Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Cộng đồng các dân tộc ở vùng miền núi Việt Nam (Chương 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.5 KB, 30 trang )

14
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VỚI VIỆC SỬ DỤNG
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1.1 Cộng đồng các dân tộc
1.1.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ dân tộc (tộc người) được bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ "ethnos"
dùng để chỉ những cộng đồng người hình thành và phát triển trong quá trình
tự nhiên - lịch sử. Mỗi cộng đồng tộc người được đặc trưng bởi những dấu
hiệu như : cùng chung tiếng nói, lãnh thổ, đặc điểm lối sống văn hoá và ý
thức tự giác dân tộc. Trong một số trường hợp, những dấu hiệu như cùng
chung lãnh thổ có thể đóng vai trị kém quan trọng hơn [47].
Một số nhà dân tộc học Việt Nam cho rằng, cộng đồng tộc người hay dân
tộc phải được coi là đơn vị cơ bản để tiến hành xác minh thành phần các dân
tộc. Tại nhiều hội thảo khoa học về dân tộc học hầu hết ý kiến đều tán thành
các chỉ tiêu xác định thành phần dân tộc là : tiếng nói, đặc điểm văn hố và ý
thức tự giác dân tộc [43; tr 10-25].
Phần lớn các nhà dân tộc học Liên Xô (trước đây) đều cho rằng : cộng
đồng tộc người đồng nghĩa với dân tộc [103]. Về nguyên tắc phân loại cộng
đồng các dân tộc thì đều thống nhất rằng : các cộng đồng dân tộc khác nhau
không phải theo một đặc trưng nào đó, mà theo tổng thể các đặc trưng, đó là
[36] :
- Cùng nói một ngơn ngữ hay nói cách khác mỗi dân tộc đều có tiếng nói
riêng của mình. Ngơn ngữ không chỉ đơn thuần là một phương tiện để giao
lưu mà còn là một phương tiện để phát triển các hình thái quan trọng nhất đối
với đời sống văn hố tinh thần của họ. Chỉ có ngơn ngữ mẹ đẻ được tiếp nhận
từ thời thơ ấu mới có thể giúp họ biết được những sắc thái tinh vi nhất của đời


sống tinh thần, cho phép họ hiểu biết nhau thấu đáo. Ngôn ngữ liên quan mật


15
thiết đến bản tính tộc người, khơng phải ngẫu nhiên mà phần lớn các tên gọi
dân tộc lại trùng lặp với ngôn ngữ của họ.
- Một trong những dấu hiệu quan trọng để phân định các dân tộc là đặc
điểm văn hoá. Văn hoá là cái mà mỗi dân tộc xây dựng nên trong quá trình
phát triển lịch sử của mình được lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Vì
thế mỗi dân tộc đều có đặc điểm văn hoá riêng; các yếu tố văn hoá đặc thù
thường trở thành biểu tượng của bản sắc dân tộc. Khi nói đến đặc điểm văn
hố có nghĩa là nói đến những thành tựu văn hố dân tộc đó đã đạt được,
những tri thức mà họ đã tích luỹ được, những đóng góp của họ vào kho tàng
văn hố nhân loại.
- Ý thức dân tộc hay sự tự giác dân tộc, suy cho cùng là cái quyết định để
xác định thành phần dân tộc. Nó được xuất hiện khi con người trong cùng một
cộng đồng, sử dụng một tộc danh thống nhất và cũng là kết quả của sự tác
động lẫn nhau của các yếu tố cơ bản hình thành nên cộng đồng dân tộc. Điều
quan trọng của ý thức dân tộc là tính độc lập cao hơn hẳn so với ngun nhân
hình thành nó.
- Cùng cư trú trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Lãnh thổ như một
điều kiện vật chất, cơ bản để hình thành các cộng đồng dân tộc. Để giao
dịch được với nhau, con người thường phải sống gần nhau, thậm chí các
nhóm người khác nhau về ngôn ngữ, về xuất xứ, nếu sinh sống cùng nhau
trong một vùng lãnh thổ, họ có thể tạo thành một cộng đồng thống nhất.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm cơ bản về cộng đồng các
dân tộc như sau:
Cộng đồng các dân tộc là một khái niệm phát sinh do kết hợp hơn đến
nhiều dân tộc trên một không gian lãnh thổ nhất định. Mỗi một cộng đồng dân
tộc được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định, với

những đặc trưng cơ bản : cùng chung ngôn ngữ, đặc điểm văn hoá, lãnh thổ
cư trú và ý thức tự giác dân tộc. Tất cả hợp thành một cộng đồng chính trị xã
hội rộng lớn gắn bó với nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi.
1.1.1.2 Bản sắc văn hoá và kiến thức bản địa của cộng đồng các dân tộc


16
Thuật ngữ "Bản sắc" chỉ tính chất, màu sắc riêng tạo thành phẩm chất đặc
biệt của một sự vật [131]. Thuật ngữ "Bản sắc" nhấn mạnh cái riêng tạo thành
phẩm cách, tài năng.
Khái niệm "văn hoá " theo từ điển tiếng Việt, có các nghĩa :
- Tồn thể những thành tựu của loài người trong sản xuất, xã hội và tinh
thần.
- Sự hiểu biết về sự vật hay về cách xử thế tích luỹ bằng việc học tập có hệ
thống hoặc thấm nhuần đạo đức và phép tắc lịch sử được lưu truyền qua các
thế hệ.
"Bản sắc văn hoá " là những đặc điểm riêng biệt, có giá trị cao, gồm những
giá trị vật chất và tinh thần được tích luỹ và phát triển trong tiến trình đi lên
của một dân tộc; nó quy định vị trí riêng biệt về mặt xã hội của một dân tộc.
Những giá trị đó có thể ở mọi dân tộc, song từng dân tộc có bản sắc văn hố
được biểu hiện đậm nét, sâu sắc và đặc biệt hơn [83; tr 40].
Việc nghiên cứu bản sắc văn hố dân tộc nhằm mục đích tìm đến cái nét
riêng biểu hiện ở các mặt : nhận thức, thái độ, hành vi của nhân cách. Đồng
thời, bản sắc văn hố dân tộc cịn được xem xét từ các góc độ : Cái đúng,
hay, tốt (chân, thiện, mỹ) có ở mọi dân tộc, song nó được thể hiện ở dân tộc
nào đậm nét, sâu sắc, trở thành cái riêng của dân tộc ấy. Ở góc độ giá trị tinh
thần xã hội, bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện ở lối sống, cách ứng xử, cách thể
hiện ở nếp sinh hoạt, ngôn ngữ, giao tiếp... một cách đặc biệt, khó có thể trộn
lẫn vbới dân tộc khác. Nếu xét theo trên cơ sở xã hội, các giá trị được biểu lộ
vững bền mà không phụ thuộc vào biến đổi lịch sử.

Tiến sỹ Phạm Hồng Quang khi nghiên cứu về vấn đề này đã đưa ra cách
hiểu về bản sắc văn hoá dân tộc như sau : "Bản sắc văn hoá dân tộc là hệ
thống giá trị bền vững, mang tính truyền thống và hiện đại, gồm các giá trị
tinh hoa của dân tộc, được vun đắp qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là quá trình tiếp nhận, bổ xung hồn thiện những giá trị
mới, đồng thời là gạt bỏ những giá trị lạc hậu, lỗi thời, để những giá trị bền
vững luôn sống động với thực tiễn xã hội " [83].


17
Bản sắc văn hoá dân tộc là một vấn đề rất nhạy cảm, có liên quan mật thiết
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Do đó, vấn đề giữ gìn, bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hố dân tộc có vai trị cực kỳ quan trọng trong
chiến lược phát triển của các quốc gia.
Bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện sinh động trong hệ thống kiến thức bản
địa (indigenouse knowledge), kiến thức truyền thống (traditional knowledge)
hay kiến thức địa phương (local knowledge). Theo một số nhà nghiên cứu ba
thuật ngữ trên có sự khác nhau ở một số khía cạnh nhất định, song trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài này, cả ba khái niệm trên được coi như đồng nghĩa,
gọi chung là kiến rhức bản địa (KTBĐ) [55].
KTBĐ là những kiến thức do người dân của một cộng đồng tộc người phát
triển trong nhiều năm và hiện đang vẫn tiếp tục được gìn giữ [158; tr 7]:
- Dựa vào kinh nghiệm.
- Đã được thử nghiệm qua nhiều thế kỷ áp dụng.
- Phù hợp với văn hố và mơi trường của từng địa phương.
- Thay đổi theo cuộc sống của người dân bản xứ.
Khác với “kiến thức hàn lâm” (academic knowledge) được hình thành chủ
yếu của các nhà thơng thái, được hệ thống hoá và truyền lại qua sách vở, các
KTBĐ được hình thành trực tiếp từ lao động của người dân trong cộng đồng,
được hoàn thiện dần dần và truyền thụ cho các thế hệ tiếp sau bằng truyền

khẩu trong gia đình, trong thơn bản, hoặc thể hiện trong ca hát, ngạn ngữ,
trường ca, tập tục... [132; tr 12]
Khái niệm KTBĐ bao hàm nhiều lĩnh vực liên quan đến đời sống, sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý tài nguyên và quản lý cộng đồng... trong
cuốn sách : “Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và
quản lý tài nguyên” GS.TS Hoàng Xuân Tý đã đưa ra các nội dung nghiên
cứu của KTBĐ trong các lĩnh vực sau đây :
Kiến thức về trồng trọt; Kiến thức về chăn nuôi; Kiến thức về quản lý rừng
và tài nguyên cộng đồng; Kiến thức về dinh dưỡng và sức khoẻ con người;
Kiến thức về tổ chức cộng đồng và truyền thụ kinh nghiệm cho con cháu


18
Trên quan điểm phát triển thì khơng phải tất cả các loại KTBĐ đều hữu
dụng như nhau, cũng có nhiều KTBĐ mang lại hiệu quả cao trong quá trình
phát triển và có thể áp dụng mà khơng cần sửa đổi, nhưng cũng có KTBĐ
khơng có hiệu quả hoặc khơng phù hợp vào thời điểm hiện tại. Trong trường
hợp đó cần phải có sự cải tiến và kết hợp giữa KTBĐ với kiến thức khoa học.
Việc cải tiến kiến thức bản địa có thể có nhiều cách :
Xác định vấn đề

Bước 1

KTBĐ có liên quan đến vấn
đề hiện nay khơng?

Khơng

Thử nghiệm kiến thức
bên ngồi phù hợp



Bước 2

KTBĐ có hiệu quả và bền
vững khơng?

KTBĐ có thể cải tiến được
khơng?

Bước 3



Khơng

Phát triển KTBĐ

Thử nghiệm kiến
thức bên ngồi phù
hợp


Bước 4

áp dụng và phát triển
KTBĐ đã cải tiến

Hình 1.1. Sơ đồ Kiến thức bản địa trong các dự án phát triển . Nguồn:
[158]


- Thông qua những nghiên cứu trong phịng thí nghiệm và các nơng trại
thể nghiệm.


19
- Thông qua những nghiên cứu nông nghiệp do các nhà khoa học tiến hành.
- Thông qua phát triển công nghệ với sự tham gia và quản lý của nhiều
người dân.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp cải tiến KTBĐ và kết hợp KTBĐ với
kiến thức khoa học đã đem lại hiệu quả rất cao vì trong hồn cảnh xã hội và
mơi trường hiện nay một số KTBĐ khơng cịn phù hợp. Song cũng cần phải
lưu ý rằng, khi đánh giá hiệu quả của KTBĐ cần phải hiểu rõ nguyên nhân
đằng sau những hành động và tín ngưỡng đặc biệt của người dân.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải tìm cách phối hợp những ưu
điểm của KTBĐ với những mặt mạnh của khoa học kỹ thuật hiện đại. Bằng
cách đó sẽ rút ngắn được thời gian nghiên cứu nhằm tạo ra các cơng nghệ mới
có hiệu quả cao, bền vững và phù hợp về văn hoá của cộng đồng các dân tộc
thiểu số rất đa dạng và phức tạp ở khu vực miền núi.
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
1.1.2.1 Khái niệm tài nguyên thiên nhiên (TNTN)
“TNTN đó là các thành phần của tự nhiên mà ở trình độ nhất định của sự
phát triển lực lượng sản xuất chúng được sử dụng hoặc có thể sử dụng làm
phương tiện sản xuất (đối tượng lao động và tư liệu lao động) và đối tượng
tiêu dùng” [109; tr 60].
Trên hành tinh của chúng ta TNTN thật đa dạng và phong phú : trên đất
nổi, trong lòng đất, đáy đại dương, trong các lớp thuỷ quyển, trong khơng
khí... Con người từ lúc xuất hiện trên trái đất như là một thực thể trí tuệ đã
từng bước khai thác TNTN để làm tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt cùng với
sự tiến bộ của trình độ phát triển của xã hội lồi người [76].

Khái niệm TNTN được mở rộng cả về không gian và thời gian, theo chiều
rộng và theo chiều sâu. TNTN có thuộc tính kép, chúng có thể được phân biệt
dựa theo các dạng vật chất, đó là các vật thể và các lực của tự nhiên mà nguồn
gốc phát sinh các thuộc tính và sự phân bố của chúng bị quy định bởi các quy
luật tự nhiên. Các tài nguyên cũng có thể phân biệt theo giá trị sử dụng mà


20
điều này lại bị quy định bởi mức độ nghiên cứu, khả năng kỹ thuật, tính hợp
lý về mặt kinh tế và về mặt xã hội.
Nguồn TNTN của Việt Nam, xét mặt tiềm năng là đa dạng và có mặt
phong phú. Khí hậu nội chí tuyến ẩm đã cung cấp một lớp bức xạ dồi dào và
một lượng nước khá lớn. Đồng thời lịch sử địa chất kiến tạo và sự đa dạng
của tự nhiên tạo nên các chủng loại khoáng sản và cơ cấu tài nguyên sinh vật
tương đối phong phú. TNTN có mặt trên đất liền, trong lịng đất, thềm lục địa
và Biển Đông.
1.1.2.2 Phân loại tài nguyên thiên nhiên
Có nhiều cách phân loại TNTN :
- Cách thứ nhất : Phân loại TNTN theo thuộc tính tự nhiên của chúng, bao
gồm : Tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài ngun khống sản, tài ngun
sinh vật, tài ngun khí hậu...
- Cách thứ hai : Phân loại theo mục đích sử dụng, chẳng hạn như : phân
loại theo các nhóm tài nguyên nông nghiệp, tài nguyên công nghiệp, tài
nguyên du lịch. Song do tính chất tổng hợp, đa mục đích trong sử dụng tài
nguyên, sự phân loại này trong nhiều trường hợp là khơng thực sự theo đúng
nghĩa vì một tài nguyên có thể xếp vào các nhóm khác nhau.
- Cách thứ ba : Đây là cách phân loại tài ngun phổ biến hơn, đó là phân
loại TNTN theo tính có thể bị hao kiệt của tài nguyên trong quá trình sử dụng
[50; tr 16,17]. (Hình 1.2).
Tài ngun khơng bị hao kiệt : Là những vật thể và hiện tượng tự nhiên mà

số lượng và chất lượng của chúng trên thực tế không thay đổi hoặc thay đổi
không đáng kể trong quá trình sử dụng tài nguyên lâu dài như : năng lượng
mặt trời, năng lượng gió, thuỷ triều, nhiệt lịng đất, tổng trữ lượng nước trên
Trái đất.
Tài ngun có thể bị hao kiệt : Là những vật thể và những hiện tượng tự
nhiên mà số lượng vật chất của chúng thay đổi một cách căn bản trong quá
trình sử dụng tài nguyên lâu dài.


21
TN nước
Phân
loại
theo
thuộc
tính
tự
nhiên

TN Khống sản
TN Sinh vật
TN Khí hậu
TN Đất

TÀI
NGUN
THIÊN
NHIÊN

Cách 2


Phân
loại
theo
mục
đích
sử
dụng

Nhóm TN Nơng nghiệp

Nhóm TN Cơng nghiệp

Nhóm TN Du lịch

Phân
loại
theo
tính

thể bị
hao
kiệt

TN

thể
bị
hao
kiệt


TN
khơng
bị hao
kiệt

TN
khơng
khơi
phục
được
TN
khơi
phục
được

Quặng
mỏ

Động
vật,
thực vật,
thổ
nhưỡng,
nước
NL mặt
trời, NL
thuỷ
triều,
nhiệt

năng
trong
lịng đất


22

Cách 1

Cách 3

Hình1.2. Sơ đồ phân loại tài nguyên thiên nhiên


23
Tài nguyên không khôi phục được : Là những TNTN có thể bị hao kiệt mà
việc sử dụng lâu dài các tài nguyên này sẽ làm cạn kiệt các dự trữ của chúng.
Loại tài nguyên này bao gồm các loại tài ngun khống hoặc tài ngun thực
vật trong q trình đốt sẽ bị biến đổi thành những dạng tồn tại khác.
Tài ngun khơi phục được : Là tài ngun có thể bị hao kiệt mà số lượng
và chất lượng của chúng có thể được tái sản xuất bởi các quá trình tự nhiên
khi sử dụng chúng một cách hợp lý. Thuộc loại tài nguyên này là giới thực
vật, động vật và đất.
Đất là một vật thể tự nhiên không mất đi, sự tiêu hao độ phì đất sẽ được bồi
hồn lại bằng sự phân giải hữu cơ của thực vật và động vật nhờ vi sinh vật và
bằng sự bổ sung cho đất các chất hoà tan dễ tiêu từ nước ngầm hoặc các dòng
chảy trên bề mặt. Nhưng điều đó chỉ xảy ra khi có kỹ thuật canh tác nơng lâm nghiệp hợp lý. Vì vậy để bảo vệ tài nguyên đất thì cần thiết phải nâng cao
độ phì cho đất, phải phịng chống xói mịn, rửa trơi, phải bón phân. Đối với tài
nguyên động vật và thực vật thì cần thiết phải xác lập những tiêu chuẩn tối ưu
những nhu cầu của nó và quản lý hợp lý [27].

Hiện nay việc tái sinh phục hồi nguồn tài nguyên thiên nhiên đã trở thành
một nhiệm vụ quan trọng nhằm tái sản xuất mở rộng TNTN.
1.1.2.3 Đa dạng sinh học - nguồn tài nguyên thiên nhiên
Đa dạng sinh học (ĐDSH) là “Sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ mọi
nguồn, trong tất cả các hệ sinh thái trên cạn, ở biển và các hệ sinh thái dưới
nước khác và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên. ĐDSH gồm sự đa dạng
trong loài, sự đa dạng giữa các lồi và đa dạng hệ sinh thái”. Nói một cách
ngắn gọn : ĐDSH là toàn bộ TNTN tạo nên do tất cả các dạng sống trên Trái
đất [127-tr138]. Như vậy, theo định nghĩa, ĐDSH là sự đa dạng giữa các sinh
vật sống và tất cả các nguồn duy trì tồn tại của chúng. ĐDSH gồm ba thành
phần chính: đa dạng về gien, đa dạng về loài, đa dạng hệ sinh thái [51 – tr.
114].


24
ĐDSH là một thuật ngữ nói lên mức độ phong phú của thiên nhiên, là toàn
bộ TNTN tạo nên - đó là cơ sở của sự sống cịn, sự thịnh vượng và sự PTBV
của loài người [28, tr 42].
Năm 1992, Hội nghị về môi trường của Liên hiệp quốc đã quy tụ các
nguyên thủ quốc gia và các chuyên gia môi trường của tất cả các nước trên
thế giới. Hội nghị đã đánh giá tình trạng mơi trường tồn cầu và đề ra các
hành động cho thời gian tới. Hội nghị đã soạn thảo và thông qua các công ước
về vấn đề mơi trường tồn cầu; trong đó Cơng ước ĐDSH đã được đưa ra với
ba mục tiêu chính : (1) Bảo tồn ĐDSH - sự đa dạng của các gen, các loài và
các hệ sinh thái; (2) Sử dụng bền vững các thành phần của ĐDSH; (3) Chia sẻ
một cách cơng bằng và thoả đáng các lợi ích của việc sử dụng các tài nguyên
di truyền/ nguồn gen. Để thực hiện các mục tiêu trên, Công ước yêu cầu các
bên ký kết thực hiện công việc sau : thành lập khu bảo tồn thiên nhiên, phục
hồi các hệ sinh thái suy thối, bảo vệ bằng pháp luật các lồi có nguy cơ bị
tiêu diệt, hạn chế và quản lý các hoạt động có nguy hại đến ĐDSH, xây dựng

và thực hiện các chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn và sử
dụng bền vững tài nguyên sinh học…
Các chuyên gia về ĐDSH khuyến cáo rằng chúng ta cần phải bảo vệ ĐDSH
bởi vì : “Bảo vệ ĐDSH đòi hỏi một sự thay đổi từ quan điểm của việc bảo vệ bảo vệ thiên nhiên khỏi các tác động của sự phát triển - tới nỗ lực tìm kiếm từ
tài nguyên sinh học để đáp ứng nhu cầu của con người, trong khi vẫn đảm
bảo được tính bền vững lâu dài của trái đất” [51, tr 115-116].
1.1.2.4 Vai trò của nguồn tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố quyết định của môi trường đối với
hoạt động kinh tế. Nó cấu thành các nguồn lực vật chất nguyên thuỷ cho hoạt
động kinh tế. Dường như, khi lồi người bắt đầu được hình thành thì sự tiến
hố của giới tự nhiên đã chuẩn bị sẵn sàng những nguồn tài nguyên cần thiết
để xã hội loài người sinh thành, phát triển. Loài người bước vào đời sống kinh
tế của mình bằng lao động sản xuất ra của cải vật chất và sự phát triển của
loài người xét cho cùng là ở sự phát triển của sản xuất, ở sự thay đổi phương


25
thức sản xuất. Sự thay đổi phương thức sản xuất cũng chính là sự thay đổi
trong cách thức tác động vào tự nhiên, thay đổi trong phương thức chuyển
biến, chế biến, lợi dụng những nguồn lực tự nhiên [99, tr87]. Như vậy TNTN
chính là đối tượng ban đầu của quá trình sản xuất, hay có thể nói TNTN là cơ
sở tự nhiên của quá trình sản xuất.
TNTN là nguồn của cải vô cùng quý giá và không thể thiếu đối với sự phát
triển của xã hội loài người. Thực chất của quá trình sản xuất xã hội là quá
trình khai thác và sử dụng các loại tài nguyên. Trong thời kỳ xa xưa khi con
người còn tồn tại trong nền kinh tế tự nhiên, người ta chỉ biết sử dụng những
sản phẩm có sẵn trong tự nhiên, đó là các động vật hoang dại trên cạn và dưới
nước để làm thức ăn. Dần dần khi con người biết làm nông nghiệp, thì đất trở
thành một nguồn tài nguyên quan trọng. Sự ra đời của các ngành công nghiệp
dẫn đến việc khai thác và sử dụng mạnh mẽ các tài nguyên khống sản.

Đất là nhân tố mơi trường hết sức quan trọng đối với con người. Mọi hoạt
động sinh sống, cư trú, di chuyển, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, khai
thác tài nguyên đều xảy ra trên mặt đất và ở các lớp đất phần mặt. Tài nguyên
đất là cơ sở vật chất quan trọng; đất vừa là đối tượng vừa là tư liệu sản xuất
chủ yếu. Trong quá trình lịch sử, lồi người đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm trong việc khai thác và sử dụng các loại đất cho sản xuất nơng nghiệp.
Nước là một tài ngun có ý nghĩa quyết định đối với sự sống và sự phát triển
của xã hội loài người. Nước là thành phần cấu thành sinh quyển và tác động
trực tiếp đến các yếu tố của thạch quyển, khí quyển. Nước có vai trị quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp. Nước tham gia vào phản ứng quang hợp
của cây xanh để tạo thành chất hữu cơ, là thành phần của mọi cơ thể sống.
Tài ngun khống sản là cơ sở ngun liệu của cơng nghiệp. Người ta tính
rằng có tới 90% sản phẩm cơng nghiệp nặng được sản xuất từ nguyên liệu
khoáng sản. Do quy luật tự nhiên, sự phân bố khoáng sản trên trái đất rất
khơng đều, vì vậy có những nước giàu khống sản nhưng cũng có những
nước nghèo khống sản. Mặt khác, nhu cầu khoáng sản ở các nước cũng khác
nhau. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, các ngành khai khoáng và luyện


26
kim phát triển rất mạnh; ở những nước kém phát triển do thiếu vốn và kỹ
thuật nên tài nguyên khoáng sản của họ lại do các nước phát triển khai thác và
sử dụng.
Tài nguyên rừng có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người.
Rừng là nguồn cung cấp gỗ, nhiều loại lâm sản và các sản phẩm của gỗ. Số
liệu thống kê từ của nhiều nguồn tài liệu cho thấy bình qn trên thế giới có
45% lượng gỗ khai thác được con người sử dụng làm chất đốt, 35% dùng cho
xây dựng và trang trí, 12% sử dụng làm bột giấy và số còn lại sử dụng cho
nhiều nhu cầu khác của con người. Rừng là môi trường sống của nhiều loài
động vật đồng thời rừng là kho thực phẩm, kho thuốc vô giá cho con người.

Rừng còn là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự cân bằng sinh thái của tự nhiên
như : cân bằng thành phần khí quyển; cân bằng nhiệt ẩm, điều hồ khí hậu;
bảo vệ và điều hồ nguồn nước; bảo vệ đất, chống xói mịn; chắn bụi, cát, giữ
vệ sinh mơi trường. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, sự bùng nổ dân
số cùng với kết quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho nguồn
tài nguyên ngày càng bị giảm sút và môi trường bị tác động hết sức mạnh mẽ.
Ơ nhiễm mơi trường, cạn kiệt tài nguyên không chỉ hạn chế ở từng khu vực,
từng quốc gia mà trở thành vấn đề toàn cầu. Hiện nay có nhiều số liệu đưa ra
để cảnh tỉnh nhân loại rằng : nguồn tài nguyên rừng bị tàn phá mạnh mẽ,
nguồn tài nguyên đất bị suy thoái nặng nề, tài nguyên động vật bị giết hại tàn
bạo, môi trường nước và khơng khí bị ơ nhiễm nặng. Một số số liệu sau đây
về khoáng sản cho thấy nguồn tài nguyên này đã đến mức báo động về sự kiệt
quệ của nó : Nhơm chỉ đủ cho lồi người được 570 năm, sắt được 250 năm,
kẽm 23 năm, chì được 19 năm ?![22].
Cùng với sự phát triển dân số và với những tiến bộ khoa học kỹ thuật thì
nhu cầu của con người về nguồn năng lượng và vật chất ngày càng tăng.
Những nguồn tài nguyên này không phải là vô hạn và những quan niệm ngây
thơ, lạc quan về việc tận dụng sự giàu có của thiên nhiên đã vĩnh viễn đi vào
quá khứ.


27
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, nhu cầu về khai thác và sử dụng tài
nguyên đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Cuộc sống càng tăng lên, sản xuất
càng phát triển trong một thế giới đang chuyển đổi, thì mức tiêu thụ tài
nguyên cho con người và bộ máy sản xuất ngày càng tăng. Do vậy, biện pháp
cần thiết là sử dụng chúng một cách tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả.
1.1.3. Phát triển bền vững
1.1.3.1 Một số quan niệm về phát triển bền vững
Lần đầu tiên, vào 1980, Hiệp hội thế giới bảo tồn thiên nhiên (IUCN) đã

đưa ra "Chiến lược bảo tồn thế giới" (The world conservation strategy), trong
đó nhận định rằng, tình hình sử dụng các tài nguyên tái tạo là không lâu bền
và đã đề xuất "việc sử dụng lâu bền các loài và hệ sinh thái", tức là sử dụng ở
mức thấp hơn khả năng mà các quần thể động, thực vật có thể sinh sản để tự
duy trì. Ý tưởng này đã được Meadows D.H nêu lên từ năm 1972 : "Có thể
làm thay đổi xu thế tăng trưởng và thiết lập điều kiện của sự ổn định về sinh
thái và kinh tế lâu bền trong tương lai" (trong cuốn sách The Limits to
Growth) [1; tr 2].
Tất cả những khái niệm và ý tưởng đó đã được phát triển đi đến định nghĩa
của Uỷ ban liên hợp quốc về môi trường và phát triển : "Phát triển bền vững
là những thế hệ hiện tại cần đáp ứng nhu cầu của mình, sao cho không
phương hại đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu của họ"
[129; tr 82].
Khái niệm và định nghĩa đó được sự thừa nhận rộng rãi, và chính thức hố
tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới năm 1992 ở Rio de Jainero, và cũng được
hiểu một cách rộng rãi hơn với sự kết hợp các lĩnh vực kinh tế xã hội, sinh
thái- môi trường và văn hố [51; tr 23].
Cho đến nay, đã có nhiều tác giả đưa ra những quan điểm khác nhau về vấn
đề PTBV. Song đại đa số đều tán thành cho rằng khái niệm PTBV được coi
như một triết lý. Khái niệm này, xuất hiện trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm phát
triển của các quốc gia trên trái đất từ trước đến nay, phản ánh xu thế của thời
đại và định hướng tương lai của loài người.


28
Đứng ở khía cạnh phát triển và mối quan hệ giữa con người, xã hội và giới
tự nhiên, PTBV được định nghĩa : “PTBV là quá trình tái sản xuất mở rộng
không ngừng nền kinh tế, xã hội trên cơ sở một phương thức sản xuất hiện
đại trong khi đáp ứng yêu cầu tăng trưởng, phát triển KT -XH hiện đại, đồng
thời bảo vệ được mơi trường nhằm duy trì mối quan hệ cân bằng, hài hoà

giữa con người và giới tự nhiên, duy trì nền tảng của sự phát triển lâu dài”
[19]. Định nghĩa này có hai khía cạnh chủ yếu : một là, tái sản xuất mở rộng
không ngừng nền kinh tế là một tất yếu của thời đại. Hai là, đặt sự phát triển
đó trong khn khổ của sức chịu đựng, hay giới hạn của giới tự nhiên bao
quanh sự phát triển, làm nền tảng cho sự phát triển.
Sử dụng nguồn TNTN hợp lý, bảo vệ môi trường nhằm duy trì mối quan
hệ cân bằng hài hồ giữa con người, xã hội và giới tự nhiên chính là bảo tồn
nền tảng vĩnh cửu của sự tồn tại và phát triển của loài người. Khi sức sản xuất
của nhân loại ở giới hạn mấp mé với khả năng chịu đựng của Trái đất, thì việc
bảo vệ mơi trường trở thành một nội dung cần thiết và hệ trọng đối với toàn
bộ sự hiện đại và phát triển của nhân loại. Hai mục tiêu tái sản xuất mở rộng
nền kinh tế, tăng trưởng không ngừng nền kinh tế và bảo vệ tài ngun - mơi
trường chính là hai yếu tố của sự PTBV.
Từ những trình bày ở trên cho thấy, bản chất của vấn đề PTBV là sự phát
triển hôm nay phải tạo tiền đề cho phát triển ngày mai tốt hơn. Sự phát triển
này là nhân và quả của bộ ba khái niệm : tự nhiên- KT - XH và được coi là
tiêu chí để đánh giá các giải pháp PTBV.
1.1.3.2 Chiến lược phát triển bền vững (Chương trình nghị sự 21)
Sau hàng loạt các hội nghị quốc tế (Stockholm - 1972, Belgrade - 1975,
Tbilisi - 1977 và Matxcơva - 1987), sự đồng thuận đầy đủ và cao nhất của
cộng đồng quốc tế về môi trường và phát triển đã có được ở hai hội nghị của
liên Hợp Quốc : Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất- 1992 (Hội nghị Rio) và hội
nghị Thượng Đỉnh Thế giới - 2002 (Hội nghị Rio + 10 hay hội nghị
Johanesburrg). Tại Rio, các nước tham gia Hội nghị đã thông qua 27 nguyên
tắc cơ bản và Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp PTBV


29
chung cho toàn thế giới trong thế kỷ XXI. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới
(tại Johanesburg - Nam Phi), 166 nước đã thông qua tuyên bố Johanesburg và

Bản Kế hoạch thực hiện Phát triển bền vững. Hội nghị đã khẳng định lại các
nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện đầy đủ Chương
trình nghị sự 21 về PTBV. Tại hội nghị Johanesburg - 2002, các mục tiêu
thiên niên kỷ ; PTBV cũng được nhất trí với 8 mục tiêu sẽ được thực hiện
trước năm 2015 là :
- Xố tình trạng nghèo đói cùng cực.
- Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học.
- Khuyến khích bình đẳng về giới và nâng cao địa vị của phụ nữ.
- Giảm tỷ lệ tử vong trẻ em.
- Nâng cao sức khoẻ sinh sản.
- Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác.
- Bảo đảm bền vững về mơi trường.
- Phát triển quan hệ đối tác tồn cầu phục vụ hoạt động phát triển.
Sau hai hội nghị Thượng đỉnh nói trên, các tổ chức quốc tế đã tập trung các
chiến lược và kế hoạch hành động của mình vào thực hiện các mục tiêu của
thiên niên kỷ về PTBV. PTBV là sự phát triển trong mối quan hệ với việc tạo
lập, duy trì mối quan hệ cân bằng, hài hồ với mơi trường, tức là duy trì nền
tảng cho sự phát triển khơng ngừng của xã hội lồi người, tránh cho xã hội
không lâm vào trạng thái xung đột với môi trường. Sự PTBV sẽ được thiết lập
trên cơ sở một phương thức sản xuất hiện đại và một nền văn hố mơi trường
hiện đại [99 tr 76].
Ngồi ba mặt chủ yếu này, có nhiều người cịn đề cập tới những khía cạnh
khác của PTBV như : chính trị, văn hố, tinh thần, dân tộc... và địi hỏi phải
tính tốn và cân đối chúng trong khi hoạch định chiến lược và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương cụ thể [128- tr6].
1.1.3.3 Các góc độ nhìn nhận sự phát triển bền vững
a) Kinh tế tài nguyên và môi trường


30

Năm 1993, cuộc Hội thảo về vấn đề "Phát triển và môi trường" do
Trung tâm nghiên cứu môi trường của Viện nghiên cứu chiến lược quốc
tế phối hợp với Hiệp hội kinh tế Malaysia và quỹ Konrad Adenauer, được
tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà khoa học liên quan đến vấn đề môi
trường và các nhà kinh tế. Những vấn đề cơ bản được thảo luận tại hội
thảo, đó là nhằm đi đến thống nhất một quan niệm chung về " phát triển
và mơi trường ". Trong đó đặc biệt chú ý ở các khía cạnh : kinh tế, tài
nguyên thiên nhiên và môi trường.
Trong báo cáo của Martin Knor, đã cho rằng để hiểu tác động của kinh tế
lên môi trường, cần phải xem xét một cách chặt chẽ hiệu quả của một số nhân
tố kinh tế, chẳng hạn như chính sách kinh tế vĩ mơ, mơ hình đầu tư, những
cách thức sản xuất và cơng nghệ được sử dụng, thương mại và tài chính) và
những khu vực kinh tế đa dạng (nông nghiệp xây dựng, du lịch, chế tạo...).
Ơng nhận định rằng dĩ nhiên khơng phải mọi ngành kinh tế, mọi thứ thương
mại đều có hại đến môi trường. Nhưng các ngành kinh tế và thương mại là
công cụ quan trọng để chuyển tải những công nghệ và sản phẩm không lành
mạnh về mặt môi trường cũng như tiếp tục tạo ra nhu cầu khai thác nhanh
chóng những nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hơn nữa với đà phát triển công
nghiệp và kinh tế tương đối nhanh và cịn muốn nhanh hơn nữa, thì liệu
nguồn tài ngun thiên nhiên đã nắm được, cịn có thể đảm bảo trong bao lâu?
[32; tr 1-9]. Điều này cho thấy, đối với mỗi một quốc gia nói riêng và cả thế
giới nói chung, muốn phát triển lành mạnh và bền vững địi hỏi sử dụng các
nguồn tài ngun phải có hiệu quả hơn đồng thời ý thức trách nhiệm thực sự
trước tác động kinh tế và môi trường của việc sử dụng đó.
Trong tác phẩm "Một số vấn đề cơ bản về kinh tế và quản lý môi trường"
GS Đặng Như Toàn đã đưa ra khái niệm "Kinh tế tài nguyên và môi trường "
nghiên cứu các vấn đề môi trường với những viễn cảnh và những ý tưởng
phân tích kinh tế từ hai phía kinh tế vĩ mơ và kinh tế vi mơ; trong đó tập trung
chủ yếu vào vấn đề người ra quyết định nhằm đưa các tác động mơi trường
vào thế cân bằng hơn, ổn định hơn, nói cách khác là bền vững hơn với những



31
mong muốn và nhu cầu của chúng ta và của bản thân hệ sinh thái. Vấn đề là
tạo ra các "Khuyến khích" các cơ chế và địn bẩy tác động đồng bộ vào môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Kinh tế vĩ mô cũng liên quan chặt chẽ
tới mơi trường đặc biệt cơng cụ phân tích chi phí - hiệu quả, lợi ích - chi phí
nhằm tạo ra sự cân bằng tăng trưởng kinh tế làm môi trường tốt lên hay xấu
đi, nhưng mục đích làm tốt hơn mới là mục tiêu quan trọng, và nếu xấu đi thì
phải dự báo phịng ngừa.
Từ những nhận định và quan niệm nói trên suy ra PTBV phụ thuộc chủ yếu
là các hoạt động kinh tế. Trong hoạt động kinh tế thì tài ngun có tầm quan
trọng hàng đầu vì ngay trong xã hội thông tin, tài nguyên tái tạo, không tái tạo
được vẫn là tiền đề vật chất quan trọng nhất nhằm tạo ra các hàng hoá và dịch
vụ cần thiết cho sự sống con người và xã hội. Gần đây người ta cịn nhìn thấy
tầm quan trọng của tính ĐDSH cũng là một dạng tài nguyên mà các hoạt động
kinh tế vĩ mơ và kinh tế vi mơ có tác động trực tiếp. Sự cân bằng của hệ thống
tự nhiên - xã hội - kinh tế thể hiện chủ yếu trong một hệ thống có cấu trúc
tương ứng, trước hết là cơ cấu kinh tế. Các yếu tố tài nguyên, nguồn lao động
và cơ sở hạ tầng vận động trong một hệ thống vừa lấy từ môi trường đầu vào,
và thải ra - đầu ra như là quá trình đồng hoá và dị hoá trong cơ thể sống. Cơ
chế này sẽ vận động bền vững nếu các quá trình cân bằng và vận động thuận,
và sẽ bị phá vỡ nếu mất cân đối và vận động ngược, trong trường hợp cân
bằng của tự nhiên và môi trường bị phá vỡ thì có thể chính những vấn đề mơi
trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những mục tiêu của sự phát triển. Nếu lợi
nhuận từ việc tăng thu nhập lại bị giảm sút do những phí tổn cho sức khoẻ và
cho chất lượng đời sống để chống lại ô nhiễm mơi trường hoặc giảm sút năng
suất lao động, thì tình trạng đó cũng khơng thể coi như một mơ hình phát triển
tốt đẹp.
Chính từ những lý do nói trên mà PTBV đòi hỏi phải nghiên cứu và đưa ra

cơ cấu kinh tế hợp lý cả về cơ cấu kinh tế kỹ thuật (ngành) và cơ cấu không
gian (lãnh thổ). Đồng thời mọi quốc gia đều phải tìm cách đưa vấn đề mơi
trường và phát triển lên cấp độ chính sách, kế hoạch và quản lý.


32
Điều mà chúng ta phải đối mặt là sự khó khăn và kém phát triển của môi
trường đầu vào : khó khăn của tự nhiên xã hội và kinh tế, thì cơ cấu đó phải
được tính tốn như thế nào để thích ứng tích cực, vừa nhằm mục đích tăng
trưởng kinh tế, vừa không xâm hại đến môi trường.
b) Kinh tế vùng chậm phát triển
Khái niệm vùng "chậm phát triển" đã sớm được các nhà khoa học, trong đó
có nhiều nhà địa lý của các nước trên thế giới quan tâm. Ngay từ năm 1965,
nhà đại lý Pháp Yves Lacoste đã đưa ra 14 đặc điểm của các nước kém phát
triển như : ăn uống thiếu chất, dân số tăng nhanh, tài nguyên bị bỏ qua hoặc
lãng phí hơn, tỉ lệ nông dân cao mà năng suất lao động lại thấp, tầng trung lưu
yếu, cơng nghiệp hố bị hạn chế và khơng hồn chỉnh, thu nhập quốc dân đầu
người thấp, mức độ thất nghiệp và tỷ lệ lao động không hết thời gian đều cao
nhưng người lớn trẻ em đều phải lao động, tình hình phụ thuộc kinh tế và bất
bình đẳng xã hội rất nghiêm trọng [150; tr7-12].
Đến giữa những năm 1970, nhà địa lý Mỹ Peter Haggett cũng đưa ra 12
chỉ tiêu tổng hợp theo 4 yếu tố trọng yếu : Dân cư, tài nguyên, sự hình
thành vốn, sự ứng dụng tiến bộ công nghệ. Là nước kém phát triển nếu các
chỉ tiêu thuộc 4 yếu tố đó theo hướng mũi tên ly tâm tức là không thuận.
Ngược lại, là nước phát triển nếu các chỉ tiêu theo 4 yếu tố theo hướng quy
thuận (hướng tâm) [149; tr 9].

Như vậy, chậm phát triển đồng nghĩa với khó khăn do vị trí địa lý bất
thuận, tài nguyên nghèo, lao động thiếu hoặc kém kỹ thuật, trình độ và tiềm
lực yếu ớt.

Phát triển và chậm phát triển là hai mặt của vấn đề đặc trưng của sự phân
hoá, vùng thuận lợi như đồng bằng ven biển, gần các đường giao thơng, cịn
vùng bất lợi là vùng khó khăn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Ở những vùng
chậm phát triển có khi giàu tài nguyên mà lại kém phát triển kinh tế, thu nhập


Phụ thuộc
vào rừng
rừn

Cường độ
khai thác
rừng ở mức
thấp

g lớn

Mức sống
Thấp

33
Cường độ
Khai thác
Rừng ở mức
độ cao

Phụ thuộc
vào
rừng lớn


Mức sống
cao

dân cư thấp. Do vậy xuất hiện hai khả năng : dòng chảy tài nguyên từ vùng
chậm phát triển sang vùng phát triển, hoặc vùng chậm phát triển có thể bị
đóng kín và lãng quên.
Thực tế tại nhiều địa bàn cư trú của các dân tộc cho thấy các dân tộc thiểu
số luôn trong vòng luẩn quẩn của mối quan hệ nhân quả đối tiếp giữa việc
khai thác rừng và mức sống của cộng đồng, ngày càng phụ thuộc vào TNTN,
trước hết là tài nguyên đất và rừng. Sự phụ thuộc này, một mặt thể hiện sự tác
động mạnh của các dân tộc thiểu số đến TNTN và mơi trường; mặt khác,
chính họ lại phải hứng chịu sự “trả thù” thực tiếp của thiên nhiên.
Mối quan hệ này được thấy rõ qua thực tế của hai dân tộc Mông và Dao,
đây là hai dân tộc sống ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu nhất trên địa bàn của
các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam. Mức độ phụ thuộc vào rừng của hai dân
tộc này là rất lớn và rừng chính là nguồn tài nguyên quan trọng đối với đời
sống, kinh tế - xã hội của hai dân tộc vùng rẻo cao này.
(1). Trong trường hợp rừng ở khu vực đó cịn ít, hoặc có rừng nhưng
khơng được khai thác
(2). Trong trường hợp rừng còn nhiều và giá trị đem lại từ rừng là rất lớn.

Trên thực tế, sự chậm phát triển, sự nghèo đói và trì trệ về kinh tế được coi
như kẻ thù của môi trường và cuộc sống lành mạnh. Các vùng nghèo, chậm
phát triển thường là xa xôi, hẻo lánh, gặp nhiều khó khăn trở ngại trong q
trình phát triển. Theo A. T. Rambo (1997), các nguyên nhân gây trở ngại cho
(1)
phát triển kinh tế xã hội của khu vực miền núi, vùng cao chậm phát triển được
(2)
chia thành 7 nhóm : (1) các trở ngại về mặt tự nhiên, (2) các khó khăn về mơi



34
trường, (3) các trở ngại về cơ sở hạ tầng, (4) các khó khăn về kinh tế, (5) áp
lực dân số, (6) trở ngại về văn hoá, (7) các trở ngại về trí tuệ [26].
Do vậy, mục đích PTBV của xã hội là khắc phục những khó khăn, trở ngại
trước mắt, giảm bớt sự chệnh lệch về trình độ phát triển và mức sống dân cư,
dần dần xố bỏ tình trạng thiếu ăn, thất học, bệnh tật, nhà ở tạm bợ, cơ sở hạ
tầng lạc hậu và thiếu thốn ở những vùng chậm phát triển, từ đó giải quyết triệt
để các vấn đề mơi trường.
Nói tóm lại, khắc phục tình trạng chậm phát triển là một thách thức lớn đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của nhiều khu vực, nhiều quốc gia.
Giải quyết được vấn đề này sẽ đảm bảo được mục tiêu chung là PTBV.
1.1.4 Mối quan hệ giữa cộng đồng các dân tộc với nguồn tài nguyên
thiên nhiên
1.1.4.1 Quan hệ cộng đồng các dân tộc với việc sử dụng tài nguyên thiên
nhiên
Các điều kiện tự nhiên, TNTN và trạng thái môi trường là cơ sở vật
chất khách quan tác động tới các dân tộc sinh tụ và phát triển trong mơi
trường tự nhiên đó. Mỗi dân tộc, tùy theo trình độ phát triển, tập quán sản
xuất và văn hoá mà tác động khác nhau tới môi trường và cũng sử dụng
tài nguyên theo cách riêng của mình. Một dân tộc phát triển thường sử
dụng tài nguyên theo chiều sâu, biết khai thác tiết kiệm và có ý thức PTBV.
Nhưng với một dân tộc chậm phát triển thì thường khai thác tài nguyên theo
chiều rộng, theo lối quảng canh, du canh du cư. Thực ra, những dân tộc thiểu
số chậm phát triển không phải là họ có ý thức PTBV thấp kém, mà do cuộc
sống của những dân tộc này q khó khăn, lại có ít nguồn trợ cấp. Chính vì
thế mà cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào tự nhiên. Vai trò của pháp
luật trong việc sử dụng và bảo vệ TNTN đối với cộng đồng các dân tộc có
hiệu lực hay khơng là tuỳ thuộc vào sự tự giác chấp hành của các dân tộc và
trình độ tiếp thu pháp luật, và điều rất quan trọng là điều kiện sống của các

dân tộc này.


35
Vấn đề nói trên trở nên đặc biệt phức tạp và tế nhị đối với các địa bàn lãnh
thổ có nhiều dân tộc cư trú xen kẽ. Chẳng hạn, trong một đơn vị hành chính
cơ sở như huyện, xã đơi khi là cả xóm bản, các dân tộc sinh sống bằng cùng
một cách thức tác động vào tài nguyên và môi trường như nghề trồng lúa,
trồng rừng, phát triển chăn ni, thì các dân tộc này dễ dàng hồ nhập thành
một cộng đồng thống nhất. Nhưng, một khi các dân tộc cư trú tương đối biệt
lập, theo chiều cao hoặc theo đầu nguồn, giữa hoặc cuối dịng nước thì vấn đề
lại khác. Họ phải dựa vào nhau trên nguyên tắc sinh thái và môi trường. Dân
tộc này khai thác tài nguyên cho cuộc sống của mình, lại phải chú ý xem tài
ngun đó bị khai thác tới mức nào thì không ảnh hưởng xấu tới các cộng
đồng dân tộc khác và ngược lại cộng đồng sống trong điều kiện thuận lợi thì
phải có trách nhiệm với cộng đồng đó có điều kiện sống kém thuận lợi hơn.
Những vấn đề nêu trên chỉ là nguyên tắc chung để xem xét mối quan hệ
cộng đồng dân tộc và việc sử dụng TNTN. Trên thực tế, khi đặt vấn đề đó
trong bối cảnh tự nhiên và xã hội nhất định thì cách giải quyết lại tuỳ thuộc
vào hoàn cảnh địa lý và lịch sử cụ thể. Nếu trước đây, nguy cơ chất lượng mơi
trường bị suy giảm chưa rõ rệt, thì cộng đồng các dân tộc được ứng xử với tự
nhiên theo truyền thống và tập quán cũng như nhu cầu của mình. Ngày nay sự
cấp bách phải bảo vệ mơi trường vì sự PTBV, thì cộng đồng các dân tộc
khơng thể biệt lập như trước, trái lại phải hành động trong một khổ nhất định,
trước hết là do pháp luật quy định, đồng thời phải vì sự tồn tại và phát triển
của mỗi dân tộc trong cộng đồng đó mà ứng xử hợp lý.
Thời đại đất nước đi vào cơng nghiệp hố - hiện đại hố chúng ta có điều
kiện để hỗ trợ cho cộng đồng các dân tộc giải quyết tốt mối quan hệ của họ
đối với việc sử dụng TNTN. Trước hết, đó là việc sử dụng tài nguyên có hiệu
quả hơn trong việc nâng cao chất lượng sống của cộng đồng, đồng thời sử

dụng mà không làm cạn kiệt, vì tài ngun được sử dụng tiết kiệm và được
khơi phục thì mơi trường mới PTBV. Do vậy, các quan hệ giữa cộng đồng các
dân tộc phải được tính tới trong các chính sách kinh tế, các dự án, các chương


36
trình phát triển, đặc biệt là chính sách và dự án liên quan trực tiếp tới tài
nguyên và môi trường sống của cộng đồng.
1.1.4.2 Kiến thức bản địa của cộng đồng các dân tộc trong mối quan hệ với
việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững
Kiến thức bản địa là vốn quý của mỗi dân tộc, vốn quý đó chứa đựng
những bài học về cách ứng xử cần thiết của con người với môi trường xung
quanh để tồn tại và phát triển. Đó cũng là những quy tắc ứng xử của cá nhân,
của cộng đồng và của các cộng đồng với nhau. Những kiến thức, luật tục của
từng dân tộc, từng địa phương là một trong những nền tảng của việc đưa ra
những giải pháp sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường.
KTBĐ về sử dụng các tài nguyên động vật, thực vật và hoàn cảnh sinh
sống, về lịch sử biến đổi trong cuộc sống và khả năng cung cấp các loại tài
nguyên được truyền qua nhiều thế hệ, mặc dù không nhất thiết là thành văn
bản như kiến thức khoa học. Các kiến thức quản lý này sẽ góp phần tạo ra
những động lực quan trọng cho việc bảo tồn ĐDSH.
Trên thế giới, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về những KTBĐ trong
quản lý, sử dụng tài nguyên và đã khẳng định việc PTBVnguồn tài nguyên
phải dựa vào tri thức địa phương. Kết quả nghiên cứu của Ruguelito
M.Pastores và Romeo E. SanBuenaventura đã chỉ ra rằng những người dân
bản xứ đóng góp rất lớn và giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong việc tìm hiểu
và lựa chọn những lồi cây có đặc tính sinh thái và sinh học phù hợp với địa
phương. Cơng trình nghiên cứu của Paul Henbinck về “Mạng lưới kiến thức
chính thống và khơng chính thống trong bảo tồn lâm nghiệp ở Zimbabuê”
cũng đã cho thấy để quản lý và bảo tồn rừng bền vững phải dựa vào tri thức

địa phương [55].
Trong bài viết “Sử dụng KTBĐ trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên
thiên nhiên vùng cao” (Báo cáo trình bày tại hội thảo, Hà Nội năm 2000) GS
Lê Trọng Cúc cho rằng : KTBĐ có vai trị rất quan trọng trong việc xác định
các vấn đề, các hạn chế ảnh hưởng đến việc quản lý hệ sinh thái. Nó cũng có
giá trị như một nguồn thơng tin có xu hướng lâu dài và những sự cố bất


37
thường mà có thể chúng khơng xảy ra trong khoảng thời gian các nhà khoa
học đang tiến hành nghiên cứu ở địa phương đó. KTBĐ là nguồn tài nguyên
quốc gia quan trọng có thể giúp ích rất nhiều cho q trình phát triển theo
những phương sách ít tốn kém, có sự tham gia của người dân và đạt được sự
bền vững. Các dự án phát triển dựa trên cơ sở kiến thức địa phương sẽ lôi kéo
được nhiều người dân tham gia, vì dân biết phải làm gì và làm như thế nào, đó
chính là cơ sở của sự thành công.
KTBĐ là cơ sở của sự hiểu biết về các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,
quản lý tài nguyên và là chủ thể của các hoạt động vùng cao nói riêng. Loại
kiến thức này có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với các nhà khoa học, các
nhà lập kế hoạch. Nó có thể được xem xét và so sánh với hệ thống kiến thức
quốc tế, từ đó xác định được những khía cạnh bổ ích của hệ thống, cũng như
khía cạnh có thể cải tiến thơng qua các kỹ thuật, công nghệ dựa trên cơ sở
khoa học hiện đại.
Ngày nay trong thời đại của khoa học kỹ thuật hiện đại, KTBĐ vẫn đang
được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu rất nhiều. Chúng ta có thể tìm
thấy ở KTBĐ một nguồn trí tuệ to lớn và cũng chính nhờ kho kiến thức này
mà nhiều giải pháp cơng nghệ mới ra đời. Điều này có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng đối với nước ta, một đất nước đang trong q trình phát triển và từng
bước tiến hành cơng nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VÀ VIỆC

SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Ở VIỆT NAM

1.2.1 Một số vấn đề chung về cộng đồng các dân tộc Việt Nam
1.2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển cộng đồng các dân tộc Việt
Nam
Kết quả nghiên cứu của các nhà dân tộc học, khảo cổ học cho thấy : về lịch
sử hình thành của các dân tộc Việt Nam có 2 nguồn gốc : đó là nguồn gốc bản
địa và nguồn gốc di cư. Dân tộc bản địa là những cư dân đã ở Việt Nam, hay
ở một địa phương nào đó, trước các cư dân thuộc ngơn ngữ khác. Trong đó
tiêu biểu là các dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Việt - Mường và Môn - Khơ


38
Me. Các cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Đình Khoa đã chứng minh có sức
thuyết phục về loại hình nhân chủng nhóm Việt - Mường và nhóm Mơn - Khơ
Me được hình thành tại chỗ. Hơn nữa, nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu về
vấn đề này đã thống nhất một điểm lại là ngơn ngữ Việt - Mường có những
mối quan hệ cổ xưa với các ngôn ngữ Đông - Nam Á và Nam Đảo [148; tr
94-135].
Theo các tài liệu khảo cổ, sử học, dân tộc học, văn hoá dân gian thì vùng
Đơng Bắc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngay từ đầu thời kỳ đồ đá đã có con
người cư trú. Người Lạc Việt - tổ tiên của nhóm cư dân Việt - Mường đầu thế
kỷ III trước CN đã cùng người Âu Việt - tổ tiên của nhóm cư dân Tày - Nùng
hợp nhau lại lập ra nước Âu Lạc với thành phần cơ bản là cư dân Việt Mường. Cho đến nay, trong số các dân tộc có nguồn gốc hiện đại, dân tộc
Việt (Kinh) có số lượng đơng nhất. Trong tiến trình phát triển lịch sử của Việt
Nam luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và
bảo vệ tổ quốc [151; tr 49-54].
Các dân tộc có nguồn gốc di cư là những dân tộc từ nơi khác đến (Trung
Quốc, Lào, Thái Lan ...) với những nguyên nhân do chiến tranh, loạn lạc,
kiếm sống... Đó là các cư dân thuộc nhóm ngơn ngữ Mơng - Dao, Tạng Miến, Hán... Họ đến Việt Nam vào những khoảng thời gian khác nhau, từ

nhiều địa phương, nhiều nước khác nhau nên có những dân tộc được chia
thành rất nhiều nhóm địa phương. Tuy nhiên họ cũng đã nhanh chóng hồ
nhập vào cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam do Tổng cục Thống kê
công bố ngày 2/3/1979 đã xác định 54 dân tộc đang sinh sống trên lãnh thổ
nước ta. Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Kinh (Việt) chiếm đa
số (85,65% dân số cả nước - 1999). Các thành phần còn lại sinh sống rải rác
suốt từ Bắc vào Nam, nhưng chỉ chiếm khoảng 14,35% dân số toàn quốc
[109; tr 59,60].
Nếu nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc ở Việt Nam khơng phải
là một cộng đồng chính trị - xã hội riêng rẽ cô lập nhau, mà là một bộ phận


×