Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

SÁCH LINH KHU - THIÊN 20 : NGŨ TÀ pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.71 KB, 8 trang )

SÁCH LINH KHU
THIÊN 20 : NGŨ TÀ

Tà khí ở tại Phế sẽ làm cho bệnh bì phu bị đau, hàn nhiệt, khí lên trên
làm cho suyễn, mồ hôi ra, ho động đến vùng vai và lưng[1]. Thủ huyệt du
nằm ở phía ngoài của vùng giữa ngực và huyệt nằm ở cạnh của ngũ tạng du
ở tiết xương thứ 3, dùng tay đè lên chỗ nào thấy dễ chịu (đó là chân huyệt),
nên châm chỗ đó, thủ huyệt giữa Khuyết bồn để xua đuổi (Phế tà)[2].
Tà khí ở tại Can sẽ làm cho trong khoảng hông sườn bị đau, bị hàn ở
trong giữa thân, ác huyết ở trong, khi đi đứng thường hay bị co rút, thường
là sưng thũng ở chân[3]. Nên thủ huyệt Hành Gian nhằm dẫn thống khí dưới
hông sườn, bổ huyệt Tam lý nhằm làm ôn (ấm) trong Vị, thủ ác huyết ở
huyết mạch nhằm làm tán ác huyết, thủ những nơi có mạch mầu xanh nằm
trong vùng tai nhằm xua đuổi chứng co rút[4].
Tà khí ở Tỳ Vị sẽ làm cho bệnh cơ nhục thống, khi Dương khí hữu
dư, Âm khí bất túc thì sẽ thành chứng nhiệt trung, dễ đói; khi Dương khí bất
túc, Âm khí hữu dư thì sẽ thành chứng hàn trung, ruột kêu (sôi) bụng đau, đó
là Âm Dương đều hữu dư, nếu âm dương đều bất túc thì hữu hàn, hữu nhiệt;
tất cả đều điều hòa bằng huyệt Tam Lý [5].
Tà khí ở tại Thận sẽ làm cho bệnh cốt thống, Âm tý - bệnh Âm tý là
chứng mà ta dùng tay đè lên không biết được, bụng trướng, thắt lưng đau,
đại tiện khó khăn, đau từ vai, lưng, cổ và gáy, thường hay bị choáng váng,
nên thủ huyệt Dũng Tuyền và Côn Lôn, khi thấy có huyết ứ nên châm xuất
huyết cho hết[6].
Tà khí ở tại Tâm sẽ làm cho bệnh Tâm thống, thường hay lo buồn,
choáng váng té xuống, nên xem hữu dư hoặc bất túc để điều hòa các du
huyệt[7].








THIÊN 21: HÀN NHIỆT BỆNH

Da bị hàn nhiệt không thể nằm xuống chiếu được, lông tóc khô, mũi
khô hết nhờn, không ra mồ hôi, thủ huyệt lạc của kinh Tam dương (túc Thái
dương) nhằm bổ thủ Thái âm[1].
Cơ (nhục) bị hàn nhiệt làm cho phần cơ bị đau, lông tóc bị khô, môi
cũng khô mất trơn nhuận, không có mồ hôi, nên thủ huyệt lạc của Tam
dương (Thái dương) nhằm đuổi huyết lạc, châm bổ kinh túc Thái âm nhằm
làm cho ra mồ hôi[2].
Cốt bị hàn nhiệt, làm cho người bệnh không lúc nào yên, mồ hôi chảy
rót ra không thôi[3]. Nếu răng chưa bị khô thì nên thủ huyệt lạc nơi phía
trong đùi kinh Thiếu âm[4]. Nếu răng đã khô thì chết, bất trị[5]. Chứng cốt
quyết cũng thế [6].
Bệnh Cốt tý làm cho toàn thể khớp xương bị bất dụng mà đau nhức,
mồ hôi chảy rót ra, Tâm bị phiền, nên thủ huyệt ở kinh Tam dương để bổ[7].
Thân mình nếu có chỗ bị thương, máu ra nhiều, đến nỗi trúng phải
Phong Hàn khí, nếu như có khi bị té xuống đất, tứ chi bị buông lỏng không
co lại được, gọi là chứng Thể nọa, nên thủ huyệt nơi Tam kết giao dưới rún -
Tam kết giao thuộc kinh Dương minh và Thái âm, huyệt nằm dưới rốn 3
thốn, tức là huyệt Quan Nguyên[8].
Chứng Quyết tý là chứng mà khí quyết nghịch (của tam dương) lên
trên cho đến bụng (mà thôi), nên thủ huyệt lạc của (túc Thái) âm và (túc
Dương minh), tuy nhiên người thầy thuốc nên xem chủ bệnh thuộc kinh nào
để mà, nếu thuộc kinh dương minh thì tả, nếu kinh thái âm thì bổ[9]. Động
mạch bên cạnh của cổ là huyệt Nhân Nghênh, huyệt Nhân Nghênh thuộc
kinh Túc Dương minh[10]. Huyệt nằm trước gân cổ và sau gân cổ, thuộc
kinh Túc Dương minh, có tên là Phù Đột[11]. Huyệt nằm ở mạch kế bên

ngoài thuộc kinh túc Dương minh, có tên là Thiên Dũ[12]. Huyệt nằm ở
mạch kết bên ngoài nữa thuộc kinh túc Thái dương có tên là Thiên Trụ[13].
Huyệt nằm dưới nách thuộc kinh thủ Thái âm, gọi tên là Thiên Phủ[14].
Dương tà nghịch ở Dương kinh làm cho đầu đau, ngực bị đầy không
thở nổi, thủ huyệt Nhân Nghênh[15].
Bị cảm 1 cách nhanh chóng, mạnh bạo, khí nghịch (làm cho cổ họng
và lưỡi) bị cứng, thủ huyệt Phù Đột và châm xuất huyết cuống lưỡi[16].
Bị điếc 1 cách nhanh chóng, mạnh bạo, khí bị che lấp xuống dưới làm
tai và mắt mất sáng, thủ huyệt Thiên Dũ[17].
Bị co quắp, động kinh 1 cách nhanh chóng và mạnh bạo, choáng váng
làm cho chân không còn tuân theo thân mình nữa, thủ huyệt Thiên Trụ[18].
Bị chứng đản 1 cách nhanh chóng và mạnh bạo, bên trong bị nghịch,
Can và Phế cùng đánh nhau, huyết tràn lên đến mũi và miệng, thủ huyệt
Thiên Phủ [19].
Trên đây là 5 cánh cửa lớn (Thiên) gọi là Thiên Dũ Ngũ Bộ[20].
Kinh thủ Dương minh có đi vào vùng xương má và mũi lan tỏa vùng
răng, gọi đây là Đại Nghênh[21]. Khi răng dưới bị đau nhức thì thủ huyệt
của Tý (Thủ) Dương minh, nếu sợ (uống) lạnh thì châm bổ, nếu không sợ
(uống) lạnh thì châm tả[22].
Kinh túc Thái dương có đi vào vùng xương má và mũi lan tỏa vùng
răng (mạch mà nó hợp để đi vào) đó là huyệt Giác Tôn[23] . Khi răng trên bị
đau nhức nên thủ các huyệt ở vùng trước xương mũi và má, nếu là lúc đang
bệnh thì mạch thịnh, thịnh thì nên châm tả, nếu hư thì châm bổ, còn 1 cách
nữa đó là thủ các huyệt nằm ở ngoài mũi[24].
Kinh túc Dương minh có đường đi áp theo mũi nhập vào mặt, gọi nơi
đó là huyệt Huyền Lô, (đường đi xuống) thuộc vào miệng, (đường đi lên)
đối lại với miệng để nhập vào mục bản, (dù ở miệng hay là ở mắt) nếu thấy
có đi qua (bệnh) thì thủ huyệt châm, châm theo lối tổn hữu dư: tả bớt cái hữu
dư và ích bất túc, bổ thêm cho cái bất túc, nếu châm ngược lại thì bệnh càng
nặng[25].

Kinh túc Thái dương có đường thông với cổ gáy nhập vào não, đây
chính là thuộc vào gốc của mắt, gọi là Nhân hệ[26]. Khi đầu hay mắt bị đau,
thủ huyệt nằm ở giữa 2 đường gân giữa cổ nhập vào não, đây là nơi tương
biệt với mạch Âm kiểu và Dương kiểu, là nơi giao hội giữa các đường kinh
Âm Dương, là nơi mà mạch Dương (Kiểu) nhập vào Âm, và mạch Âm
(Kiểu) xuất ra ở Dương để rồi giao nhau ở khoé mắt ngoài (trong), khi nào
Dương khí thịnh thì mắt mở trừng, khi nào Âm khí thịnh thì mắt nhắm
lại[27].
Chứng Nhiệt quyết nên thủ huyệt ở kinh túc Thái âm và Thiếu dương,
tất cả đều nên lưu kim lâu[28]. Chứng Hàn quyết nên thủ huyệt ở kinh túc
Dương minh và túc Thiếu âm, tất cả đều nên lưu kim lâu[29].
Lưỡi bị chảy nước dãi xuống, lòng phiền muộn, thủ huyệt ở kinh túc
Thiếu âm[30].
Người bị lạnh run, hai hàm đánh nhau, không ra mồ hôi, bụng bị
trướng, lòng phiền muộn, thủ huyệt ở kinh thủ (Thái) âm[31].
Châm bệnh hư, nên châm lúc nó ra đi, châm bệnh thực nên châm lúc
nó đến[32].
Mùa xuân thủ huyệt ở lạc mạch, mùa hạ thủ ở phận nhục và tấu lý,
mùa thu thủ huyệt ở Khí Khẩu, mùa đông thủ huyệt kinh du[33]. Phàm trong
tứ thời, mỗi thời phải lấy thống nhất (tề) làm chính: Lạc mạch trị bì phu,
phận nhục và tấu lý trị cơ nhục, khí khẩu trị cân mạch, kinh du trị cốt
tủy[34].
Ngũ tạng khí biểu lộ ra thân gồm 5 bộ (vị): vùng huyệt Phục Thố là
một, vùng bắp chuối chân là hai, vùng phì tức là bắp chuối chân vậy, vùng
lưng là ba, vùng các du huyệt của ngũ tạng là bốn, vùng cổ gáy là năm[35].
Trong 5 bộ trên đây, bộ nào bị ung thư thì chết[36].
Bệnh bắt đầu ở cánh tay, trước hết nên thủ huyệt ở kinh thủ Dương
minh và thủ Thái âm làm cho mồ hôi ra[37]. Bệnh bắt đầu ở trên đầu nên thủ
huyệt ở cổ gáy thuộc kinh túc Thái dương làm cho mồ hôi ra[38]. Bệnh bắt
đầu ở vùng ống chân (hĩnh), trước hết nên thủ huyệt của kinh túc Dương

minh, làm cho mồ hôi ra[39].
Châm kinh thủ Thái âm có thể làm cho mồ hôi ra, châm kinh túc
Dương minh có thể làm cho mồ hôi ra, cho nên khi châm kinh âm mà mồ
hôi ra quá nhiều có thể châm dứt mồ hôi bằng kinh Dương, châm kinh
Dương mà mồ hôi ra quá nhiều có thể châm kinh Âm để dứt mồ hôi[40]. Cái
hại của việc châm, đó là châm trúng khí mà chưa chịu rút kim ra, như vậy sẽ
làm cho tinh khí bị tiết ra ngoài, hoặc châm chưa trúng khí mà đã rút kim ra
sẽ làm cho khí huyết bị tích trệ[41]. Tinh khí bị tiết thì bệnh sẽ nặng mà suy
tàn, khí huyết tích trệ sẽ gây thành bệnh ung và thư [42].

×