU.
- Nhóm một số nước đang phát triển được hưởng ưu đói GSP kốm với những ưu
đói theo hiệp định song phương khác.
Các ngoại lệ áp dụng đối với sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm nhạy cảm, kể từ
khi hạn ngạch chuyển thành thuế quan theo kết quả Vũng đàm phán Urugoay.
Một trong các kết quả đáng chú ý của việc hỡnh thành thị trường chung là các thủ
tục thông quan đồng nhất và thuế nhập khẩu chỉ phải thanh toán tại bất kỳ cảng nào
thuộc bất kỳ nước thành viên nào của Cộng đồng. Khi hàng hoá đó vào EU thỡ khụng
cần làm thờm cỏc thủ tục thụng quan tại biờn giới nội địa. Bởi vậy, hàng hoá có thể được
vận chuyển nhanh và với giá cước rẻ trong phạm vi lónh thổ của Cộng đồng. Với chủ
trương thực hiện chính sách tự do hoá thương mại, EU tích cực thực hiện các chương
trỡnh cắt giảm dần thuế đánh vào hàng xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, xoá bỏ

GSP và ngừng hỗ trợ các nước đang phát triển trong quan hệ thương mại song phương.
Thời gian vừa qua, EU đó thụng qua chương trỡnh miễn thuế hoàn toàn cho các sản
10
phẩm xuất khẩu của các nước nghèo nhất thế giới theo sáng kiến 'EBA' nhằm đẩy mạnh
tự do hoá thương mại quốc tế. Những nước được hưởng ưu đói nhiều nhất là cỏc nước
chậm phát triển nhất và các nước ACP, tiếp đến là các nước có hiệp định thương mại tự
do với EU, cuối cùng là các nước đang phát triển.
Thuế giỏn tiếp
Tất cả cỏc sản phẩm bỏn trờn lónh thổ của Cộng đồng đều là đối tượng chịu thuế
VAT. Nhỡn chung, mức thuế thấp ỏp dụng đối với các sản phẩm thiết yếu và mức thuế
cao áp dụng đối với các sản phẩm xa xỉ. Để có sự thống nhất trong chính sách thuế VAT,
tháng 6/2001, Hội đồng Liên minh châu Âu đó ban hành nghị định nhằm xoá bỏ những
cản trở tiến tới hợp tác toàn diện giữa các nước thành viên trong việc đấu tranh chống
gian lận thương mại, đơn giản hoá thủ tục về thuế.
Thuế tiêu thụ áp dụng đối với một số sản phẩm phụ thuộc vào tác dụng của sản
phẩm đó đối với công dân của Cộng đồng và áp dụng đối với cả các sản phẩm nội địa và
nhập khẩu. Cỏc sản phẩm đang phải đương đầu với loại thuế này là đồ uống có và không
có cồn, thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá. Ngoài ra, ở một số nước thành viên, thuế tiêu
thụ cũn đánh vào dầu thực vật và các sản phẩm dầu bằng hỡnh thức một loại ‘thuế xanh’
để gây quỹ thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường.
Hệ thống Ưu đói Thuế quan Phổ cập (GSP)
Từ 01/ 1/ 2006 đến 31/ 12/ 2008 , EU áp dụng chế độ ưu đói thuế quan phổ cập mới
dành cho 143 nước độc lập và 36 nước và khu vực lónh thổ , trong đó có Việt Nam. Hệ
thống ưu đói thuế quan phổ cập mới này đơn giản hoá việc phân loại sản phẩm hàng hoá
từ 4 loại là không nhạy cảm, rất nhạy cảm, nhạy cảm và bán nhạy cảm thành 2 loại là sản
phẩm không nhạy cảm và nhạy cảm.
Theo hệ thống mới này, sản phẩm nhạy cảm gồm rất nhiều sản phẩm nông nghiệp,
dệt may, gang và thép được giảm một mức mặt bằng chung là 3,5% điểm đối với những
sản phẩm tính thuế theo trị giá, (có một số ngoại lệ chủ yếu là hàng dệt may); và giảm
30% đối với sản phẩm tính theo thuế đặc định, so với mức thuế MFN. Đối với các sản

phẩm được coi là không nhạy cảm thỡ được miễn thuế hoàn toàn khi nhập khẩu vào EU.
Hệ thống ưu đói thuế quan phổ cập này cũn dành ưu đói hơn đối với một số sản phẩm
xuất xứ từ các nước đang đấu tranh chống sản xuất và buôn bỏn ma tuý. Có quy chế đặc
biệt dành cho những nước nếu có yêu cầu nhằm thực hiện những tiêu chuẩn về lao động
theo Công ước quốc tế hoặc tiêu chuẩn của Tổ chức quốc tế về rừng.
Nhiều nước được hưởng ưu đói GSP đồng thời cũng được hưởng ưu đói theo các
hiệp định và quy chế khác. Tuy nhiên, các nước chậm phát triển nhất được hưởng ưu đói
nhiều nhất theo GSP do sỏng kiến ‘Mọi thứ trừ vũ khớ’ của EU; những nước nào nằm
trong khu vực ACP lại được hưởng thêm ưu đói theo Hiệp định đối tác ACP-EU. Có 65
nước chỉ được hưởng GSP đơn thuần mà không được hưởng thêm các ưu đói nào khỏc là
những nước đang có nền kinh tế chuyển đổi thuộc Liên-xô cũ và các nước đang phát
triển nằm ngoài ACP, thuộc Mỹ La tinh và khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam.
3 - Đỏp ứng cỏc yờu cầu của EU:
Yêu cầu thị trường đóng vai trò rất quan trọng đối với chất lượng sản phẩm, là trách
nhiệm của nhà sản xuất đối với môi trường và xã hội. Pháp luật được lập ra để bảo vệ về
sức khoẻ, an toàn và ràng buộc trách nhiệm pháp lý các nhà xuất khẩu và nhập khẩu, yêu
cầu của thị trường được mô tả như là sự lựa chọn của nhà sản xuất hoặc xuất khẩu có thể
gắn liền cơ bản nhận thức chung và sự tự nguyện trưng bày những sản phẩm của họ, quá
11
trình sản xuất hoặc hệ thống quản lý. Khi nhà xuất khẩu theo đuổi yêu cầu thích đáng
của thị trường, điều đó sẽ mở ra một thị trường mới với 450 triệu khách hàng tiềm năng.
Tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn là thuật ngữ áp dụng cho sản xuất hàng hoá, dịch vụ và hệ thống trên toàn
thế giới. Mục tiêu của tiêu chuẩn là bảo đảm sự an toàn và hiệu suất.
Các tiêu chuẩn được cả doanh nghiệp và người tiêu dùng quan tâm. Họ đảm bảo các
bộ phận máy móc, phụ tùng được sản xuất ở các nước khác nhau đều tương thích, bảo
đảm hệ thống tương hỗ và giảm chi phí cho sản xuất và lưu kho. Đây chính là lý do tạo
thành yêu cầu của thị trường.
4 - Khung pháp lý quốc tế về rào cản kỹ thuật đối với thương mại
Các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển thường phàn nàn về các rào cản kỹ

thuật đối với thương mại và thậm chí chất vấn là sự áp dụng chúng có hợp pháp không.
Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với Thương mại (TBT) trong WTO là khung pháp
lý quốc tế đối với định chế và các yêu cầu kỹ thuật.
Các nước đang phát triển đang gặp nhiều khó khăn với Hiệp định TBT. Uỷ ban TBT
của WTO đang phát triển chương trình hợp tác kỹ thuật theo yêu cầu do EU đóng góp tài
chính. Sự hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật có thể bao gồm việc nâng cao nhận thức về các rào
cản kỹ thuật trong thương mại; xây dựng các thể chế tiêu chuẩn và cơ sở thử nghiệm; hỗ
trợ các cam kết vùng nhằm vào những quan tâm chung về TBT và hỗ trợ sự tham gia của
các nước đang phát triển vào tiến trình tiêu chuẩn hoá quốc tế.
Hiệp định về các rào cản kỹ thụât đối với thương mại của WTO
Hiệp định TBT nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng của những yêu cầu kỹ thuật đối với
thương mại. Tuy nhiên, Chính phủ các nước giữ quyền áp dụng các biện pháp cần thiết
để bảo vệ sức khoẻ, an toàn, và môi trường. Hiệp định TBT chỉ nhằm đảm bảo là các
biện pháp như vậy đã được thông qua và áp dụng theo cách “ thuận tiện cho thương mại
”. Hiệp định TBT là một phần không thể tách rời của Hiệp định WTO và bao hàm các
quy định kỹ thuật có tính chất bắt buộc, các tiêu chuẩn tự nguyện và các thủ tục đánh giá
hợp chuẩn (các thủ tục này đề ra qui trình với các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật).
Các nguyên tắc chính trong Hiệp định TBT là:
(1) Không phân biệt đối xử;
(2) Tính vừa đủ: Các biện pháp sẽ không được hạn chế thương mại hơn mức cần
thiết để đạt đựơc các mục tiêu theo đuổi;
(3) Tính hài hoà: Các thành viên WTO có nghĩa vụ dùng các tiêu chuẩn quốc tế
liên quan làm cơ sở cho các quy định về kỹ thuật; và
(4) Tính minh bạch, nghĩa là bình luận của nước thứ ba về dự thảo các quy định
kỹ thuật và các thủ tục đánh giá hợp chuẩn gửi tới Uỷ ban TBT phải được xem xét.
Sức khoẻ và an toàn
Bảo vệ cao cho sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng là điều cực kỳ quan trọng
đối với EU. Vì lý do này, EU đang áp dụng rộng rãi các tiêu chuẩn và luật pháp Châu
Âu đối với hàng công nghiệp và thực phẩm. Dưới đây là một vài quy định quan trọng
trong lĩnh vực sức khoẻ và an toàn cho các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển

tham khảo.
Sản phẩm công nghiệp
12
Dán mác CE
Mục tiêu của dán mác CE là để áp đặt yêu cầu chung cho các nhà sản xuất chỉ được
đưa những sản phẩm an toàn vào thị trường EU. Dấu CE dùng bắt buộc cho các sản
phẩm trong danh mục của các Chỉ thị Tiếp cận mới và áp dụng trên diện rộng đối với các
sản phẩm công nghiệp như máy móc, trang thiết bị điện áp thấp, đồ chơi, trang bị an toàn
cá nhân, thiết bị y tế, và những thứ khác. Có ba nhóm sản phẩm trong phạm vi của các
Chỉ thị Tiếp cận mới, và những sản phẩm muốn vào thị trường EU phải đóng dấu CE:
- Tất cả các sản phẩm mới dù được sản xuất trong EU hoặc ở các nước thứ ba;
- Các sản phẩm đã qua sử dụng hoặc đồ second-hand nhập khẩu từ các nước thứ
ba;
- Các sản phẩm đã biến đổi về căn bản và được quy định trong các Chỉ thị như
những sản phẩm mới.
Dấu CE không áp dụng đối với đồ gỗ, hàng dệt may, và đồ da và nhiều sản phẩm
khác.
Các Chỉ thị liên quan đến dấu CE
Nhóm sản phẩm/ chất độc hại
Vật liệu xây dựng
Các hệ thống đường dây cáp thiết
kế để chở người
Hiệu suất của các nồi hơi sưởi ấm
trung tâm đốt bằng nhiên liệu lỏng
hoặc khí ga
Hiệu suất năng lượng của các tủ
lạnh dùng điện trong các hộ gia
đình, các máy làm lạnh và những
kết hợp với chúng
Khả năng tương thích điện từ

Trang thiết bị và hệ thống bảo vệ ở
nơi dễ cháy nỗ
Chất nổ dùng cho dân sự
Thiết bị dùng ga
Thang máy
Thiết bị có điện thế thấp
Máy móc
Thiết bị y tế : ống phóng xạ
Thiết bị y tế : Thông thường
Thiết bị y tế : chẩn đoán thuỷ
tinh
Các thiết bị cân phi tự động
Thiết bị bảo vệ cá nhân
Thiết bị nén
Thuyền du lịch
Thiết bị radio và thiết bị đầu cuối
Chỉ thị tham chiếu
89/106/EEC
2000/9/EC
92/42/EEC
96/57/EC
89/336/EEC& 92/31/EEC
94/9/EC
93/15/EEC
90/396/EEC
95/16/EC
73/23/EEC
89/392/EEC& 91/368/EEC
& 93/44/EEC & 98/37/EC
90/385/EEC

93/42/EEC & 2000/70/EC
98/79/EC
90/384/EEC
89/686/EEC & 93/68/EEC
& 93/95/EEC
97/23/EC
94/25/EC ( đang điều chỉnh)
1999/5/EC
13
dùng trong ngành viễn thông
Các bình áp lực đơn giản
Đồ chơi
Bao bì và chất thải bao bì
Thiết bị hàng hải
Hệ thống đường ray cao tốc và qui
ước trên cao xuyên Châu Âu.
87/404/EEC &90/488/EEC
88/378/EEC
94/62EC
96/98/EC
69/48/EC & 2001/16/EC

Việc gắn mác CE thể hiện sản phẩm đáp ứng được các qui định liên quan của EU
đối với nhà sản xuất trong các vấn đề an toàn, sức khoẻ, bảo vệ môi trường và bảo vệ
người tiêu dùng. Mác CE gắn vào sản phẩm là một tuyên bố của người có trách nhiệm
rằng sản phẩm đó tuân thủ tất cả các qui định liên quan của EU. Các nước thành viên
không thể từ chối việc thâm nhập thị trường của các sản phẩm được gắn mác CE, trừ phi
họ có bằng chứng để phán quyết rằng sản phẩm đó có yếu tố không phù hợp.
Thủ tục cho việc gắn mác CE có thể khác nhau theo từng Qui định và từng loại sản
phẩm, phụ thuộc chủ yếu vào mức độ rủi ro/nguy cơ về mặt an toàn liên quan đến việc

sử dụng sản phẩm. EU đã lập một hệ thống phân nhóm với 8 loại khác nhau (Từ nhóm A
đến nhóm H). Nhóm A là các sản phẩm có độ rủi ro/nguy cơ về an toàn thấp nhất, nhóm
H là các sản phẩm có độ rủi ro/ nguy cơ về an toàn cao nhất. Mỗi Qui định mô tả một
sản phẩm thuộc nhóm nào và các trách nhiệm liên quan đối với nhà sản xuất.
Mác CE có thể gắn tại một nước ngoài EU chừng nào việc đánh giá tuân thủ/ phù
hợp được tiến hành theo các Qui định của EU. Mác CE phải được gắn vào sản phẩm
hoặc biển dữ liệu của sản phẩm tại vị trí dễ nhìn thấy, dễ đọc và không thể tẩy xoá. Mác
CE có thể được đóng vào bao bì nếu như đặc tính của sản phẩm không cho phép việc gắn
mác CE trực tiếp.
Thực phẩm
Việc hài hoà hoá luật thực phẩm trong EU dẫn tới qui định pháp lý liên quan đến tất
cả các loại thực phẩm, ví dụ như chất phụ gia, nhãn mác hay vệ sinh và qui định pháp lý
đối với các sản phẩm cụ thể như các sản phẩm ca cao và sô cô la, đường, mật ong, nước
quả, mứt quả và thực phẩm mới lạ. Các loại thực phẩm nhập khẩu phải đáp ứng qui định
pháp luật của nước thành viên trong các trường hợp quá trình hài hoà hoá pháp luật của
EU chưa hoàn tất.
Luật thực phẩm trong EU
Năm 2002 EU ban hành quyết định số 178/2002 về các nguyên tắc và yêu cầu chung
của luật thực phẩm và thức ăn chăn nuôi nhằm thành lập Cơ quan an toàn thực phẩm
châu Âu và thiết lập các qui định thủ tục trong các vấn đề an toàn thực phẩm và thức ăn
chăn nuôi. Qui định này được gọi là Luật Thực phẩm EU. Mục tiêu chung của luật thực
phẩm là đạt tới một mức độ bảo vệ cao đối với cuộc sống và sức khoẻ con người và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, bao gồm các tập quán công bằng trong buôn bán thực
phẩm, xem xét việc bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của động vật, sức khoẻ cây trồng và
môi trường.
Luật thực phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang
phát triển bởi nó tuyên bố một cách rõ ràng rằng thực phẩm và thức ăn chăn nuôi nhập
14
khẩu vào EU sẽ phải tuân thủ các Điều khoản liên quan của Luật này hoặc các điều kiện
tương đương được EU công nhận.

HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point)
Hệ thống phân tích mối nguy hiểm và xác định điểm kiểm soát trọng yếu là một hệ
thống sản xuất và kiểm tra dựa trên cơ sở khoa học nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm.
Hệ thống HCCP áp dụng đối với toàn bộ ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong
EU, từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Qui định về vệ sinh thực phẩm (93/43/EC)
ghi rõ rằng: ‘các công ty thực phẩm sẽ xác định từng khía cạnh trong các hoạt động của
mình có liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm và đảm bảo rằng các trình tự an toàn đã
được thiết lập, áp dụng, duy trì và tái xét trên cơ sở hệ thống HACCP’.
Các nguyên tắc cơ bản của HACCP
- Phân tích các nguy cơ độc hại: xác định tất cả các nguy cơ độc hại có thể xảy ra đối
với sản phẩm trong suốt vòng đời của sản phẩm;
- Xác định các điểm kiểm soát quan trọng, tức là các điểm trong quá trình sản xuất
thực phẩm – từ lúc còn sống đến lúc tiêu dùng- mà tại đó sự độc hại tiềm tàng có thể
được kiểm soát hoặc được loại trừ.
- Thiết lập các biện pháp phòng ngừa với các giới hạn quan trọng đối với mỗi điểm
kiểm soát;
- Xây dựng các trình tự / thủ tục để theo dõi các điểm kiểm soát quan trọng và lập kế
hoạch hành động cho các trường hợp khi có một giới hạn quan trọng nào đó không được
đảm bảo.
- Ban hành một trình tự/ thủ tục thẩm định, bao gồm cả các kiểm nghiệm và trình tự
bổ sung để kiểm tra tính hiệu quả và hiệu lực của hệ thống HACCP; và
- Văn bản hoá tất cả các trình tự/ thủ tục và các kết quả kiểm nghiệm.
Các công ty trong EU cũng có thể yêu cầu các nhà cung cấp ngoài EU sản xuất theo
một hệ thống HACCP. Các nhà nhập khẩu thực phẩm trong EU sẽ không buôn bán với
các công ty chế biến thực phẩm ở các nước đang phát triển nếu họ không có hệ thống
HACCP. Các công ty có thể kiếm tìm trợ giúp của các tổ chức có uy tín để giúp đỡ họ
triển khai một hệ thống HACCP và để được chứng nhận HACCP.
Trong ngành thuỷ sản, các nhà xuất khẩu buộc phải tuân thủ Qui định 91/493/EEC
và Qui định 91/492/EEC để có thể nhận được sự phê chuẩn cho phép xuất khẩu thủy sản
sang EU. Một viện kiểm nghiệm được Uỷ ban châu Âu uỷ quyền thực hiện việc thanh tra

trong các công ty chế biến thủy sản. Chỉ khi công ty được các cuộc kiểm tra chấp nhận
họ sẽ được phê chuẩn chính thức và được đưa vào danh sách các công ty được phép xuất
khẩu sang EU.
Các cơ quan cấp chứng chỉ HACCP
Các cơ quan sau đây hỗ trợ các công ty trên toàn thế giới đạt được một chứng chỉ
HACCP:
-Bureau Veritas Quality International (BVQI)
-American Society for Quality tại
Phụ gia thực phẩm và gia vị
Phụ gia thực phẩm chịu sự điều chỉnh của luật pháp EU ban hành đối với chất làm
ngọt, chất mầu và các phụ gia thực phẩm khác được sử dụng trong đồ ăn. Chỉ những phụ
15
gia nào được phép sử dụng một cách rõ ràng theo Qui định này mới có thể được dùng
trong EU. Các chất phụ gia thực phẩm được phép sử dụng sẽ có số xác minh. Số này sẽ
có một chữ E đứng trước (E number). Các phụ gia thực phẩm phải được ghi rõ trong
danh mục thành phần in trên bao bì tên của chất có trong phụ gia hay số E của nó.
Hầu hết các chất phụ gia thực phẩm chỉ có thể sử dụng với các khối lượng hạn chế
trong một số thực phẩm nhất định. Đối với các chất phụ gia thực phẩm, EU sẽ sớm công
bố một danh mục các chất phụ gia được phép sử dụng. Sau đó, chỉ các chất phụ gia nêu
trong danh mục này được phép đưa vào thực phẩm.
Thông tin bắt buộc về nhãn mác đối với thực phẩm
Quy định chi tiết về nhãn mác, trình bày và quảng cáo thực phẩm trong EU nhằm
đảm bảo sự an toàn cho khách hàng. Ngoài việc gắn mác như đã trình bày trên, còn có
một qui định cấm một số nhãn mác nhất định, chẳng hạn như qui định về các tuyên bố y
tế chữa bệnh cho người.
Nhãn mác cần ghi rõ:
- Tên theo đó sản phẩm được bán;
- Tên và địa chỉ của nhà sản xuất, người đóng gói hoặc người bán hàng được thành
lập trong EU;
- Địa điểm xuất xứ hoặc nguồn gốc trong trường hợp việc thiếu vắng những thông tin

như vậy có thể gây ra nhầm lẫn cho người tiêu dùng;
- Thời hạn sử dụng được thể hiện bằng những từ “Dùng tốt nhất trước ” hoặc “Dùng
tốt nhất trước khi kết thúc ngày .”;
- Những điều kiện cất trữ đặc biệt hoặc những điều kiện sử dụng;
- Hướng dẫn sử dụng;
- Danh mục thành phần, theo thứ tự trọng lượng. Những ngoại lệ quan trọng bao gồm
nước bổ sung trong thức ăn được hoàn nguyên từ chất cô đặc và phomát được điều chỉnh
bởi các quy định đặc biệt;
- Một vài thành phần cần phải có thông báo cụ thể trên nhãn mác (nghĩa là GMO, khí
đóng gói, chất làm ngọt, aspartame, polyol, quinine và caffein);
- Những thành phần khác có thể được thay thế bằng tên của chủng loại chứ không
cần tên cụ thể (tức là chất béo, dầu, cá, phomát, gia vị, thảo mộc, chất gôm gốc, đường,
dextrose, glucose, syrup, protein sữa, bơ ca cao, quả rắc đường kính, rau và rượu vang);
- 2001/101/EC bổ sung chủng loại thịt và định nghĩa thuật ngữ “thịt” cho việc gắn
nhãn mác đối với những sản phẩm từ thịt được đóng gói sẵn;
- Khối lượng những thành phần hoặc chủng loại thành phần (QUID);
- Khối lượng tịnh của thực phẩm trước khi đóng gói được thể hiện dưới dạng các đơn
vị đo lường (lít, xăngtilít, mililít, kg hoặc gram)
- Độ cồn thực của đồ uống chứa trên 1,2% lượng cồn;
- Đánh dấu để xác định lô hay mẻ sản xuất của thực phẩm, được xác định bởi nhà sản
xuất, chế tạo hoặc đóng gói hay người bán hàng đầu tiên ở EU;
- Các công đoạn xử lý đã được thực hiện với những chỉ dẫn cụ thể cho thực phẩm đã
qua chiếu xạ và thực phẩm đông lạnh sâu.
Những thông tin bổ sung đối với sản phẩm đông lạnh
- Chỉ dẫn rõ ràng “làm lạnh nhanh” và “Không làm lạnh lại sau khi làm tan giá”.
- Hạn sử dụng;
- Thời hạn cất trữ tối đa sau khi mua;
16
- Nhiệt độ bảo quản và/hoặc thiết bị bảo quản;
- Thông tin về mẻ/đợt sản xuất.

Mức độ dư lượng tối đa (MRLS)
Ngoài ra, EU có những văn bản pháp luật khác liên quan quy định về mức độ dư
lượng tối đa thuốc trừ sâu, kim loại nặng, ô nhiễm vi sinh và phóng xạ và thanh tra về vệ
sinh (Chỉ thị 2000/29/EC). Đặc biệt luật pháp EU liên quan đến mức độ Dư lượng Tối đa
(MRL) trong thực phẩm rất liên quan đến những nhà xuất khẩu ở các nước đang phát
triển. MRL là dư lượng thuốc trừ sâu tối đa cho phép trong thực phẩm. Một chương trình
về thiết lập MRL cho thuốc trừ sâu sử dụng ở các nước thành viên EU đang được triển
khai. Cần lưu ý là MRL cũng có thể áp dụng cho thuốc trừ sâu bị cấm sử dụng ở EU
nhưng vẫn được sử dụng ở những nước khác (ví dụ: DDT). Ngoài MRL EU hài hoà, các
quốc gia có thể thiết lập MRL của riêng họ cho những hợp chất thuốc trừ sâu/hàng hoá
thô ở những nơi không có MRL EU. Lý do cho việc thiết lập MRL quốc gia ở những nơi
chưa có luật pháp hài hoà là để bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng.
5 - Yêu cầu của thị trường trong lĩnh vực sức khoẻ và an toàn
Ngoài những luật lệ bắt buộc, còn có một loạt các yêu cầu thị trường mang tính tự
nguyện. Điều quan trọng cần chú ý là nó phụ thuộc vào lĩnh vực mà việc tuân thủ hay
không tuân thủ những quy định này là điều kiện tiên quyết hay chỉ là một lợi thế để tiếp
cận thị trường. Một số các yêu cầu thị trường liên quan được thảo luận dưới đây.
Nông nghiệp hữu cơ
Nhận thức của người tiêu dùng về những vấn đề an toàn thực phẩm và những quan
ngại về môi trường ở EU cũng làm cho ngành nông nghiệp hữu cơ tăng trưởng một cách
đáng kể. Nông nghiệp hữu cơ đã phát triển thành một trong những ngành nông nghiệp
năng động nhất ở EU với tốc độ tăng trưởng hàng năm lên tới 25%/năm từ năm 1993.
Những nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển phải biết rằng những sản phẩm
hữu cơ từ các nước thứ 3 có thể được bán ở EU chỉ sau khi hoàn tất một quy trình xác
nhận sự tương đồng của các quy định về nông nghiệp hữu cơ được áp dụng ở nước thứ
ba. Những yêu cầu áp dụng ở nước thứ 3 phải có sự bảo đảm tương tự với bảo đảm của
EU và bao trùm những vấn đề như thực phẩm, phòng chống bệnh tật và xử lý vệ sinh,
chăm sóc bảo vệ động vật, hành nghề nông nghiệp, và quản lý phân bón. Sinh vật biến
đổi gen (GMO) và những sản phẩm bắt nguồn từ GMO bị loại bỏ dứt khoát khỏi các
phương pháp sản xuất hữu cơ.

Trong năm 2000, EU thiết lập một logo đặc biệt cho các sản phẩm sản xuất theo
phương pháp hữu cơ theo đó cho thấy những sản phẩm đó nằm trong cơ chế giám sát của
EU. Mục tiêu của nó là nhằm tăng cường độ tin cậy của các sản phẩm hữu cơ đối với
người tiêu dùng và có sự xác định sản phẩm tốt hơn trên thị trường. Logo này không
phải là bắt buộc và người sản xuất sử dụng nó trên cơ sở tự nguyện khi những sản phẩm
của họ đáp ứng các điều kiện theo yêu cầu.
EU đã uỷ quyền cho một vài tổ chức quốc gia xác nhận các sản phẩm hữu cơ, ví dụ
như Naturland ở Đức và SKAL ở Hà Lan. Nhu cầu ngày càng tăng đối với sản phẩm hữu
cơ ở EU có ý nghĩa quan trọng đối với những nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển
vì các nhà bán lẻ ngày càng dành nhiều vị trí cho những sản phẩm được xác nhận là sản
phẩm hữu cơ.
17
Có những logo thể hiện chất lượng sinh thái được kiểm soát chặt chẽ của các sản
phẩm. Các trang web của các tổ chức này cung cấp thông tin về quy trình, những yêu cầu
và phí xác nhận sản phẩm. Các nhà xuất khẩu nên ghi nhớ rằng những cơ quan xác nhận
quốc gia này có thể đặt ra quy định cho những sản phẩm hữu cơ ngoài những luật lệ hài
hoà của EU. Một nguồn thông tin hữu ích nữa là “Liên đoàn quốc tế các phong trào nông
nghiệp hữu cơ” (IFOAM).
Các sản phẩm hữu cơ xuất khẩu sang EU phần lớn được điều chỉnh bằng Quy định
EU số 2092/91. Quy định này định nghĩa chi tiết các yêu cầu cho sản phẩm nông nghiệp
hoặc thực phẩm bao gồm cả những luật lệ liên quan đến phương thức sản xuất hữu cơ.
Những luật lệ này không chỉ xác định phương thức sản xuất nông nghiệp cho trồng trọt
và chăn nuôi mà còn điều chỉnh vấn đề gắn nhãn mác, chế biến, thanh tra và marketing
các sản phẩm hữu cơ trong EU và việc nhập khẩu các sản phẩm hữu cơ từ các nước
ngoài EU.
6- Thực tiễn Nông nghiệp tốt và EUREGAP
Nhằm giải quyết mối quan ngại ngày càng gia tăng của người tiêu dùng về tác
động của nông nghiệp đối với an toàn thực phẩm và môi trường, nhóm các nhà sản xuất
bán lẻ hàng đầu châu Âu EUREGAP đã phát triển tiêu chuẩn “EUREGAP Rau và Quả”
cho việc xác nhận Thực tiễn Nông nghiệp tốt (GAP) cho rau và quả. EUREGAP bao

gồm các tiêu chí về quản lý tại chỗ, sử dụng phân bón, bảo vệ mùa màng và quản lý côn
trùng, thu hoạch, hoạt động sau thu hoạch và an toàn và sức khoẻ công nhân.Các nhà
xuất khẩu rau và quả tươi ở các nước đang phát triển muốn cung cấp cho các hệ thống
siêu thị ở châu Âu sẽ phải chứng minh rằng các sản phẩm sản xuất ra phải phù hợp với
EUREGAP. Hơn nữa, EUREGAP đang chuẩn bị những văn bản quy phạm pháp luật
khác điều chỉnh theo những nguyên tắc tương tự đối với rau và quả cho những sản phẩm
chăn nuôi, hoa, cây trồng lai ghép và thức ăn cho gia súc.
7 - Quản lý phế thải bao bì
EU đã ban hành Chỉ thât số 94/62/EEC về bao bì và phế thải bao bì với mục tiêu là
nhằm hài hoà các biện pháp quốc gia liên quan đến việc quản lý đóng gói và thải bao bì.
Chỉ thị này đề ra các biện pháp nhằm ngăn ngừa tạo ra chất thải bao bì, tái sử dụng bao
bì, tái chế và giảm phần vứt bỏ/tiêu huỷ cuối cùng của chất thải đó.
Chỉ thị cũng quy định mức tối đa kim loại nặng chứa trong bao bì và mô tả những
yêu cầu cụ thể trong sản xuất và cấu thành bao bì. Chỉ thị áp dụng cho tất cả các loại bao
bì và chất thải bao bì dùng trong ngành công nghiệp, thương mại, văn phòng, cửa hàng,
dịch vụ, hộ gia đình hoặc ở bất kỳ nơi nào khác bất kể dùng nguyên liệu gì. Có nhiều
hình thức khác nhau để thực thi Chỉ thị trong các nước thành viên EU. Trong số các
chương trình đang hoạt động thì chương trình chất thải bao bì đựơc biết đến nhiều nhất ở
Châu Âu là hệ thống “ Grune Punkt” hay “ Green Dot” của Đức .
8 - Môi trường
Trong những năm qua, nguyên tắc “phát triển bền vững” đã dẫn đến sự gia tăng
nhận thức về môi trường trên khắp thế giới. Người tiêu dùng và những nhà mua hàng
công nghiệp trở nên quan tâm hơn đến những sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi
trường. Kết quả là những sản phẩm không thân thiện với môi trường có ít cơ hội hơn
nhiều trên thị trường.
Mối quan ngại gia tăng về bảo vệ và bảo tồn môi trường dẫn đến việc phát triển
những tiêu chuẩn mới trong lĩnh vực này. Trong năm 2000, EU thông qua Chương trình
18
hành động Môi trường thứ 6 (2000-2010). Chương trình này đưa ra những ưu tiên và
mục tiêu chính cho chính sách môi trường trong vòng từ 5 đến 10 năm tới và đưa ra

những biện pháp cụ thể cần tiến hành. Mục tiêu chính của chương trình bao gồm việc
đưa những đóng góp của doanh nghiệp và lợi ích người tiêu dùng vào những mô thức
tiêu dùng và sản xuất bền vững hơn.
Có khá nhiều danh mục những sản phẩm chịu sự điều chỉnh của luật pháp về môi
trường bắt nguồn từ chương trình hành động khá nhiều. Những tác động trước mắt từ
quy định này đối với các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển là những biện pháp
bắt buộc với mục đích làm giảm khối lượng rác thải đóng gói và để tái sử dụng và tái chế
nguyên vật liệu đóng gói. Một biện pháp môi trường quan trọng khác là luật pháp liên
quan đến việc sử dụng những chất nguy hiểm nhất định như chì, thuỷ ngân, penta
BDE…trong các sản phẩm điện tử, bao gồm cả đồ chơi.
Việc áp dụng các yêu cầu thị trường tự nguyện cũng cho thấy một xu hướng ngày
càng tăng về thực hiện quản lý môi trường và triển khai các hệ thống đánh giá, và tầm
quan trọng ngày càng tăng các dấu hiệu phân biệt cho một loạt các sản phẩm cho người
tiêu dùng châu Âu. Hơn nữa, những sản phẩm rất không thân thiện với môi trường sẽ bị
cấm vào thị trường châu Âu.
Hệ thống quản lý môi trường
Cách tốt nhất để chứng tỏ sự quan tâm đến môi trường ở cấp công ty là phải phát
triển và tuân theo hệ thống quản lý môi trường ( EMS). EMS có thể được cấp chứng chỉ
nếu nó tuân theo tiêu chuẩn của hệ thống quản lý môi trường quốc tế EN/ISO 14001-
ISO, Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, đã phát triển một loạt các tiêu chuẩn tự nguyện và
những hướng dẫn trong lĩnh vực quản lý môi trường, được biết đến như chuỗi EN ISO
14000. Tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000 được dùng như một mô hình cho việc thực hiện
EMS của gần 37.000 tổ chức trên hơn 100 nước.
Các đặc tính của tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000:
• Việc xin cấp giấy chứng nhận là tự nguyện;
• Bộ Tiêu chuẩn mô tả tỉ mỉ những điều cần làm;
• Chính sách môi trường cần được xác lập;
• Phải có chương trình đào tạo nhân viên về các vần đề quản lý môi trường;
• Kế hoạch, trách nhiệm và các thủ tục, quy trình cần được làm thành văn bản;
• Các cơ chế cho hoạt động kiểm tra, chấn chỉnh và ngăn ngừa cần được thiết lập;

• Yêu cầu có sự kiểm toán bên trong và bên ngoài;
• Yêu cầu kiểm điểm định kỳ công tác quản lý ;
• Việc cấp giấy chứng nhận được hoàn thành bởi bên thứ ba được uỷ quyền.
• Xem thêm tin tức về ISO ở trang web :

Nhãn mác môi trường
Trong khi các hệ thống quản lý môi trường như EN/ISO 14001 tập trung vào việc
thực hiện các tiến trình sản xuất, các hoạt động và các địa điểm, thì các chương trình dán
nhãn môi trường xác định cụ thể các đặc tính về môi trường cho các sản phẩm và dịch vụ
đơn lẻ.
Trong EU có sự khác biệt giữa các loại nhãn sinh thái quốc gia, nhãn sinh thái EU
và nhãn môi trường đặc trưng cho các sản phẩm. Nhãn sinh thái của EU và quốc gia dựa
19
trên cơ sở đánh giá vòng đời và áp dụng cho diện rộng các sản phẩm, trong khi các nhãn
đặc trưng cho sản phẩm có thể có phạm vi giới hạn hơn và chỉ áp dụng cho nhóm sản
phẩm đơn lẻ hoặc công đoạn sản xuất. Nhãn sinh thái cũng ngày càng có nhiều các yếu
tố về chất lượng và xã hội.
Nhãn EU quốc gia hay sản phẩm, có ý nghĩa tuyệt đối cần thiết để có thể có cơ hội
xuất khẩu sản phẩm hay không, hoặc đơn thuần là phụ thuộc hoàn toàn vào thị hiếu của
khách hàng trong thị trường chuyên biệt mà nhà xuất khẩu đang hoạt động. Tổ chức
ngành là một nguồn thông tin tốt để đánh giá tầm quan trọng của việc nhãn mác được
dán lên sản phẩm xuất khẩu .
Nhãn sinh thái quốc gia
Các chương trình nhãn sinh thái quốc gia nhằm cung cấp cho người tiêu dùng sự lựa
chọn trong việc mua sản phẩm đã được thiết kế, sản xuất và bao gói, và có thể được tiêu
huỷ ở cuối chu trình có ích của chúng, theo cách có lợi cho môi trường. Việc sử dụng
những nhãn mác như vậy cũng khuyến khích các ngành công nghiệp sản xuất và chế
biến tận dụng bền vững hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trên toàn EU, có nhiều
loại nhãn sinh thái, trong số đó có “Nordic Swan” của Đan Mạch, Phần Lan và Thuỵ
Điển, “Der Blaue Engel” (Blue Angel, Đức), “Milieukeur” (Hà Lan), “Marca AENOR

Medioambiente” (Tây Ban Nha), “Umweltzeichen” (Áo), và “NF environment” của
Pháp.
Tiêu chí đánh giá các tác động môi trường của sản phẩm lên từng phần của vòng
đời của nó bao gồm cả tiêu chí hoạt động, trong số những tiêu chí khác trong vấn đề tiêu
thụ năng lượng, tạo chất thải, quản lý rừng bền vững và vấn đề ô nhiễm nguồn nước,
không khí, tiếng ồn, và ô nhiễm đất. Các nhà sản xuất hay xuất khẩu trong các nước
đang phát triển đựơc giảm 25% phí khi đăng ký áp dụng nhãn sinh thái.
Các nhóm sản phẩm đang áp dụng nhãn sinh thái EU:
EU
giành ưu tiên cao cho quản lý bền vững các nguồn tài nguyên rừng. Quan điểm của EU
là tất cả các loại gỗ, bao gồm gỗ phi nhiệt đới, thậm chí cũng sẽ được quản lý dưới cùng
một chế độ, nhưng điều này vẫn chưa được thực hiện. Bên cạnh đó, trọng tâm của quản
lý rừng bền vững đã được đưa vào hệ thống cấp chứng nhận tự nguyện về gỗ và các sản
phẩm gỗ. Chứng nhận về gỗ đang là sự quan tâm của các nhà sản xuất, các nhà kinh
Dệt may
Quần áo
Khăn trải giường
Quần áo mặc trong nhà
Trồng vườn
Máy cải tạo đất
Bạn tự làm
Phủ sàn cứng
Sơn và vecni
Bóng đèn
Đồ gỗ
Thiết bị điện tử
Máy tính cá nhân
Máy tính xách tay
Vô tuyến
Giày dép

Các loại giày
Làm sạch
Máy hút bụi đa năng
Chất tẩy rửa dùng cho
máy rửa bát
Chất tẩy rửa bát chén
bằng tay
Chất tẩy rửa dùng cho
máy giặt quần áo
Dịch vụ
Dịch vụ ăn, ở cho khách
du lịch
Thiết bị gia đình
Máy rửa bát
Tủ lạnh
Máy hút bụi
Bộ đồ giường
Các loại đệm
Giấy
Giấy ăn
Giấy copy và giấy
dùng cho đồ hoạ
20
doanh gỗ, ngành lâm nghiệp và nhiều nhà xuất khẩu gỗ, họ coi chứng nhận về gỗ như
một phương pháp để duy trì hoặc cải thiện việc tiếp cận thị trường/thị phần.
Trên cơ sở thực hiện cách tiếp cận, đại diện tốt nhất chương trình cấp chứng chỉ
rừng của Hội đồng quản lý rừng ( FSC) là dựa trên cơ sở thực hiện các tiêu chuẩn mà
một tổ chức phải đáp ứng ( hoặc vượt qua) trước khi nó được cấp chứng chỉ, cách tiếp
cận thay thế dựa trên hệ thống của ISO, đánh giá về chất lượng công tác quản lý của một
tổ chức, nhưng không đưa ra những tiêu chuẩn hoạt động cụ thể định trước.

Chứng chỉ FSC là chứng chỉ nổi tiếng đã được quốc tế và nhiều tổ chức tiêu dùng
và môi trường công nhận. Mới đây, hơn 8 triệu héc ta rừng đã được cấp chứng chỉ FSC
trên thế giới. Chứng chỉ FSC cũng bao trùm lên “dây chuyền giám hộ” gỗ, đảm bảo là
gỗ đã được cấp chứng chỉ FSC không đựơc trộn với gỗ được sản xuất theo cách không
bền vững ở bất kỳ khâu nào trong suốt quá trình vận chuyển hoặc chế biến. Tất cả gỗ có
chứng chỉ FSC có thể được truy tìm lại nguồn gốc nếu cần thiết.
Hầu hết các bên trong ngành lâm nghiệp xem việc cấp chứng chỉ là cách mở đường,
và đây là điều quan trọng đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển để có
thể tiếp cận thị trường. Ngày càng tăng các chủng loại đồ gỗ ngoài vườn trong các cửa
hàng bán dụng cụ, vật liệu tự làm ở Châu Âu. Thị trường Tây Bắc Âu đặc biệt là Anh,
Bỉ, Hà Lan và Đức đang trở nên có nhận thức mạnh mẽ việc cấp chứng chỉ. Các nhà
buôn có khuynh hướng chỉ yêu cầu các chứng chỉ rừng, trong khi các nhà bán lẻ có
khuynh hướng yêu cầu thêm các nhãn khác. Các nhóm doanh nghiệp đã cam kết chỉ mua
những sản phẩm đã được cấp chứng chỉ sau một thời hạn nhất định.
Các chương trình chứng nhận khác trong lâm nghiệp bao gồm The Pan-European
Forest Certification Scheme (PEFC) và một nhãn khác được thiết lập bởi ITTO, Tổ chức
gỗ nhiệt đới quốc tế. ITTO xúc tiến các tiêu chuẩn lâm nghiệp trong các nước thành viên
thông qua một loạt các sáng kiến, gồm Hiệp định gỗ quốc tế, ITTA.
9 - Quy tắc ứng xử
Đạo đức kinh doanh, tính chính trực và trách nhiệm xã hội đã trở thành điều quyết
định quan trọng về chất lượng của một công ty. Các nhóm lợi ích, các chính phủ, các tổ
chức giáo dục, các hiệp hội ngành hàng khuyến khích các công ty và toàn bộ các ngành
thi hành quy tắc ứng xử để cải tiến các điều kiện về lao động của nhà cung cấp ở các
nước đang phát triển, vì vậy các công ty đang thiết lập các nguyên tắc kinh doanh tổng
thể hoặc quy tắc ứng xử của chính họ, theo các hướng dẫn được khẳng định bởi các tổ
chức này. Quy tắc ứng xử là một tuyên bố chính thức những giá trị và tập quán kinh
doanh cuả một công ty, nó phản ánh lập trường của một công ty đối với đạo đức kinh
doanh, các điều kiện về lao động và môi trường, về cách thức công ty đóng góp một
cách tích cực cho các yếu tố này. Bên cạnh đó, công ty phải ban hành các cơ chế bảo
đảm, đã được thiết kế để đánh giá những tác động thực của Quy tắc ứng xử.

10 - Giấy chứng nhận trách nhiệm xã hội
Trách nhiệm Xã hội 8000 (SA 8000) là một tiêu chuẩn quốc tế về nơi làm việc
nhằm mục đích đảm bảo nguồn gốc đúng đắn của hàng hoá và dịch vụ. Đây là một tiêu
chuẩn tự nguyện và coi các vấn đề chủ chốt như lao động trẻ em, lao động cưỡng bức,
sức khoẻ và an toàn, bồi thường, phân biệt đối xử, giờ làm việc, tự do lập hội, quyền thư-
ơng lượng tập thể và các tập quán kỷ luật.
SA 8000 dựa trên các định chuẩn quốc tế về nơi làm việc của ILO – Tổ chức Lao
động Quốc tế và về các hiệp định và công ước của Liên hiệp quốc (Nhân quyền, Quyền
21
của trẻ em). Sự ủng hộ của các tổ chức quan trọng này và đòi hỏi của khách hàng và
người tiêu dùng trên toàn cầu đã làm tăng tầm quan trọng của SA 8000. Hiện đã có các
công ty được cấp chứng nhận SA 8000 trên 22 ngành nghề ở 30 nước khắp 5 châu.
Social Accountability International là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập năm
1997 để chứng nhận tiêu chuẩn SA 8000. Các công ty đáp ứng yêu cầu sẽ có quyền niêm
yết chứng nhận SA 8000 trong vòng 3 năm kể từ khi được cấp.
11 - Thương mại công bằng
Thương mại công bằng là thương mại đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển về mặt xã
hội, kinh tế và môi trường của các nhà sản xuất và chủ đất qui mô nhỏ ở các nước đang
phát triển. Các sản phẩm thương mại công bằng gồm hàng dệt may, đồ trang sức, nhạc
cụ bản địa, vật trang trí và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác, cộng với đồ thực phẩm
như cà phê, chè, mật ong, các loại hạt và gia vị. Tương tự như đối với các nhãn mác môi
trường, các nhãn mác về thương mại công bằng cũng khác nhau ở từng nước, ví dụ Hà
lan dùng nhãn Max Havelaar.
The Fair Trade Labelling Organization International (FLO) chịu trách nhiệm điều
phối các nhãn mác thương mại công bằng và các tổ chức cấp giấy chứng nhận trên toàn
thế giới. Có hai bộ tiêu chuẩn chung đối với người sản xuất : một cho các trang trại nhỏ,
được tổ chức trong các hợp tác xã hay trong các tổ chức khác với một cấu trúc dân chủ
và tham gia tự nguyện, và một bộ khác cho công nhân làm việc trong các đồn điền và
nhà máy. Bộ tiêu chuẩn thứ hai này áp dụng cho người lao động có tổ chức, được chủ sử
dụng lao động trả lương thích đáng, đảm bảo quyền tham gia công đoàn và được cung

cấp chỗ ở tốt một cách thích đáng. Các đồn điền và các nhà máy phải tuân thủ các tiêu
chuẩn tối thiểu về sức khoẻ, an toàn và môi trường, và không có lao động trẻ em hay lao
động cưỡng bức. Nếu các trang trại nhỏ, các đồn điền và các nhà máy tuân thủ các tiêu
chuẩn này, tổ chức thương mại công bằng sẽ dành cho các sản phẩm của họ một giá
“công bằng”. Giá này sẽ giúp họ và gia đình họ có một cuộc sống đầy đủ. Các tổ chức
thương mại công bằng cũng giúp người sản xuất trong việc phát triển sản phẩm, giáo dục
và đào tạo, tiếp thị, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm.
Nhãn hiệu thương mại công bằng (Fair trade Mark)
Các sản phẩm có thể được cấp Các sản phẩm đang trong quá trình
nhãn hiệu thương mại công bằng xem xét, phát triển
cà phê và chè hoa quả nhiệt đới (kể cả hoa quả
khô)
cocoa và chocolate các sản phẩm bông
mật ong và đường gạo, hạt các loại và dầu
nước quả trà dược thảo và trà quả
hoa quả tươi rượu vang
snacks và bánh qui đồ thủ công mỹ nghệ
Trong năm 2003 hơn 360 nhóm các nhà sản xuất ở 40 quốc gia được cấp chứng chỉ
thương mại công bằng đã hưởng lợi từ chương trình này.
12 - Quản lý chất lượng
Các tiêu chuẩn quản lý chất lượng, cũng giống như tiêu chuẩn quản lý môi trường
ISO 14001 và SA 8000, liên quan đến quản lý công ty. Điều này tương phản với các tiêu
chuẩn, nhãn hiệu, ký hiệu khác vốn liên quan đến sản phẩm hay quá trình sản xuất. Tiêu
22
chuẩn quản lý chất lượng không mang tính bắt buộc cho việc thâm nhập thị trường EU,
nhưng là một yêu cầu công nghiệp trong một số ngành/lĩnh vực. Điều này rõ ràng góp
phần xây dựng hình ảnh của công ty trên thị trường.
ISO 9000:2000
Các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quan trọng nhất là các tiêu chuẩn theo ISO
9000:2000. Cùng với ISO 14000 các tiêu chuẩn này được gọi là các tiêu chuẩn “hệ thống

quản lý chung”. Tức là các tiêu chuẩn như nhau được áp dụng cho tất cả các tổ chức bất
kỳ, lớn hay nhỏ, công ty sản xuất hay dịch vụ, tư nhân hay công cộng. “Hệ thống quản
lý” bao hàm những việc mà tổ chức làm để quản lý các quá trình, hay hoạt động của
mình.
Để đáp ứng yêu cầu thực tế trước những phát triển mới trong lĩnh vực quản lý chất
lượng, Tổ chức quốc tế về tiêu chuản hoá (International Organization for Standardization
– ISO) đã cập nhật các tiêu chuẩn ban hành năm 2000 và phát triển các seri ISO
9000:2000. Các seri này cung cấp các khuôn khổ cho công tác quản lý, đảm bảo chất
lượng và thể hiện sự nhất trí quốc tế về các thuộc tính quan trọng của một hệ thống quản
lý chất lượng. Chứng chỉ ISO được coi là một tài sản quan trọng của những doanh
nghiệp sở hữu nó. Đây là một ưu thế bán hàng quan trọng khi hoạt động kinh doanh tại
thị trường EU đầy cạnh tranh và tạo dựng niềm tin một cách mạnh mẽ với đối tác kinh
doanh. Các chương trình quản lý chất lượng, sức khoẻ, an toàn và môi trường thường
được lồng ghép, đan xen với các kế hoạch quản lý ISO tổng thể. Ngày nay, toàn thế giới
có hơn 200.000 tổ chức được cấp chứng chỉ ISO 9000.
Các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển được cấp chứng chỉ ISO sẽ thu hút sự
chú ý của các khách hàng triển vọng ở EU. Tại thị trường EU đầy cạnh tranh, các khách
hàng thường được thoả mái lựa chọn hàng hoá từ một số nhà cung cấp, vì vậy chứng chỉ
ISO có thể là một yếu tố quyết định trong quá trình lựa chọn đối tác. Tuy nhiên, để được
cấp chứng chỉ ISO, doanh nghiệp cần phải có các cam kết chắc chắn và đầy đủ trên cơ sở
các nguồn nhân lực và tài lực. Doanh nghiệp cần phải có một cán bộ chuyên trách về
chất lượng, chịu trách nhiệm đối với chính sách quản lý chất lượng, thủ tục, thực hiện,
giám sát và theo dõi hồ sơ cần thiết. Hơn thế nữa, việc kiểm toán định kỳ nội bộ và kiểm
toán bên ngoài cũng là yêu cầu bắt buộc và các việc này đều tốn kém về tiền bạc và thời
gian.
Việc xem xét, sửa đổi các series ISO 9000:2000 được xuất phát từ ý tưởng Quản
lý chất lượng tổng thể (Total Quality Management – TQM), một tríêt lý dựa trên sự hài
lòng của khách hàng và không ngừng nâng cao thành tích. Kể từ lần điều chỉnh gần đây
nhất các tiêu chuẩn ISO được thực hiện năm 2000, đến nay còn 3 tiêu chuẩn về hệ thống
quản lý chất lượng đang được áp dụng:

• ISO 9000:2000 (QMS – các qui tắc cơ bản và từ ngữ)
• ISO 9001:2000 (QMS – các yêu cầu)
• ISO 9004:2000 (QMS – Hướng dẫn nâng cao thành tích)
Các tiêu chuẩn ISO có thể là một nguồn thông tin về bí quyết công nghệ quan trọng
đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển, góp phần nâng cao năng lực xuất
khẩu và cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. Do khan hiếm các nguồn lực, các nhà
xuất khẩu ở các nước đang phát triển có thể gặp khó khăn khi tham gia ISO. Để giúp các
nhà xuất khẩu hưởng lợi từ việc tiêu chuẩn hoá quốc tế, ISO sẵn sàng dành cho họ các
mức phí thành viên ưu đãi. ISO còn thành lập một uỷ ban chính sách, DEVCO, quan tâm
23
đặc biệt đến nhu cầu của các nước đang phát triển. Hội viên DEVCO gồm khoảng 100 tổ
chức tiêu chuẩn quốc gia của các nước công nghiệp hoá cũng như của các nước đang
phát triển và phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chuyên trách của Liên hiệp quốc và với
Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế.
Tóm lại, khung pháp lý về thị trường giữa Việt Nam và EU đã được mở hoàn toàn kể
từ 11/ 01/ 2007. Một thời kỳ mới với nhiều cơ hội và thách thức được đặt ra. Quan trọng
và có tính quyết định là hoạt động của các doanh nghiệp.

24

×