Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

BỆNH LIÊN CẦU KHUẨN Ở LỢN (STREPTOCOCCUS SUIS) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.6 KB, 10 trang )

BỆNH LIÊN CẦU KHUẨN Ở LỢN (STREPTOCOCCUS SUIS)
Người viết: Phó cục trưởng Hoàng Văn Năm
Khái niệm: Streptoccocus suis nhiễm phổ biến ở lợn con một vài tuần tuổi
đến sau cai sữa vài tuần. Đặc trưng lâm sàng của bệnh là nhiễm trùng
huyết, viêm màng não, viêm khớp và viêm phế quản phổi. Streptoccocus
suis típ 2 có thể gây bệnh cho người.
Dịch tễ học
Sự xuất hiện bệnh: Bệnh gây ra do Streptoccocus suis xảy ra ở những nơi
nuôi lợn trên khắp thế giới. Lợn con sơ sinh đến 22 tuần tuổi có thể bị mắc.
Nhiều trường hợp xảy ra sau khi cai sữa liên quan đến yếu tố stress như vận
chuyển, xáo trộn đàn, mật độ quá cao, không đủ thông gió. Streptoccocus
suis típ 2 gây ra nhiều ổ dịch viêm màng não lợn con 10 – 14 ngày sau cai
sữa. Gần đây, bệnh hay xảy ra ở lợn sau cai sữa chăn nuôi tập trung với mật
độ cao.
Vi khuẩn còn phân lập được ở bò, dê, cừu, ngựa khi viêm màng não.
Sự lưu hành vi khuẩn: bằng nhiều phương pháp khác nhau người ta đã xác
định được sự lưu hành của vi khuẩn trong đàn lợn như nuôi cấy phát hiện
vi khuẩn từ các mô lấy từ lò giết mổ, từ lợn con theo mẹ các lứa tuổi và
phản ứng huyết thanh học đối với lợn lớn. Streptoccocus suis típ 2 được
phát hiện ở hầu hết các nước có chăn nuôi lợn. Một nghiên cứu ở lò mổ lợn
của Úc và Niu-di-lân cho thấy ở hạch amidan đã phát hiện thấy 54% số
mẫu nhiễm Streptoccocus suis típ 1 và 73% nhiễm với Str. suis típ 2; 3%
phát hiện thấy vi khuẩn này trong máu lợn khi giết mổ. Có thể phân lập
được vi khuẩn ở nhiều mô khác nhau, trong đó có cả ở đường sinh dục con
cái, nhưng không thấy ở con đực. Vi khuẩn có thể phân lập từ âm đạo con
nái điều này làm cho con non bị nhiễm trong khi sinh. Nhiễm từ môi
trường bên ngoài cũng chiếm tỷ lệ cao.
Năm 1990, đã xác định có ít nhất 23 serotip. Ở Canada phân lập
được tất cả 23 típ, trong đó típ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất với 32%. Str. suis típ
2 lưu hành phổ biến ở các nước. Trong một nghiên cứu điều tra ở Quebec
đối với lợn con khoẻ mạnh về lâm sàng 4 – 8 tuần tuổi cho kết quả 94% số


lợn phân lập được vi khuẩn và 98% số trại bị nhiễm. Những serotip thường
thấy theo thứ tự giảm dần là 3, 4, 8 và 2; có 32% số lợn con phát hiện
nhiễm 2 serotip phân biệt, nhiễm 3 serotip là 1%. Serotip 1 và 2 phân lập từ
lợn con viêm màng não và viêm phổi hoá mủ. Ở Đan Mạch serotip 7 phát
hiện nhiều hơn các serotip khác, chiếm 75%. Ở Phần Lan, phân lập từ lợn
chết thấy nhiều nhất là serotip 7 sau đó là 3 và 2, thường phân lập từ lợn
viêm phổi. Ở Hà Lan, Str Suis típ 2 phân lập phổ biến nhất ở lợn viêm
màng não. Xét nghiệm từ hạch amidan lợn ở lò mổ (lợn khoẻ mạnh) ở vùng
trước đó có nhiễm liên cầu típ 2 thấy 45% số mẫu dương tính, ở vùng
không có bệnh là 38%. Ở Úc liên cầu típ 9 và típ 2 cho là nguyên nhân gây
ra nhiễm trùng huyết và viêm màng não ở lợn cai sữa. Ở Canada trong số
lợn bệnh phát hiện thấy nhiều nhất là Str. suis típ 2 sau đó là típ 3, 5 và 7.
Tỷ lệ mắc và chết
Tỷ lệ mắc có biểu hiện lâm sàng từ 0 đến 15%. Điều tra tại một trại
giống trong 2 năm cho thấy tỷ lệ mắc liên cầu típ 2 là 3,8%, tỷ lệ chết là
9,1%. Ở Anh quốc, tỷ lệ mắc bệnh tăng đáng kể trong những năm gần đây.
Cách truyền lây
Vi khuẩn khu trú ở hạch amidan và mũi lợn khoẻ, vi khuẩn từ con
khoẻ này truyền cho lợn không bị nhiễm có thể xảy ra trong vòng 5 ngày
sau khi nhốt chung. Việc đưa những con nái hậu bị từ đàn nhiễm bệnh có
thể gây bệnh cho lợn con theo mẹ và lợn choai ở đàn tiếp nhận. Có thể phát
hiện tỷ lệ mang trùng ở lợn các lứa tuổi khác nhau từ 0 đến 80% và cao
nhất ở nhóm tuổi sau cai sữa từ 4 đến 10 tuần tuổi. Trong một đàn có thể có
tới 80% số lợn nái là con mang trùng không thể hiện triệu chứng bệnh.
Những con mang trùng đã cai sữa sẽ truyền vi khuẩn cho những con không
bị nhiễm khác khi nhập đàn. Vi khuẩn tồn tại ở hạch amidan lợn mang
trùng hơn 1 năm, ngay cả khi có các yếu tố thực bào, kháng thể và bổ sung
kháng sinh phù hợp trong thức ăn. Điều này cho thấy vi khuẩn mang tính
địa phương ở một số đàn nhưng không thể hiện bệnh lâm sàng. Ruồi nhà có
thể mang vi khuẩn ít nhất 5 ngày có thể gây nhiễm vào thức ăn ít nhất 4

ngày.
Streptoccocus suis típ 2 có thể phân lập được từ các mẫu thu thập ở
đàn nhiễm khuẩn tại các lò mổ lợn. Trong một số điều tra ở lò mổ cho thấy
tỷ lệ mang trùng từ 32 – 50% lợn từ 4 đến 6 tháng tuổi. Điều này có thể
giải thích tỷ lệ mắc viêm màng não cao ở người Hà Lan do Streptoccocus
suis típ 2. Vi khuẩn này là nguy cơ lớn đối với công nhân giết mổ lợn, đặc
biệt là những người xử lý nội tạng, người cắt bỏ thanh quản và phổi. Họ
phơi nhiễm cao hơn so với những công nhân giết mổ khác.
Streptoccocus suis típ 2 cũng được phát hiện từ lợn viêm phế quản
phổi, như vai trò thứ phát đối với bệnh suyễn, viêm khớp, viêm âm đạo,
thai bị sẩy, lợn sơ sinh 1 – 2 ngày tuổi bị chết do nhiễm trùng huyết. Ở Bắc
Mỹ vi khuẩn phát hiện thấy nhiều hơn trong bệnh viêm phổi so với các
nước khác.
Yếu tố nguy cơ
Yếu tố vật chủ làm cho lợn mắc bệnh lâm sàng còn chưa biết. Người
ta cho rằng các chủng Str. suis típ 2 có khác nhau về khả năng gây bệnh,
đồng thời sự xuất hiện bệnh phụ thuộc vào sự phơi nhiễm với chủng gây
bệnh và những tác nhân bội nhiễm còn chưa xác định. Lứa tuổi mắc cao
nhất từ 5 đến 10 tuần tuổi, như vậy có thể các tác nhân stress của cai sữa đã
làm cho tính mẫn cảm với bệnh tăng lên.
Tác nhân môi trường: Tỷ lệ mắc bệnh lâm sàng phụ thuộc vào tác
nhân môi trường như không đủ thông thoáng, mật độ đàn cao và các stress
khác. Việc xáo trộn và vận chuyển lợn cũng hay làm bệnh phát ra. Sự lây
lan được truyền trực tiếp từ con mẹ mang trùng cho lợn con, từ lợn con này
lại truyền cho lợn con mẫn cảm khác.
Yếu tố mầm bệnh: Hiện được biết có ít nhất 28 serotip Str. suis. Vi
khuẩn được chia ra thành các nhóm serotip đặc trưng bởi kháng nguyên vỏ
bọc polysaccharide. Ở Canada, 94% lợn con 4 -8 tuần tuổi khoẻ mạnh về
lâm sàng có chứa vi khuẩn ở xoang mũi.
Str. suis típ 2 có thể sống trong phân ở nhiệt độ 0

o
C tới 104 ngày,
10 ngày ở 9
o
C, 8 ngày ở 22 – 25
o
C; có thể sống ở bụi 25 ngày ở 9
o
C, nhưng
không phân lập được ở bụi nhiệt độ trong phòng (18 - 20
o
C) trong 24 giờ.
Vi khuẩn bị vô hoạt nhanh chóng bằng các thuốc sát trùng dùng phổ biến ở
các trại chăn nuôi. Nước xà phòng nồng độ 1/500 có thể diệt vi khuẩn trong
vòng 1 phút. Vi khuẩn có thể sống trong xác lợn chết ở 40
o
C trong 6 tuần,
đây có thể là nguồn lây nhiễm cho con người.
Có sự khác nhau về khả năng gây bệnh giữa các serotip; ở Anh
quốc, khả năng gây bệnh của típ 1 và 2 khác nhau, típ 1 gây bệnh ít trầm
trọng ở lợn con, trong khi đó típ 2 gây bệnh nặng hơn và gây bệnh cấp tính
ở lợn lớn hơn và lợn nuôi vỗ béo. Sự phân biệt giữa các chủng của Str. suis
típ 2 là về khả năng gây viêm màng não.
Yếu tố độc lực của vi khuẩn bao gồm cấu trúc các protein hoạt hoá
men muramidasa và thành phần mặt ngoài màng tế bào vi khuẩn. Sự phân
biệt độc lực giữa các chủng của cùng serotip dựa trên có hay không protein
hoạt hoá men muramidase. Chất liệu vỏ bọc của vi khuẩn tạo ra sự khác
biệt giữa các serotip về hình thái học. Một số chủng có đặc tính ngưng kết
hồng cầu. Liên cầu típ 2 có yếu tố bám dính phát hiện ở phổi lợn. Kỹ thuật
phân tích nhân sử dụng để xác định cấu trúc gen vi khuẩn.

Yếu tố độc lực của vi khuẩn Str. suis típ 2 được xác định là do
protein có trọng lượng phân tử 44 kDa, sự có mặt của kháng thể chống lại
protein này có thể bảo vệ con vật chống lại bệnh.
Sự nhiễm bệnh trên người
Người nhiễm phổ biến với Str. suis típ 2 và thường xảy ra với người
tiếp xúc với lợn hoặc sản phẩm tươi sống của chúng. Ở Anh quốc tỷ lệ
nhiễm Str. suis típ 2 cao nhất là người bán thịt lợn và công nhân giết mổ
lợn, lây truyền chủ yếu qua vết thương xây sát trên da. Biểu hiện lâm sàng
ở người bao gồm viêm màng não, nhiễm trùng huyết kèm theo viêm khớp,
nội võng mạc và viêm tắc mạch máu. Viêm nội tâm mạc và viêm dạ dày
ruột cấp tính cũng có thể xảy ra. Trong số 35 người mắc bệnh viêm màng
não do Str. suis típ 2 ở Anh quốc cho thấy 50% số bệnh nhân bị điếc, 30%
chóng mặt và mất phối hợp, 53% viêm khớp; 13% tử vong. Vi khuẩn ở
trong đại thực bào xâm nhập vào dịch não tuỷ, theo cơ chế “nội công” (ý
nói vi khuẩn ở trong đại thực bào mới vào được dịch não tuỷ). Điếc là do vi
khuẩn xâm nhập từ bề mặt dưới lưới nhện vào phần dịch ở chỗ phân cách
màng và xương búa của tai trong. Lợn nhiễm khuẩn không thể hiện lâm
sàng đưa vào lò giết mổ là nguồn lây nhiễm tiềm tàng cho công nhân giết
mổ; những người xử lý nội tạng, cắt bỏ phổi và thanh quản có nguy cơ cao
hơn so với công nhân giết mổ khác. Trong các đàn lợn nhiễm bệnh ở Niu-
di-lân, tới 100% lợn mang trùng, việc lây nhiễm Str. suis típ 2 có thể là một
trong những vi khuẩn lây bệnh cho người cao nhất ở Niu-di-lân, mặc dù rất
ít khi gây bệnh có biểu hiện lâm sàng. Tỷ lệ nhiễm không thể hiện lâm
sàng, nhưng có phát hiện kháng thể hàng năm ở công nhân chăn nuôi lợn
khoảng 28% ở Niu-di-lân.
Cách sinh bệnh
Vi khuẩn khu trú ở các hốc của hạch amidan, sau đó xâm nhập vào
hệ tuần hoàn gây ra bệnh ở một số lợn. Lợn con thường bị chết do nhiễm
trùng máu cấp tính, lợn lớn hơn vi khuẩn có thể khu trú ở các xoang hoạt
dịch, nội tâm mạc, mắt, màng não. Thời gian nhiễm khuẩn huyết là pha

quan trọng trong quá trình phát sinh viêm màng não do Str. suis típ 2.
Những mẫu vi khuẩn Str. suis típ 2 gây bệnh phân lập được là loại có vỏ
bọc và đề kháng khá cao với thực bào. Chúng có thể sống và nhân lên trong
đại thực bào, vi khuẩn có thể xâm nhập vào dịch não tuỷ thông qua bạch
cầu đơn nhân di chuyển qua lưới mao mạch. Cơ chế xâm nhập của vi khuẩn
theo cách “nội công” cũng xảy ra ở một số vi rút gây bệnh ở hệ thần thần
kinh trung ương. Bệnh có thể gây thực nghiệm ở lợn bằng cách tiêm ven,
nhỏ mũi.
Triệu chứng lâm sàng
Viêm màng não và viêm khớp có thể xảy ra riêng rẽ hoặc kết hợp phổ biến
ở lợn 2 - 6 tuần tuổi, lợn con bị nhiễm trong cùng một ổ mắc nặng hơn.
Viêm màng não với phản ứng toàn thân như sốt, biếng ăn và cơ thể suy
sụp. Bước đi cứng nhắc, lợn con đứng trên đầu ngón chân, phần sau thân
đu đưa, tai xuôi ép về phía thân; có thể bị mù, co giật cơ, mất cân bằng,
nằm nghiêng một bên, chân đạp bơi chèo rồi chết. Một số trường hợp viêm
rốn. Viêm nội tâm mạc ở lợn thường thấy khi hôn mê hoặc chết không có
biểu hiện triệu chứng trước đó.
Trong các đợt dịch viêm màng não do Str. suis típ 2, biểu hiện chết
đột ngột một hoặc nhiều con có thể là dấu hiệu đầu tiên, những con còn
sống mất phối hợp sau đó nhanh chóng chuyển sang nằm phủ phục. Có
hiện tượng co giật nhãn cầu, đạp bơi chèo, rối loạn và chết dưới 4 giờ.
Thường sốt tới 41
o
C. Ở Anh quốc Viêm màng não hay gặp nhất ở lợn mới
cai sữa, viêm khớp hay gặp ở lợn non hơn. Ngoài ra còn thấy viêm van tim
ở lợn 13 tuần tuổi nuôi vỗ béo ở trại lợn có tiền sử mắc viêm màng não do
Streptococcus.
Vi khuẩn có thể nuôi cấy từ dịch khớp, dịch não tuỷ, máu, mô não,
phổi, mẫu swab từ hạch amidan lợn khoẻ.
Bệnh tích

Lợn chết do Str. suis típ 2, bệnh tích đại thể, vi thể bao gồm một
hoặc nhiều ổ viêm tương mạc hoá mủ, viêm phổi và màng phổi xuất huyết
hoặc viêm tơ huyết, viêm màng não mủ, viêm cơ tim thoái hoá xuất huyết,
viêm van tim hai lá. Trong trường hợp viêm màng não, dịch não tuỷ bị đục,
xung huyết và viêm màng não tích tụ thể trắng, ổ mủ ở vùng dưới nhện.
Hầu hết các trường hợp lưới võng mạc nội mô bị ảnh hưởng nặng, các
mạch máu ở tâm thất, não và tuỷ sống bị tắc nghẽn do dịch thẩm xuất,
nhiều khi gây ra phù não. Mô thần kinh của tuỷ sống, tiểu não và cuống
não có thể biểu hiện thoái hoá dạng lỏng.
Chẩn đoán
Có thể thấy viêm khớp rải rác ở lợn do tụ cầu trùng nhưng phổ biến
hơn vẫn là liên cầu trùng. Viêm khớp do Mycoplasma hyorhinis sinh mủ ít
hơn do đó cần phải nuôi cấy xác định. Bệnh Glasser (bệnh gây ra bởi
Haemophilus spp biểu hiện viêm đa khớp cấp tính, viêm màng phổi, viêm
bao tim và viêm phúc mạc) thường xảy ra ở lợn lớn hơn và kèm theo viêm
màng phổi và phúc mạc. Bệnh Đóng dấu lợn ở lợn non thường biểu hiện
nhiễm trùng huyết. Bệnh hệ thần kinh ở lợn con có thể kế tiếp viêm khớp
nhẹ nhưng không sưng khớp và không biểu hiện què. Tuy nhiên, thể viêm
màng não do nhiễm Streptococcus có thể dễ nhầm lẫn với viêm do vi rút.
Viêm màng não ở bê non cũng có thể gây ra do Pasteurella multocida.
Viêm đa khớp ở bê, cừu và lợn con cũng có thể gây ra do Actinomyces
(Corynebacterium) pyogenes và Fusobacterium necrophorum. Str. suis típ
2 cũng có thể gây viêm màng não ở lợn lớn từ 10 – 14 tuần tuổi.
Điều trị
Trong một vài thử nghiệm tính mẫn cảm kháng sinh cho thấy vi
khuẩn mẫn cảm với Ampicillin, Penicillin, trimethoprim-sulfamethoxazole,
kháng với lincomycin, erythromycin, neomycin, streptomycin và
tetracyclin. Trong thí nghiệm khác lại cho thấy tất cả các mẫu vi khuẩn
phân lập được mẫn cảm với Penicillin và ampicillin, 1/3 kháng với
trimethoprim-sulfamethoxazole, kháng rất mạnh với gentamicin, nitrofuran

và tetracyclin. Tính mẫn cảm của penicillin có thể không lâu dài với tất cả
các chủng Str. suis vì vậy nếu dùng lâu phải đánh giá lại tính mẫn cảm.
Điều trị lợn viêm màng não do Str. suis típ 2 có thể dùng với trimethoprim-
sulfadiazin hoặc penicillin làm giảm tỷ lệ chết từ 55% xuống21%.
Khống chế
Hiện tại, chưa có biện pháp đặc hiệu để phòng viêm não do nhiễm
Str. suis típ 2 ở lợn con đang bú sữa, nhưng cần phải chú ý quản lý đàn và
vệ sinh thú y. Dùng thuốc sớm ở lợn con theo mẹ và áp dụng các kỹ thuật
làm sạch mầm bệnh áp dụng cho các đàn đã nhiễm khuẩn là biện pháp hiệu
quả nhất trong chăn nuôi lợn. Không nhập những con mang trùng vào đàn
sạch bệnh. Để thanh toán Str. suis típ 2 có thể loại con nái mang trùng, thay
thế bằng đàn giống sạch bệnh, đồng thời quản lý đàn tốt và áp dụng các
biện pháp an toàn sinh học.
Dùng kháng sinh cho từng cá thể hoặc bổ sung trong thức ăn ở thời
kỳ nguy cơ cao có thể giảm tỷ lệ mắc lâm sàng. Những ổ dịch ở đàn lợn
con đang bú có thể tiêm benethamine penicillin cho tất cả lợn con trong 5
ngày trước lứa tuổi trung bình mắc bệnh lâm sàng. Thức ăn có chứa
oxytetracyclin (400g/tấn) cho ăn 14 ngày ngay trước lúc bệnh thường xảy
ra có thể khống chế được bệnh, dùng liều thấp hơn đối với lợn đã thôi bú.
Thức ăn chứa trimethoprim-sulfadiazin (1/5) với tỷ lệ 500g/tấn ở 6 tuần
đầu sau khi cai sữa không giảm tỷ lệ bệnh. Cho uống phòng bằng procain
penicillin G hoặc hỗn hợp chlortetracyclin, sulfadimidin và procain
penicillin G làm giảm tỷ lệ viêm màng não. Cho uống phenoxymethyl
penicillin làm nồng độ thuốc trong huyết tương cao hơn. Phối hợp
phenoxymethyl penicillin potassium (10%) với tỷ lệ 2kg/tấn thức ăn giảm
đáng kể viêm màng não cho ăn trong 6 tuần từ 4 tuần đến 10 tuần tuổi.
Tiamulin pha trong nước uống với mức 180mg/lít trong 5 ngày
giảm đáng kể khi gây nhiễm thực nghiệm.
Những nghiên cứu vắc xin từ liên cầu khuẩn ở lợn típ 2 đang được
tiến hành. Tiêm ven vi khuẩn Str. suis típ 2 vô hoạt bằng focmalin đã tạo

kháng thể với mức có thể phát hiện được và có khả năng chống lại bệnh khi
công cường độc qua đường tiêm ven. tuy nhiên, mức kháng thể bảo hộ
không thể tiêu diệt được vi khuẩn khu trú ở hạch amidan và khớp. Những
thành phần khác nhau của vi khuẩn đang được kiểm tra để tìm ra phần phù
hợp để chế vắc xin tiểu phần.
BỆNH GÂY RA DO LIÊN CẦU KHUẨN (STREPTOCOCCUS SPP.)
Người viết: Phó cục trưởng Hoàng Văn Năm
Liên cầu khuẩn (Streptococcus spp) gây ra nhiều bệnh khác nhau trên các
loài vật tuỳ theo chủng gây bệnh. Một số thể bệnh thường gặp như sau:
Thể nhiễm trùng huyết
Nhiễm trùng huyết cấp tính do liên cầu xảy ra rải rác ở lợn nái và
lợn con theo mẹ. Bệnh xảy ra làm chết đột ngột trong vòng 12 đến 48 giờ.
Triệu chứng gồm cơ thể suy yếu, nằm phủ phục, sốt, thở khó, đi kiết, huyết
niệu. Mổ khám thấy xuất huyết điểm hoặc tràn lan ở hầu hết nội tạng.
Những con sống sót sau vài ngày mắc bệnh phổi bị phù và chắc đặc. Bệnh
lây khá nhanh và tỷ lệ chết cao nếu như không dùng kháng sinh mẫn cảm
điều trị dự phòng.
Những liên cầu điển hình gây bệnh ở thể này gồm:
Str. zooepidemicus ở ngựa biểu hiện sốt, cơ thể suy sụp, biếng ăn,
âm phổi bệnh lý, viêm khớp, đi lại khó khăn, gầy yếu, bạch cầu tăng. Ở dê,
cừu vi khuẩn này có thể làm chết tới 90%.
Str. pneumoniae làm nhiễm trùng huyết và gây chết nhanh phổ biến
ở bê.
Str. suis gặp ở loài nhai lại với mọi lứa tuổi nhưng thường gây bệnh
cho lợn nhiều hơn, vi khuẩn theo đường máu khu trú ở nhiều cơ quan bao
gồm phổi, khớp, xương, màng não.
Thể viêm ruột
Streptococcus durans phân lập từ ngựa non bị viêm ruột ỉa chảy.
Thể viêm phổi
Str. zooepidemicus gây ra hội chứng viêm phổi, màng phổi và viêm

ngoại tâm mạc ở cừu non.
Str. pneumoniae gây viêm phổi ở bê, ngựa, thường liên quan đến
nhiễm vi rút làm cho tỷ lệ chết cao
Thể viêm não và màng não
Viêm não và màng não khá phổ biến do nhiễm trùng huyết của
Streptoccocus ở con vật sơ sinh, nhưng cũng gặp ở lơn sau cai sữa 10 đến
14 tuần tuổi và lợn lớn hơn đến 6 tháng tuổi. Ở lợn thể bệnh này thường do
Str. suis típ 2 gây ra. Con vật biểu hiện chậm chạp, mất phối hợp, co giật
từng cơn, giật nhãn cầu. Bệnh tiến triển nhanh trong vòng 4 giờ và thường
không biểu hiện ốm trước khi chết.
Thể viêm hạch lâm ba
Viêm loét hạch lâm ba nhiều trường hợp do Str. zooepidemicus gây
ra ở ngựa 6 tháng tuổi đến 2 năm. Bệnh này dễ nhầm lẫn với viêm loét
hạch lâm ba gây ra do Corynebacterium pseudotuberculosis.
Thể viêm da
Viêm da truyền nhiễm ở lợn đặc trưng bởi mụn mủ ở mặt, cổ, gặp ít
hơn ở thân. Trong ổ mủ phát hiện cả liên cầu và tụ cầu. Bệnh lây lan qua
vết trầy sát ngoài da đặc biệt ở lợn con khi cắn nhau, những lợn con này
không được cắt răng nanh. Bệnh có thể nhầm lẫn với viêm da do thẩm xuất.
Thể nhiễm khuẩn đường sinh dục
Nhiễm liên cầu đường sinh dục do Str. zooepidemicus xảy ra phổ
biến đặc biệt ở con mẹ lan truyền do giao phối, kèm theo tỷ lệ xảy thai cao,
vô sinh, nhiễm trùng ở ngựa lúc sơ sinh.
(Theo Veterinary Medicine, xuất bản lần thứ 8)

×