Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.79 KB, 5 trang )
Tổn thương võng mạc ở bệnh nhân AIDS
(Kỳ 2)
2.3.Viêm hắc võng mạc do lao
Viêm võng mạc do lao thường là viêm từ hắc mạc lan vào võng mạc, hay
gặp trong hình thái lao kê.
Viêm hắc võng mạc do lao biểu hiện dưới dạng củ lao hoặc u lao. Củ lao
màu vàng hoặc trắng xám, kích thước 0,5 - 3mm. Có thể có một hoặc nhiều củ lao,
tổn thương thường ở cực sau.
Hay gặp viêm mạch máu võng mạc, thường viêm thành tĩnh mạch. Viêm
mạch máu võng mạc có thể gây tắc mạch dẫn đến biến chứng tân mạch võng mạc
do thiếu máu võng mạc.
Chụp phổi có thể thấy lao phổi, phản ứng mantoux dương tính.
Cần hội chẩn với bác sĩ chuyên khoa lao, dùng phối hợp các thuốc chống
lao theo liệu trình 6-9 tháng (nên dùng kèm vitamin nhóm B để hạn chế biến
chứng nhiễm độc thị thần kinh do thuốc chống lao ethambutol), kết hợp điều trị
nhiễm HIV để tăng khả năng miễn dịch.
2.4.Viêm hắc võng mạc do toxoplasma
Thị lực giảm do dịch kính đục hoặc tổn thương xâm nhập vùng hoàng
điểm. Bệnh nhân thấy những thể lơ lửng như ruồi bay trước mắt do dịch kính đục,
có hiện tượng nhìn biến hình.
Trường hợp điển hình có viêm võng mạc thành ổ màu kem thường ở cực
sau, kích thước 0,5-2mm, võng mạc phù, viêm dịch kính khu trú trước ổ viêm
võng mạc tạo nên hình ảnh “đèn pha trong sương mù”. Có thể có một hoặc nhiều ổ
viêm ở 2 mắt. Ổ viêm thường ở cạnh mạch máu võng mạc chứng tỏ tác nhân lan
theo đường máu đến, không phải viêm tái hoạt. Có thể kèm viêm màng bồ đào
trước, viêm mạch máu võng mạc. Sau vài tháng ổ viêm võng mạc thành sẹo teo
hắc võng mạc có sắc tố.
Ở bệnh nhân AIDS, tổn thương mắt do toxoplasma thường kèm với tổn