NGUỒN GỐC TRUYỆN CỐ TÍCH VIỆT – NAM
Phần 2
Nói đến cái "chung", chúng ta hãy hướng về một mảng gồm khá nhiều
truyện có những dấu hiệu cho biết chúng có nguồn gốc ngoại lai vì vẫn còn
những dị bản hoặc gần hoặc xa thuộc kho truyện của các dân tộc lớn nhỏ
trên các lục địa và đảo quốc. Trong đó đáng nêu lên đầu tiên - và cũng chỉ
nêu như thế trong tình hình tài liệu hiện nay - là một số những dị bản có liên
quan đến những truyện cổ tích và những huyền thoại Trung-quốc và Ấn-độ,
con đẻ của hai nền văn minh vĩ đại và cổ kính trên thế giới, lại gần gũi về
không gian với Việt-nam.
1. Trước hết, Trung-quốc là một nước tiếp liền biên giới với nước ta,
và như đã nói, là nước đã từng đóng vai "kẻ xâm lược và đô hộ" đất nước
chúng ta trong ngót mười thế kỷ; không những thế, mãi đến thời kỳ độc lập
sau này cha ông ta vẫn tiếp thu văn hóa Trung-hoa, sử dụng văn tự của họ,
nên giữa hai dân tộc dễ có những ảnh hưởng lẫn nhau trong phương thức tư
duy nghệ thuật. Văn học Trung-quốc lại là một trong những nền văn học vừa
phong phú, vừa đa dạng về nội dung cũng như hình thức. Văn học truyền
miệng hay văn học viết đều xuất hiện từ rất lâu đời, và quyện với nhau. Kho
tàng truyện tự sự dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng của họ thật
đồ sộ, được ghi lại cũng khá sớm.
Từ thế kỷ thứ III trong kỷ nguyên chúng ta, thư tịch về truyện của
người Trung-quốc tích lũy được đã nhiều không kể xiết[10]. Chỉ kể những
tên sách chuyên tập hợp loại truyện cổ tích thần kỳ và truyền thuyết, thần
thoại, huyền thoại cũng đủ bề bộn. Nào là Liệt tiên truy ện của Lưu
Hư ớng Cao sĩ truyện của Hoàng Ph ủ Mật , Bác vật chí
của Tr ương Hoa (thế kỷ III), Thần tiên truy ện của Cát
H ồng , Sưu th ần ký của Can Bảo (thế kỷ IV). Nào là Thần
d ị kinh , Sưu thần h ậu ký , Linh ứng lục , U minh lục
, Minh tư ờng ký , Dị uyển (thế kỷ V), Thuật dị ký
(th ế kỷ VI), Chí quái lục , Linh quái lục (thế kỷ VII), Văn
ki ến ký (thế kỷ VIII), Tập dị ký , Lục dị ký , Văn kỳ
l ục , Dậu dương t ạp trở (thế kỷ IX), Thái-bình qu ảng ký
(th ế kỷ X), Văn kiến tiền lục , Văn kiến hậu lục ,
T ục bác vật chí (thế kỷ XIII), Bao công kỳ án , Tây
dương ký (thế kỷ XVI), Liêu trai chí d ị (thế kỷ XVII), Tân
tề hài (thế kỷ XVIII)[11]. Và còn vô số thư tịch khác không thuộc
loại sưu tập, nhưng trong đó chứa đựng rất nhiều truyện cổ hoặc những yếu
tố truyện cổ, như s ử ký có Sử ký , Tả truyện , địa lý có Thủy kinh
chú , Sơn h ải kinh , tiểu thuyết có Tam quốc diễn nghĩa
, Th ủy hử , Kim cổ kỳ quan , Cổ kim tiểu thuyết
, giáo hu ấn có Nhị thập tứ hiếu , Ám thất đăng vân
vân và vân vân.
Kho tàng truyện cổ Trung-quốc còn đặc biệt ở chỗ, từ rất xưa nó đã
thu hút truyện cổ của rất nhiều dân tộc. Trong quá trình phát triển và bành
trướng lâu dài để trở thành một đế quốc rộng lớn, truyện cổ tích của các dân
tộc ngoài Hán tộc, hoặc có biên cương bị gồm thâu vào bản đồ Trung-quốc,
hoặc trở thành những dân tộc phiên thuộc triều cống, mặc nhiên lớp này lớp
khác lần lượt nhập vào kho chung. Lấy một ví dụ: truyện Nàng Diệp Hạn -
một dị bản của truyện Tấm Cám, tức là nàng Tro Bếp phương Tây - được
chép trong sách Dậu dương t ạp trở của Đoàn Thành Th ức
với lời ghi chú của chính tác giả cho biết là sưu tầm được tại một địa điểm
thuộc "phương Nam" Trung-quốc, hẳn nằm vào trường hợp này, vì chủ yếu
nó chỉ xuất hiện và lưu truyền ở phương Nam mà dường như chưa tìm thấy
một dị bản nào ở phương Tây và phương Bắc Trung-quốc[12].
Ngoài ra, trong những thế kỷ đầu công nguyên, đạo Phật từ Ấn-độ
cũng được du nhập vào Trung-quốc, do đó nước này lại còn tiếp thu rộng rãi
các phật thoại thông qua việc truyền bá giáo lý. Những bích họa miêu tả một
loạt trích đoạn rút ở sự tích đức Phật còn được giữ lại trong hang đá Đôn-
hoàng , chứng tỏ chúng không phải chỉ được kể bằng miệng, mà từ khá
lâu còn được viết, được vẽ để cho tín đồ dễ thuộc, dễ hiểu. Do ảnh hưởng
của tư tưởng Phật giáo nên không chỉ có phật thoại, mà còn hệ thống truyện
cổ tích và huyền thoại sử thi của Ấn-độ, Ba-tư (Iran) v.v cũng được lan
truyền vào Trung-quốc khá sớm.
2. Như đã nói, Ấn-độ là nơi được nhiều học giả phương Tây coi là cái
nôi của huyền thoại và cổ tích thần kỳ. Hơn bất kỳ kho tàng truyện cổ của
dân tộc nào, kho tàng truyện cổ tích nước này không những rất giàu về số
lượng mà còn có niên đại rất sớm vì chúng sớm được cố định hóa nhờ ghi
lên giấy mực. Bộ kinh Vê-đa (Véda: Tri thức) xuất hiện và hoàn chỉnh vào
khoảng từ 2.500 đến 500 năm trước công nguyên, bộ A-va-đa-na Ja-ta-ka
(Avadana Jataka: Lịch sử các tiền kiếp của đức Phật) thế kỷ III trước công
nguyên; bộ Ma-ha-bha-ra-ta (Mahâbhârata: Cuộc đại chiến Bha-ra-ta)
khoảng thế kỷ II trước công nguyên; qua nhiều lần hoàn chỉnh cho đến thế
kỷ IV sau công nguyên, Ra-ma-ya-na (Râmayana: Anh hùng ca Ra-ma) thế
kỷ II trước công nguyên; Ka-tha-xa-rit-xa-ga-ra (Kathâsaritsâgara: Đại
dương của dòng truyện, nói gọn là Biển truyện) vốn có từ thế kỷ II hoặc III
nhưng được biên soạn lại nửa sau thế kỷ XI; Pan-cha-tan-tơ-ra
(Panchatantra: Năm sách dạy [trẻ]) thế kỷ II đến V; Bri-hat-ca-tha
(Brihatcathâ: Truyện dài) thế kỷ II hoặc III cho đến thế kỷ V; Bri-hat-ca-tha
man-ja-ri (Brihatcathâ manjari: Bó hoa của truyện dài) thế kỷ VI; Vê-ta-la-
pan-ca-vi-mê-a-ti-ca (Vêtalapancavimeatika: 25 truyện quỷ Vê-ta-la) thế kỷ
XII[13] Và còn vô số những sưu tập khác, chẳng hạn những truyện giáo lý
Puy-ra-na (Purâna), hay Bha-ga-vat Gi-ta (Bhagavad Gitâ: Thánh ca thượng
đế), v.v Chính vì được ghi chép rất sớm, truyện cổ tích thần kỳ Ấn-độ
phần lớn còn giữ được sắc thái quái dị hoang đường nguyên thủy của chúng.
Cái siêu nhiên thần bí trở thành một đặc điểm cơ bản và kho truyện cổ Ấn-
độ trong khi lan truyền qua nhiều dân tộc, vẫn bảo vệ được khá đầy đủ yếu
tố siêu nhiên thần bí, nên rất dễ phát hiện. Có phần chắc giả thuyết của một
số học giả phương Tây coi truyện cổ tích Ấn-độ là cội nguồn duy nhất của
cổ tích thần kỳ thế giới, bắt nguồn từ đó.
Truyện cổ tích Ấn-độ du nhập vào Trung-quốc ít nhiều dưới dạng bị
hoán cải trên cơ sở ngôn ngữ văn tự và nghệ thuật Hán, tức là Hán hóa. Ví
dụ quan niệm luân hồi, quan niệm quả báo đã mang nhiều sắc thái Trung-
quốc. Từ cái tên "Yama" (tiếng Phạn), hình tượng nhân vật làm chủ thế giới
âm phủ đã có một cái tên Hán mới đối với nước ta cũng rất quen thuộc là
"Diêm vương". Các hình ảnh âm phủ, địa ngục, dạ soa ít nhiều đều bắt
nguồn từ đạo Phật. Truyện vua Thái Tông nhà Đường du lịch xuống cõi âm
trong một giấc mơ xem ra cũng ảnh hưởng của mô-típ Đại Mục Kiên Liên
thăm mẹ dưới địa ngục của phật thoại[14].
3. Truyện cổ tích Trung-quốc lưu truyền vào kho tàng truyện cổ tích
Việt-nam bằng 3 con đường:
1) Con đường giao lưu tự phát của quần chúng nhân dân hai bên qua
trao đổi thương phẩm cũng như trao đổi văn hóa; trong đó còn phải kể cả sự
tiếp thu gián tiếp thông qua các dân tộc thiểu số ở vùng giáp ranh hai nước
như Tày, Nùng, Dao, Mèo, Lô-lô, v.v
2) Con đường học thuật, chủ yếu do nho sĩ truyền bá.
3) Con đường tôn giáo tín ngưỡng, do các tu sĩ, đạo sĩ, các pháp sư,
phù thủy, bói toán, phong thủy truyền bá.
Mặc dầu Ấn-độ cách đất nước ta rất xa so với Trung-quốc, truyện cổ
tích Ấn-độ lại ảnh hưởng đến kho tàng cổ tích Việt-nam khá sâu đậm.
Truyện Ấn-độ chỉ có thể truyền vào nước ta bằng hai con đường:
1) Con đường tôn giáo. Đạo Phật truyền bá vào ta có bộ phận là từ
phía Nam lên (Tiểu thừa), nhưng có bộ phận và bộ phận này mới là chủ yếu,
lại từ Bắc xuống sau khi đã Hán hóa (Đại thừa). Những kinh sách nhà Phật
được dịch ra chữ Hán từ sớm, ví dụ Đại t ạng kinh (dịch từ thế kỷ
III), T ạp bảo tạng kinh , Lục độ tập kinh (dịch từ thế kỷ
V) v.v trong đó có nhiều truyện cổ tích, ngụ ngôn giáo huấn, có mục đích
làm cho tín đồ dễ tiếp thu.
2) Con đường giao lưu văn hóa, chủ yếu vào ta một cách gián tiếp,
qua các dân tộc thiểu số ở miền Nam, các dân tộc thuộc các nước Đông-
dương và rộng ra là các nước Đông nam Á, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc văn
hóa Ấn-độ và Phật giáo cũng như Ấn-độ giáo. Cũng như truyện ngụ ngôn Ê-
dốp (Esope) từng có lúc giữ địa vị thống trị ở một số nước Đông Âu, nhiều
loại truyện kể của Ấn-độ đã từng thâm nhập sâu rộng vào đời sống các dân
tộc Đông cũng như Tây với tất cả sức quyến rũ[15]. Vì thế dĩ nhiên nó còn
vang vọng trong văn học nói và văn học viết của các dân tộc ấy cho đến tận
ngày nay, và còn dội tới cả kho tàng truyện cổ tích Việt-nam[16].
Nói đến nguồn gốc ngoại lai của truyện cổ tích Việt-nam, trước hết
cũng cần lưu ý có những trường hợp do dùng chữ nước ngoài để ghi chép tác
phẩm dân gian nên có thể tình tiết hoặc hình ảnh nhiều lúc bị méo mó, vì
chữ nghĩa đã làm cho cách hiểu trở nên sai lạc, chẳng hạn hình ảnh "con
tinh". Theo quan niệm của dân gian Việt-nam, con tinh không phải là yêu
quái, cũng không ai lẫn lộn nó với ma quỷ. Về hình thù, nó có phép biến hóa
thành người hay vật. Nó thường chòng ghẹo, nát dọa, thậm chí đôi khi lén
lút có quan hệ tình cảm hoặc quan hệ sinh lý với người, cũng đôi khi theo
đuổi việc báo oán, báo ân. Nhưng gần như không mấy khi nó tàn hại mọi
người mà nó gặp. Các con tinh chủ yếu có nguồn gốc giống nhau là từ một
con vật sống lâu năm (ví dụ Tinh con chuột, số 115), hay một cây cổ thụ (ví
dụ Chàng đốn củi và con tinh, số 121) mà sinh ra. Truyện Kỳ ngộ ở trại Tây
trong Truyền kỳ mạn lục là câu chuyện nói về những cây liễu, cây đào bị bỏ
quên trong một vườn hoang của nhà quý tộc, hiện hình thành những cô gái
cùng xướng họa thơ từ và giao hoan với chàng thư sinh, đó đích thị 1à
những con tinh. Đồ đạc bỏ quên lâu năm không dùng đến, cũng có thể hóa
thành tinh (như Tinh cái chổi trong một truyện của Trung-quốc cũng như
một dị bản của người Đun-gan)[17].
Tóm lại, trong quan niệm của người Việt cổ, con tinh không phải là
con vật quái dị và cũng không gây tác hại gì ghê gớm. Nhưng từ khi nhà nho
sử dụng chữ Hán để ghi truyện cổ thì chữ "tinh" gần như đã được dùng một
cách rộng rãi để chỉ bất cứ loại yêu quái nào. Ví dụ trong Lĩnh-Nam chích
quái có những con Cửu vĩ hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh, Hồ tôn tinh; truyện
Thạch Sanh, truyện Ao Phật đều có Chằn tinh là những quái vật gây hại lớn
cho người và vật cả một vùng. Từ đó trở đi khái niệm "tinh" đã biến đổi hẳn,
và gây nên sự lộn xộn nếu không nói là làm sai lệch nội hàm của một hình
ảnh dân gian vốn có từ lâu trong truyện tự sự.
4. Nguồn gốc Trung-quốc, Ấn-độ trong truyện cổ tích Việt-nam như
thế nào? Ở đây không thể làm công việc điểm lại tất cả kho truyện; chỉ xin
dẫn ra một vài trường hợp có tính cách tiêu biểu với một ít nhận xét sơ lược
nhất.
Có thể có người cho rằng trong ngót một nghìn năm Bắc thuộc và gần
một nghìn năm sau đấy cùng tồn tại bên cạnh nhau, cùng dùng chung văn tự,
cùng học chung sách vở, hẳn bao nhiêu truyện cổ trong kho tàng tự sự giàu
có của Trung-quốc đều đã chuyển hóa - hoặc chí ít cũng nằm trong tiềm
năng chuyển hóa - thành truyện của Việt-nam? Thực tế không giản đơn như
vậy. Người Việt không muốn chỉ đóng vai "kẻ tiếp nhận". Ngay vấn đề bắt
chước phong cách tạo hình cũng chỉ diễn ra dè dặt. Cả một bộ sách Bác vật
chí của Tr ương Hoa , trong đó tác giả áp dụng cao độ thủ pháp
nghệ thuật nói ngoa, nói phóng đại đối với một loại hình đáng được coi là
đặc biệt trong kho huyền thoại[18], thế nhưng nho sĩ Việt-nam các đời
không thấy ai mô phỏng, chưa nói các nhà sáng tác dân gian.
Đối chiếu nhiều hiện tượng văn học, có thể nhận thấy cha ông ta trong
sáng tác có chịu một số ảnh hưởng nhất định trong sáng tác truyện kể, chẳng
hạn những truyện trong Tuyền kỳ mạn lục mà Lê Quý Đôn phát hiện thấy đã
chịu ảnh hưởng của sách Tiễn đăng[19]. Về văn học truyền miệng, cụ thể là
loại hình cổ tích, trừ một số trường hợp cá biệt có tính cách "vay mượn" gần
như nguyên xi, nhiều trường hợp khác đều tiếp thu có chọn lựa, hoặc về hình
tượng, hoặc về mô-típ, hoặc có khi là những tình tiết vốn đã quen thuộc đối
với dân tộc, được sử dụng đan xen vào những truyện do mình sáng tạo.
Chẳng hạn một hình ảnh rấm lúa (hoặc đậu, hoặc vừng). Sau một thời
gian nhất định (ví dụ 1.000 ngày, hoặc 100 ngày, hay 3 tháng 10 ngày) thì
những thứ hạt được rấm sẽ biến thành binh lính, sẵn sàng chịu sự điều khiển
của người rấm. Đó là phương thuật của người phù thủy, chắc chắn chưa hề
vượt quá phạm vi tưởng tượng. Hình ảnh này được sử đụng trong truyện Lẩy
bẩy như Cao Biền dậy non (số 39) và truyện Thầy Thím (Khảo dị, truyện số
123). Trong kho tàng truyện kể của đồng bào Tày, Nùng, hình ảnh này được
lắp đi lắp lại trong khá nhiều truyện. Không những thế, ở kho truyện của
đồng bào Tày, Nùng còn có một vài hình ảnh cùng loại (chẳng hạn nuôi một
giống sâu bọ nào đó trong chum bằng cháo, sau một thời gian nhất định,
giống sâu bọ ấy sẽ biến thành người, hay là trồng một giống tre (hoặc vầu)
sau một thời gian nhất định, mỗi lóng sẽ nổ tung, từ trong vọt ra một con
người cưỡi ngựa, đều sẵn sàng tuân lệnh chỉ huy). Hình ảnh rấm lúa thành
binh nói trên cũng xuất hiện nhiều lần trong văn học nói và viết Trung-quốc
thời cổ, mà khởi đầu có lẽ từ truyện Bình tho ại Tam quốc nói về
một hoạt động của quân sư Gia Cát Lượng biết cách ném hạt đậu cho chúng
biến thành quân.
Hay là một ví dụ về tình tiết. Trong truyện Kẻ trộm dạy học trò (số
83) có nhân vật Lâu, một anh chàng bản tính khờ khạo đi theo học nghề ăn
trộm, hôm ấy bị người đuổi gấp, phải chui vào một bụi tre, may khỏi bị bắt,
nhưng vì gai tre dày đặc, nên không dám chui ra. Khi ông thầy được nhắn
đến cứu, ông chỉ kêu lên một tiếng: - "Ối làng nước, có tên trộm trốn ở
đây!". Thế là chàng học nghề chui phắt ra khỏi bụi, thoát về nhà bình yên.
Tình tiết trên giống với một mẩu chuyện về Tào Tháo và Viên Thiệu. Hồi
còn trẻ tuổi, hai người này là bạn, thích đi tìm cái thú trong phiêu lưu. Một
đêm nọ, họ đến một nhà kia có hai vợ chồng mới cưới. Họ cùng lẻn vào
vườn, đột nhiên kêu lên: - "Có trộm!". Khi mọi người đổ ra thì Tào Tháo
bước vào nhà tuốt kiếm nắm lấy cô dâu, còn Thiệu nhanh chân chui vào một
bụi gai. Nhưng vì bụi gai quá rậm nên chui vào dễ mà chui ra rất khó. Thấy
vậy, Tháo lại thét lên: - "Kẻ trộm đây rồi!" Thiệu nghe vậy rất hoảng bèn
vùng ra khỏi bụi, rồi cả hai cùng bỏ chạy.
Tình tiết hay mẩu chuyện này được Lưu Ngh ĩa Khánh (403-
444) ghi lại trong tác phẩm của ông: Thế thuyết tân ng ữ mở đầu
của chương nói về sự lừa bịp[20].
Một ví dụ về mô-típ. Như đã trình bày ở phần truyện, truyện Sự tích
con dã tràng (số 15) của ta chính là sử dụng mô-típ người hiểu tiếng loài vật
bị tội oan, tức Công Dã Tràng trong Lu ận ngữ Nhưng tác giả dân gian
Việt-nam đã kết hợp phần nào với mô-típ người hiểu tiếng loài vật của Ấn-
đ ộ trong Kinh Tam tạng và Pan-cha-tan-tơ-ra (Panchatantra) để sáng
tạo thành một truyện mới với chủ đề mới: người chồng hiểu tiếng loài vật và
người vợ không thủy chung, có bố cục sít sao hơn, ý nghĩa sâu sắc hơn và
đương nhiên khỏe mạnh hơn những truyện cũ.
Hay một mô-típ khác: câu chuyện chặt cây thần, chặt bao nhiêu vết
chém trên cây liền lại bấy nhiêu. Ở truyện của người Kinh là Sự tích thần núi
Tản-viên[21]; ở đồng bào Mường là phần Chặt chu kéo lội trong Đẻ đất đẻ
nước; ở đồng bào Cham-pa là tình tiết chặt cây krêk trong truyện Vua Rò-
mê, và còn nhiều dị bản của nhiều dân tộc khác, gần là Đông-dương, xa thì
châu Âu, châu Mỹ, đều có mô-típ này hoặc tương tự. Nhưng mô-típ này lại
có mặt trong sách Dậu dương t ạp trở (thế kỷ IX) và sớm hơn nữa
là Th ủy kinh chú (thế kỷ III)[22]. Theo chúng tôi, đây vốn là dấu vết
của một mảnh thần thoại xa xưa lưu hành ở Đông nam Á, rộng ra là Á - Úc
và từng được thư tịch Trung-quốc ghi lại từ sớm.
Có trường hợp chỉ sử dụng của truyện nước ngoài mỗi một cái tên
(con vật hoặc con người). Có khi đó là cái tên dễ chấp nhận, nhưng cũng có
khi ghép vào trong truyện Việt, tên trở nên lạc lõng. Ví dụ tên "Cửu vĩ hồ
tinh" trong một truyện cùng tên, hay tên "Lã Đồng Tân" trong truyện Hà Ô
Lôi (đều được ghi trong Lĩnh-nam chích quái). Cửu vĩ hồ tinh (tinh cáo chín
đuôi) nghe ra có vẻ quen thuộc, nhưng nó lại là hình tượng của truyện dân
gian Trung-quốc được ghi từ rất xưa, trong sách Dật Chu th ư tương
truyền có từ thời Chiến quốc, tức là trước kỷ nguyên của chúng ta. Muộn
hơn thì trong Phong th ần truyện đời Minh, tác giả sách này cho tinh
cáo chín đuôi là hiện thân của Đát Kỷ. Còn Lã Đồng Tân là ai và vì sao lại
lạc lõng tưởng cũng dễ hiểu: đó là nhân vật có thật, sống vào đời Đường,
nhưng lại nổi tiếng là một trong tám nhân vật bất tử trong Tiên thoại Trung-
quốc. Kể ra, trong truyện Cửu vĩ hồ tinh của Việt-nam, nếu có miêu tả con
tinh dùng chín cái đuôi để làm một việc gì cụ thể (như truyện Chàng con côi
(Ý Pơ-jạ) của đồng hào Tày (xem Khảo dị, truyện số 181) cũng có con chó
chín đuôi, nó dùng những đuôi của mình để cứu chủ, v.v ) thì cũng có thể
tin rằng cái tên Cửu vĩ hồ tinh không phải là cái tên vay mượn. Đáng tiếc là
chín cái đuôi của Cửu vĩ hồ tinh trong Lĩnh-nam chích quái lại không có một
chức năng gì đáng kể. Căn cứ vào xu hướng của tập sách thường tỏ ra chịu
ảnh hưởng cứng nhắc của truyện thần kỳ trong sách vở nước ngoài, nên
chúng tôi nghiêng về ý nghĩ cho rằng những cái tên Cửu vĩ hồ tinh cũng như
Lã Đồng Tân là bằng chứng của một sự tô điểm vụng về của người kể hoặc
người sưu tập, đã "thêm râu" cho cốt truyện của ta.
Trong trường hợp tiếp thu cốt truyện, ta sẽ thấy dù vay mượn nguyên
xi hoặc gần nguyên xi, người kể vẫn có những nét thêm bớt nhất định, tối
thiểu là thêm hay bớt những tình tiết làm cho tiến trình của câu chuyện
không y hệt như cũ, hoặc có những cải biến nhằm lái vấn đề của câu chuyện
theo hướng giải quyết mới. Và yêu cầu khách quan không phải là di chuyển
một truyện cổ tích vượt qua ranh giới một nước; yêu cầu chính là xây dựng
lại, tái sáng tạo một tác phẩm, sao cho phù hợp với quan điểm thẩm mỹ cũng
như khuynh hướng tư tưởng của dân tộc tiếp nhận.