Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

de tai tot nghiep cu nhan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.38 KB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Trung tâm giáo dục từ xa
DẠY ĐỌC- HIỂU CHO HỌC SINH LỚP NĂM
BÀI:HỘP THƯ MẬT
„††„
Người thực hiện:Nguyễn Thò Khánh Vân
Số báo danh:122
Người hướng dẫn:GS-TS Lê Phương Nga
Cần Giuộc 2007
Lời cảm ơn
&
Lời đầu tiên em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
GS-TS Lê Phưong Nga và q thầy cô khoa Giáo dục
Tiểu học Trường Đại học sư phạm Hà Nội đã tận tình
hướng dẫn, giảng dạy, giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và cacù bạn đồng
nghiệp Trường Tiểu học Rạch Đào –Cần Đước –Long An
cùng học sinh khối lớp 5 của trường đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu .
Cần Giuộc ,ngày 10 tháng 10 năm 2007
Sinh viên
Nguyễn Thò Khánh Vân
Người hướng dẫn:GS-TS Lê Phương Nga
PHẦN MỞ ĐẦU
I/Lý do chọn đề tài
1/Sự cần thiết của đề tài
ục đích cuối cùng của việc dạy học Tiếng Việt của Trường Tiểu học là
hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực họat
động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động , tương ứng với chúng là
bốn kỹ năng :nghe, nói, đọc viết. Là một phân môn của chương trình Tiếng Việt
tiểu học. Đây là một phân môn có vò trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm


nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, một kỹ năng
quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên trong trường phổ thồng.
M
Những kinh ngiệm của đời sống,những thành tựu văn hoá, khoa học, những
tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần
lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể
tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình
thường, không thể có hạnh phúc với đúng nghóa của từ này trong xã hội hiện đại.
Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây, họ
biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống ,nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội,
tư duy. Biết đọc , con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ
bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác ,thông hiểu tư
tưởng,tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con
người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức, mà còn rung động tình cảm, nảy
nở nhứng ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng
như được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc, con ngừơi sẽ không có điều kiện
hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành một nhân
cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay thì việc đọc
ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin. đọc
chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì vậy, dạy đọc có ý
nghóa rất quan trọng.
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ
viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu (ứng với hình thức đọc tiếng) là quá
trình chuyển tiếp từ đọc hình thức chữ viết thành các đơn vò nghóa không có âm
thanh ( ứng với đọc thầm ). Đây là một đònh nghóa rất phù hợp với dạy tập đọc ở
tiểu học. Đọc không chỉ “đánh vần “ , phát âm thành tiếng theo đúng các ký
hiệu chữ viết, cũng không chỉ là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu
những gì được đọc .Đọc chính là một sự tổng hợp của cả hai quá trình này .Đọc
thành tiếng không thể tách rời với việc hiểu những gì được đọc. Chỉ khi biết
nghóa , chỉ khi biết cách hiểu , hiểu sâu sắc thấu đáo các văn bản được đọc thì

học sinh mói có công cụ hữu hiệu để lónh hội những tri thức tư tưởng , tình cảm
của người khác chứa đựng trong văn bản, có công cụ để lónh hội tri thức khi học
các môn học khác của nhà trường .
Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc
rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen,
hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên. Các tài liệu dạy học
của nước ngoài cũng nhấn mạnh sự thông hiểu trong khi đọc” đọc là để hiểu
nghóa chữ in” và đề lên thành nguyên tắc phải cho trẻ hiểu những từ trẻ đang
học, xem việc hiểu những gì được đọc là động cơ ,cái tạo nên hứng thú, tạo nên
thành công học đọc của trẻ.
Đích cuối cùng của việc đọc là dạy cho HS có kỹ năng làm việc với văn bản,
chiếm lónh được văn bản. Biết đọc cũng là biết tiếp nhận, xử lý thông tin. Chính
vì vậy dạy đọc hiểu có vai trò đặc biệt trong dạy đọc nói riêng, trong dạy đọc ở
tiểu học nói chung .
2 /Thực trạng việc dạy đọc hiện nay chưa tốt.
Thực tế việc dạy đọc ở trường tiểu học hiện nay, bên cạnh những thành công
còn có nhiều hạn chế . Học sinh của chúng ta chưa đọc được như mong muốn ,
kết quả học đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kỹ
năng đọc . Các em chưa nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lónh hội tri thức, tư
tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được . Chủ yếu các em
chỉ đọc cho hết bài, cố đọc thật to để được khen chứ không đọc đúng ,không biết
cách ngắt, nghỉ như thế nào để hiểu đúng nội dung văn bản cũng như cảm thụ
cái hay cái đẹp của một bài . Học sinh đọc mà không nắm được điều gì là cốt
yếu trong văn bản . Kết quả học đọc của học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu
của việc hình thành kỹ năng giao tiếp quan trọng. Nguyên nhân chính của hạn
chế này là do giáo viên chưa nắm chắc nội dung và phương pháp dạy đọc hiểu.
Giáo viên tiểu học còn lúng túng khi dạy tập đọc :cần đọc bài tập đọc với giọng
như thế nào, làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh ,làm thế nào để các
em đọc nhanh hơn , hay hơn ,diễn cảm hơn ,làm thế nào để các em hiểu văn bản
được đọc ,nhất là làm thế nào để hiểu được “văn”, làm thế nào để kết hợp đọc

thành tiếng và đọc hiểu ;làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào
chính cuộc sống các em …Đóù là những trăn trở của giáo viên trong những giờ tập
đọc .
Để tháo gỡ những khó khăn khi dạy tập đọc, mỗi giáo viên chúng ta phải suy
nghó đầu tư thật nhiều khi đứng lớp, làm thế nào để luyện cho HS có kỹ năng
đọc cần thiết để đọc các loại văn bản khác nhau , để các em có kỹ năng làm
việc với sách báo, có công cụ để học tốt các môn học khác , để giao tiếp và tự
học sau này. Vì thế , tôi chọn đề tài “Dạy đọc hiểu cho học sinh lớp 5 với bài
Hộp thư mật”—sách Tiếng Việt 5 tập 2 trang 62 với tham vọng góp phần đáp
ứng yêu cầu hình thành và phát triển năng lực đọc cho HS tiểu học .
II/MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
1/Mục đích nghiên cứu:
Với đề tài :”Dạy đọc- hiểu cho học sinh lớp 5”mục đích của tôi nhằm góp
phần nâng cao chất lượng dạy đọc nói chung ở trường tiểu học và ở lớp 5 nói
riêng, nhất là làm thế nào để hiểu được “văn”, biết phối hợp đọc thành tiếng và
đọc hiểu, làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống
của các em.
2/Nhiêm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích:”Dạy đọc- hiểu cho học sinh lớp 5”, đề tài đi vào giải
quyết những vấn đề sau:
2.1/Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn để dạy đọc- hiểu cho
học sinh lớp5.
2.2/Đề xuất những điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy đọc- hiểu cho
học sinh lớp5.
2.3/Thực nhiệm dạy học bài:” Hộp thư mật”-sách tiếng việt 5 tập 2 trang
62.
III/PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Qua đề tài:” Dạy đọc- hiểu cho học sinh lớp 5”,tôi áp dụng một số phương
pháp để thực hiện là:
1/Phương pháp nghiên cứu tài liệu:

Đọc các tài liệu liên quan như : Giáo trình PPDH Tiếng Việt 1, Giáo trình
PPDH Tiếng Việt 2, Sách giáo viên Tiếng Việt 5, hướng dẫn thực hiện chương
trình mới (của Bộ Giáo Dục), sách dạy tập đọc ở tiểu học (Lê Phương Nga) và
các tạp chí giáo dục khác vv……
2/Phương pháp quan sát:
Dự giờ, điều tra, khảo sát thực tế.
3/Phương pháp thực nghiệm dạy học:
Phối hợp các phương pháp dạy học để thiết kế bài giảng và tiến hành dạy.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
Những cơ sở lý luận và thực tiễn để dạy đọc- hiểu cho học sinh lớp 5
I/Cơ sở lý luận:
1/.Đọc là gì ?
Để xác đònh nhiệm vụ của dạy đọc cần làm rõ “Đọc là gì” . Trong thực tế
dạy , người ta thường hay phiến diện cực đoan, không hiểu khái niệm đọc một
cách đầy đủ. Nhiều khi người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã
chữ –âm, cho rằng đọc là nhìn chữ phát ra thành lời, nghóa là đã đọc thì phải
thành tiếng. Vì vậy, họ đánh giá một giờ dạy chỉ dựa vào một căn cứ duy
nhất:đếm xem có bao nhiêu em đứng dậy . Ngược lại, có người lại quan niệm
đọc là để hiểu được nghóa lý những gì được đọc , tức là tìm hiểu bài. Vì vậy thầy
trò sa vào hỏi đáp văn bản, sa vào bình giá mà không chòu đọc thành tiếng chính
văn bản đó.
Có nhiều đònh nghóa về đọc và mỗi đònh nghóa thường nhấn mạnh những
khía cạnh khác nhau của đọc . Trong cuốn sổ tay thuật ngữ dạy đọc tiếng nga
(1988), viện só M.L.LƠVƠP đã đònh nghóa “ đọc là một dạng hoạt đông ngôn
ngư,õ là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanhvà thông
hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ
hình thức chữ viết thành các đơn vò nghóa không có âm thanh( ứng với đọc
thầm) . Đây là một đònh nghóa rất phù hợp với việc dạy tập dọc ở tiểu học. Đònh
nghóa này thể hiện một quan niệm đầy đủ về đọc ,xem đó là một quá trình giải

mãhai bậc:chữ viết âm thanh và chữ viết (âm thanh) nghóa.Như vậy, đọc
không chỉ là” đánh vần”,phát âm thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ
viết,cũng không chỉ là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì
được đọc . đọc chính làmột sự tổng hợp của cả hai quá trình này.
2/Nhiệm vụ của dạy Tập đọc ở tiểu học:
2.1/Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của
nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ 4 kỹ
năng bộ phận cũng là 4 yêu cầu về chất lượng của “ đọc ” : đọc đúng, đọc
nhanh, đọc lưu loát (trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những
điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu và đọc hay (mà ở múc độ cao hơn là
đọc diễn cảm). Cần phải hiểu kỹ năng đọc có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc
khác nhau. Đầu tiên đọc là giải mã chữ-âm một cách sơ bộ, đọc là phải hiểu
nghóa của từ, tìm được các từ chìa khóa, câu “chìa khoá” (câu trọng yếu, câu
chốt) trong bài, biết tóm tắt nội dung của đoạn; với những bài văn, biết phát
hòên ra những yếu tố “văn” và đánh giá được giá trò của chúng trong việc biểu
đạt nội dung. Như vậy, lúc này, biết đọc đồng nghóa với việc có kỹ năng làm
việc với văn bản, chiếm lónh được văn bản (bài khoá) ở các tầng bậc khác nhau:
nội dung các sự kiện cấu trúc, chủ đề,các phương tiện biểu đạt.
Bốn kỹ năng của đọc được hình thành qua hai hình thức đọc : đọc thành tiếng
và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn
thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng
khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu
nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể
đọc nhanh và diễn cảm được. Cũng như khó mà nói được con gà đẻ ra quả trứng
hay quả trứng nở ra con gà, nhiều khi, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính
nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc ,không thể xem nhẹ kỹ
năng nào cũng như không thể tách rời chúng.
2.2.Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình
thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho HS. Làm cho sách trở
thành một sự tôn sùng ngự trò trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện

để trường học thực sự trở thành trung tâm văn hoá. Nói cách khác, thông qua
việc dạy đọc phải làm cho HS thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có
ích lợi cho các em trong cả cuộc đời. Phải làm cho HS thấy đó là một trong
những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát
triển.
2.3.Các nhiệm vụ khác:
Vì việc đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên
cạnh nhiệm vụ rèn kỹ năng đọc , giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc
còn có nhiệm vụ làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học
cho HS. đọc một cách có ý thức sẽ tác động tích cực tới ngôn ngữ và tư duy của
người đọc .Việc dạy đọc sẽ giúp HS hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng
yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghó một cách lôgic cũng như
biết tư duy có hình ảnh…Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn
giáo dục tính cách, thò hiếu thẩm mó cho HS.
Như vậy,dạy đọc có một ý nghóa to lớn vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển.
3/Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy .
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc ,nắm
bản chất của kỹ năng đọc . Đặc điểm tâm lý của học sinh khi đọc hay cơ chế của
đọc là cơ sở của việc dạy đọc .
Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp
nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thò giác. Chúng ta
đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.
3.1 Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt có quan hệ mật thiết với
nhau, là việc sử dụng một bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt, đó là quá trình
vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ – âm để phát ra một cách trung thành
những dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai, đó là sự vận động của tư
tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ-nghóa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ
và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội
dung những gì đãđọc .

Đọc bao gồm yếu tố tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ quan phát
âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì đọc được. Càng ngày, những
yếu tố này càng gần với nhau hơn, tác động với nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ cuối
cùng của việc phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa hai mặt riêng
lẻ này của quá trình , đó là điểm phân biệt giữa người biết đọc và người biết đọc
thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng
hoàn thiện, càng chí xác và biểu cảm bấy nhiêu.
Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ “đọc” được sử dụng trong nhiều nghóa:
theo nghóa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc ( tức là
việc chuyển dạng thức của chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghóa rộng, đọc
được hiểu là kỹ thuật đọc cộng với sự thông hiểu điều được đọc (không chỉ hiểu
nghóa của từng từ riêng lẻ mà cả câu cả bài). Ý nghóa hai mặt của thuật ngữ”
đọc” được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ
đây, cần hiểu đọc với ý nghóa thứ hai – đọc được xem như là một hoạt động lời
nói trong đó có các thành tố :
- Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ.
- Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh nghóa là phát âm các từ theo
từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc trơn từng tiếng tuỳ thuộc trình độ nắm kỹ
thuật đọc .
- Thông hiểu những gì được được đọc (từ, cụm từ, câu, bài ).
3.2 Kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình làm việc lâu
dài. T.G Egôrôp chia việc hình thành kỹ năng này thành 3 giai đoạn :
- Phân tích.
-Tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh , hình thành một cấu trúc chỉnh thể
của hành động )
- Giai đoạn tự động hoá.
Giai đoạn dạy học vần (lớp 1) là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng
theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc cả từ trọn vẹn, trong đó sự tiếp nhận từ
bằng thò giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghóa.Tiếp theo sự
thông hiểu ý nghóa của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là

đọc được thực hiện trong sự đoán các nghóa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt
đầu đọc tổng hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc ngày càng tự động hoá,
nghóa là người đọc càng quan tâm ít đến quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc
chiếm lónh văn bản (bài khoá): nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề, các
phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ta chú trọng hơn các mối
quan hệ qui đònh lẫn nhau của việc hình thành kỹû năng đọc và hình thành kỹ
năng làm việc với văn bản, nghóa là đòi hỏi tổ chức giờ Tập đọc sao cho việc
phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng đến việc hình thành kỹ năng ,
hướng đến đọc có ý thức bài .
Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ có thể xem là đứa trẻ biết đọc
khi nó đọc mà hiểu được điều mình đọc. Đọc là hiểu nghóa của chữ viết. Nếu trẻ
không hiểu những từ mà ta đưa cho chúng , chúng sẽ không có hứng thú học tập
và không có khả năng thành công. Do đó, hiểu những gì được đọc sẽ là động cơ,
hứng thú cho việc đọc .
Việc đọc không thể tách rời khỏi việc chiếm lónh một phương tiện ngôn ngữ
(ở đây là Tiếng Việt). Mục đích này chỉ có thể đạt được thộng qua con đường
luyện giao tiếp có ý thức. Một phưong tiện luyện tập quan trọng, cũng đồng thời
là mục tiêu phải đạt tới trong sự chiếm lónh ngôn ngữ chính là việc đọc , cả đọc
thành tiếng và đọc thầm.Việc rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh phải hướng
đến mở rộng trường nhìn và giảm bớt các bước hồi quy cho học sinh.
Quá trình hiểu văn bản gồm các bước sau:
- Hiểu nghóa các từ các ngữ
- Hiểu các câu
- Hiểu các khối đoạn, tức là những tập hợp câu để phát biểu một ý trọn vẹn
mà phức hợp,
- Hiểu cả bài.
Học sinh tiểu học không phải bao giờ cũng dễ dàng hiểu được những điều
mình đọc. Hầu như toàn bộ sức chú ý đều tập trung vào việc nhận ra mặt chữ,
đánh vần để phát thành âm. Còn nghóa thì chưa có đủ thì giờ và sức lực mà nhận
biết. Mặt khác, do vốn từ còn ít, năng lực liên kết thành câu, thành ý còn hạn

chế nên việc hiểu nội dung còn khó khăn. Đây là cơ sở đề xuất các biện pháp
hình thành năng lực đọc hiểu cho học sinh tiểu học.
4/ Cơ sở ngôn ngữ học và văn học của việc dạy :
Việc dạy đọc nói chung và việc đọc hiểu nói riêng có liên quan mật thiết tới
tất cả các bộ môn của ngôn ngữ học như: vấn đề chính âm, chính tả, ngữ điệu
(thuộc ngữ âm học ) vấn đề nghóa cũa từ, của câu,đoạn bài (thuộc từ vựng ngữ
nghóa học ) vấn đề dấu câu, các kiểu câu (thuộc ngữ pháp học). Vì vậy nội dung
và phương pháp dạy tập đọc phải xây dựng trên các kết quả nghiên cứu của
ngôn ngữ học nhất là Việt ngữ học. Nếu trong quá trình dạy đọc ta tách bớt
phẩm chất của đọc, không đặt tên những cơ sở của ngôn ngữ học, Việt ngữ học
và lý luận văn học thì việc dạy đọc không đảm bảo hiệu quả.
Để luyện chính âm cho học sinh, chúng ta có thể hướng đến một trong ba
mẫu hình lý tưởng, hay nói cách khác là có thể chọn một trong ba chuẩn phát âm
sau:
-Hướng đến cách phát âm của hệ thống ngữ âm phù hợp với chữ viết. Giáo
viên và học sinh thuộc phương ngữ Trung bộ nên hướng dẫn cách phát âm này
-Hướng đến cách phát âm theo hướng Hà Nội như phát thanh viên đài phát
thanh, truyền hình trung ương. Giáo viên và học sinh theo phương ngữ Bắc Bộ
nên hướng đến cách phát âm này.
-Hướng đến cách phát âm của tiếng Sài Gòn như phát thanh viên đài phát
thanh, truyền hinh thành phố Hồ Chí Minh. Giáo viên và học sinh theo phương
ngữ Nam Bộ nên hướng đến cách phát âm này.
Chấp nhận nhiều chuẩn chính âm, học sinh thuộc phương ngữ Bắc Bộ sẽ
không bắt buộc đọc phải phân biệt các phụ âm đầu :tr/ch; r/d(gi), s/x. Như vậy
cần loại bỏ cách phát âm không tự nhiên, chỉ hướng đến mục đích chính tả như
cách đọc , nói sai ở một số vùng ở miền Bắc như “ràn mướp”, “rao bài tập”, và
cả cách luyện ba phụ âm đầu quặt lưỡi rất nặng nề.
Với học sinh Nam Bộ, sự phân biệt các cặp phụ âm đầu v/d (trước âm đệm),
các cặp phụ âm cuối n/ng, t/c cũng là không bắt buộc.
Như thế luyện chính âm không có nghóa là bắt học sinh các tỉnh khác nói

giọng Bắc, bắt học sinh Miền nam, miền Trung đọc như người Hà Nội mà là
hướng học sinh đến một giọng Bắc, một gòong Nam bộ trau chuốt hơn, chuẩn
hơn, hay hơn.
Sự chi phối của Việt ngữ học đến quá trình đọc được biểu hiện ở các mặt
sau:
4.1-Ngữ âm:
Ngữ âm có liên quan mật thiết tới đọc , bởi vì nếu phát âm đúng việc đọc
mới có hiệu quả. Vì vậy, phải xác đònh hệ thống ngữ âm chuẩn. Trong điều kiện
chưa có hệ thống ngữ âm chuẩn cho cả nước thì cần dựa trên phát âm đòa
phương có so sánh với phát âm chuẩn để uốn nắn phát âm cho phù hợp, trong
trường hợp đọc sai dẫn đến hiểu nghóa sai.
Ví dụ: khi phát âm thanh điệu “?/~ hoặc âm vò n –ng: t-c người Nam Bộ biến
thể phát âm, người Bắc Bộ khi phát âm âm vò s/x: ch/tr có sự biến thể”.
*Chính âm: Là chuẩn mực phát âm có giá trò và hiệu lực xã hội. Chính âm
sẽ quy đònh nội dung luyện phát âm ở tiểu học. Chính âm là phát âm đúng, bao
gồm việc phát âm đúng các âm vò và đúng các từ. Có thể phát âm theo phương
thức phát âm hoặc theo bộ phận cấu âm tức là điều khiển luồng hơi đi ra khoang
miệng.
Ví dụ: m vò /n/ là phụ âm mũi, đầu lưỡi – răng, hữu thanh.
m vò /ng/ là phụ âm mũi, gốc lưỡi, hữu thanh.
Nếu lấy hệ thống ngữ âm phản ảnh trên chữ viết quốc ngữ hiện nay làm cơ
sở để so sánh thì có thể nêu lên một số sự khác nhau về ngữ âm giữa phương
thức Tiếng Việt như sau:
Phương ngữ Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ-Nam Bộâ
Những nét khác biệt
Âm đầu tr, s, r - + +
Âm đầu v + + -
Vần ưu, ươu - + +
Âm cuối t, n + + -
6 thanh + - +

Hiện nay, vấn đề chính âm là vấn đề thời sự có nhiều ý kiến khác nhau về
chuẩn mực ngữ âm Tiếng Việt. Đây cũng là một nguyên nhân gây khó khăn
trong việc trau dồi cách phát âm chuẩn trong nhà trường hiện nay. Có một số ý
kiến được mọi người tán thành là lấy phương ngữ Bắc Bộ (tiêu biểu là thủû đô
Hà Nội ) làm cơ sở để xác đònh chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt nhưng phải bổ
sung các yếu tố ngữ âm tích cực của các phương ngữ khác.
4.2 –Ngữ điệu Tiếng Việt:
Theo nghóa hẹp ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc , là sự lên cao
hay hạ thấp giọng nói, giọng . Theo nghóa rộng, ngữ điệu là sự thống nhất của
một tổ hợp,cacù phương tiện siêu đoạn (siêu âm đoạn tính ) có quan hệ tương tác
lẫn nhau được sử dung ở bình diện câu như :
+Cao độ: đô cao thấp của âm thanh.
+Cường độ: độ mạnh yếu của âm thanh.
+Trương độ: đô dài, ngắn của âm thanh.
+Tốc độ: đô nhanh, chậm, ngắt nghỉ.
+m sắc: sắc thái riêng của âm thanh.
Những yếu tố này không tồn tại một cách cô lập mà thống nhất lại thành một
tổ hộp phản ánh đúng thái độ tình cảm, cảm xúc của tác giả khi mô tả mới tạo
thành ngữ điệu . Ngữ điệu chính là sự hoà đồng về âm hưởng của bài . Nó có giá
trò lớn để bộc lộ cảm xúc. Vì vậy, để đọc diễn cảm phải làm chủ được ngữ điệu,
nghóa là có khả năng sử dụng phối hợp tổng hoà các yếu tố âm thanh ngôn ngữ
để phô diễn và tái hiện được cảm xúc của tác giả văn bản được .
4.3/Từ vựng ngữ nghóa:
Việc dạy đọc hiểu có liên quan mật thiết, gắn bó chặt chẽ với từ vựng ngữ
nghóa. Sự chi phối nghóa của từ đối với việc đọc phải nhấn giọng ở những từ
trọng âm, những từ”chìa khoá” , những từ mang ý nghóa cơ bản, những từ đa
nghóa. Đó là những từ có giá trò tu từ, những từ có giá trò nghệ thuật, những từ
thể hiện tư tưởng chủ đề của văn bản. Những từ đó giúp hs hiểu được nội dung
bài. Vì vậy, quan hệ âm nghóa là quan hệ bắt buộc.
4.4/Ngữ pháp học:

Bao gồm những kiến thức về dấu câu, về sư phân loại câu theo mục đích
phát ngôn. Muốn đọc đúng, hay, diễn cảm cần phải có kiến thức về dấu câu, về
các kiểu câu. Tuỳ từng văn bản cụ thể, việc ngắt câu, chuyển câu có giá trò
riêng, ở đây còn lệ thuộc vào ý đồ của tác giả trong việc sử dụng câu. Những
kiến thức về ngữ pháp sẽ giúp việc dạy học hiệu quả hơn.
4.5/Phong cách văn bản:
Việc dạy đọc nói chung, đọc hiểu nói riêng phải dựa vào lý thuyết về văn
bản, những tiêu chuẩn để phân tích, đánh giá một văn bản. Việc đọc một tác
phẩm văn xuôi khác với đọc một bài thơ, đọc một tác phẩm chính luận khác với
đọc một tác phẩm nghệ thuật. Điều này có nghóa là người đọc phải có một trình
độ hiểu biết văn bản mới có cách đọc phù hợp với từng văn bản .
Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài tập đọc cũng phải dựa trên
những vấn đề về lý luận văn học, những hiểu biết về đề tài, chủ đề, kết cấu,
nhân vật, quan hệ giữa nộïi dung và hình thức, các biện pháp tu từ. Do đó để
việc đọc có hiệu quả cần phải có hiểu biết về đặc điểm ngôn ngữ văn học, tính
hình tượng, tính hàm ẩn, đa nghóa.
Mục đích của giờ tập đọc là luyện cho học sinh có kỹ năng đọc và giúp học
sinh hiểu được văn bản. Do đó, việc dành thời gian để rèn “đọc”, hiểu những từ
“chìa khoá” cho học sinh là bước rất quan trọng để giúp các em hiểu đúng nội
dung văn bản và điều chỉnh cách đọc đúng hơn.
II/CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1/Về chương trình sách giáo khoa:
1.1/Mục tiêu của môn tiếng việt ở lớp 5
1.1.1. Lớp 5 là lớp cuối cấp Tiểu học, hoàn thành mục tiêu đặt ra cho môn Tiếng
Việt ở toàn cấp là:
a.Hình thành và phát triển ở HS các kó năng sử dụng Tiếng Việt: nghe-
nói viết để học tiếp ở các bậc cao hơn vàgiao tiếp trong các môi trường hoạt
động của lứa tuổi; góp phần rèn luyện các thao tác tư duy (phân tích – tổng hợp,
khái quát hệ thống,…)và góp phần nâng cao phẩm chất tư duy, năng lực nhận
thức.

b. Cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về hệ thống Tiếng Việt
và tri thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp; các hiểu biết sơ giản về xã hội, tự
nhiên và con người, về văn hoá và văn học của Việt Nam và nước ngoài.
c.Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, góp phần hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghóa.
1.1.2. Ở lớp 5, mục tiêu nói trên được cụ thể hoá thành những yêu cầu về kiến
thức và kỹ năng đối với HS như sau:
a.Nghe:
-Nhận biết được thái độ, tình cảm, chủ đích của người nói trong giao tiếp.
- Nghe và nắm được nội dung và chủ đích của các bài viết về khoa học
thường thức, về đạo đức, thẩm mó, về tình bạn,…phù hợp với lứa tuổi; bước đầu
nhận xét, đánh giá được một số thông tin đã nghe.
- Nghe và nắm được đại ý, đề tài của tác phẩm(hoặc trích đoạn) văn xuôi,
thơ, kòch; nhớ và kể lại được nội dung của tác phẩm.
- Ghi được ý chính của bài đã nghe.
b. Nói
- Nói trong hội thoại:
+ Biết dùng lời nói phù hợp với các qui tắc giao tiếp trong gia đình, trong
nhà trường và nơi công cộng.
+ Biết giải thích rõ thêm về vấn đề đang trao đổi; tán thành, hay bác bỏ
một ý kiến.
- Nói thành bài:
+ Biết phát triển một chủ đề đơn giản trước lớp.
+ Biết cách giới thiệu về lòch sử, văn hoá, về các nhân vật tiêu biểu,…của
đòa phương với khách.
+ Thuật lại được một câu chuyện đã đọc hoặc một sự kiện đã biết; bước
đầu có kỹ năng thay đổi ngôi kể.
c) Đọc.
- Tốc độ tối thiểu khoảng 120 tiếng/ phút.

- Đọc thành tiếng và đọc thầm:
+ Biết cách đọc phù hợp với các loại văn bản khác nhau (nghệ thuật,
hành chính, khoa học, báo chí,…). Biết đọc một màn kòch hoặc một vở kòch ngắn
có giọng phù hợp với nhân vật và với tình huống kòch.
+ Biết đọc diễn cảm một bài thơ đã thuộc hoặc một đoạn văn đã học.
+ Đọc thầm với tốc độ nhanh hơn lớp 4.
- Đọc hiểu:
+ Biết tìm đại ý, tóm tắt bài văn, chia đoạn, rút ra dàn ý của bài.
+ Nhận ra các mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện trong bài.
+ Bước đầu biết đánh giá nhân vật, chi tiết và ngôn ngữ trong các bài tập
đọc có giá trò văn chương.
+ Hiểu các ký hiệu, viết dạng tắt, các số liệu trên sơ đồ, biểu đồ, bảng
hiệu, …
- Kỹ năng phụ trợ:
+ Biết dùng từ điển.
+ Biết ghi chép các thông tin đã học.
+ Thuộc lòng một số bài văn vần và đoạn văn xuôi.
d) Viết.
- Viết chính tả.
+ Biết viết chính tả với tốc độ 90 chữ /15 phút, chữ viết rõ ràng, trình bày
đúng quy đònh.
+ Biết lập sổ tay chính tả; hệ thống hoá các quy tắc chính tả đã học.
+ Biết viết tắc một số từ và cụm từ thông dụng.
+ Có ý thức khắc phục các lỗi chính tả phương ngữ.
-Viết bài văn:
+ Chuyển đoạn nói sang đoạn viết và ngược lại.
+ Biết là dàn ý và chuyển ý thành bài.
+ Biết cách tả cảnh, tả người; kể một câu chuyện đã làm hoặc chứng
kiến; viết đơn từ, biên bản.
+ Tự phát hiện và sửa một số lỗi trong bài văn.

e) Kiến thức Tiếng Việt và văn học (học thành tiết riêng).
- Về từ vựng:
+ Mở rộng vốn từ theo chủ điểm. Điểm nghóa một số yếu tố Hán Việt
thông dụng, một số thành ngữ.
+ Hiểu và bước đầu vận dụng được kiến thức về nghóa của từ (các hiện
tượng đồng nghóa, trái nghóa, chuyển nghóa, đồng âm) vào việc hiểu văn bản văn
học và thực hành nói, viết.
+ Biết vận dụng kiến thức đã học về các biện pháp tu từ so sánh và nhân
hoá vào việc hiểu văn bản văn học và thực hành nói, viết.
- Về ngữ pháp:
+ Nắm được đặc điểm và bước đầu biết cách sử dụng đại từ, quna hệ từ.
+ Nắm được cấu tạo của câu ghép và biết cách đặt câu ghép.
+ Hệ thống hoá kiến thức về câu và dấu câu đã học.
- Về văn bản:
+ Biết cách đặt đầu đề cho văn bản.
+ Biết cách liên kết câu và đoạn văn trong văn bản.
- Về văn học:
+ Có hiểu biết về cách gieo vần.
+ Làm quen với một số trích đoạn kòch.
1.2.Cấu trúc và nội dung Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 mới
a/.Khái quát
Sách giáo khoa (SGK ) Tiếng Việt 5 mới (2006 ) có cấu trúc tương tự Tiếng
Việt 4 ( 2005 ). Các nội dung học ở tất cả các phân môn đều lấy chủ điểm làm
trung tâm. Có 10 chủ điểm, trình tự như sau :
Tập 1
-Việt Nam- Tổ quốc em ( đất nước và con người Việt Nam )
-Cánh chim hoà bình ( tình hữu nghò giữa các dân tộc )
-Con người với thiên nhiên (quan hệ con người với thiên nhiên )
Giữ lấy màu xanh (bảo vệ môi trường )
-Vì hạnh phúc con người ( chống đói nghèo, lạc hậu )

Tập 2
-Người công dân (ý thức công dân )
-Vì cuộc sống thanh bình (trật tự và an ninh xã hội )
-Nhớ nguồn ( bản sắc dân tộc )
-Nam và nữ ( bình đẳng giới )
-Những chủ nhân tương lai ( ý thức về quyền trẻ em)
Từ chủ điểm, phân bố thành các đơn vò học nhỏ hơn là tuần. Mỗi tuần học đủ
các phân môn theo thứ tự : Tập đọc ( văn bản tự sự và đôi khi là văn bản kòch )
– chính tả – Luyện từ và câu – Kể chuyện – Tập đọc ( văn bản trữ tình, thường
là thơ hoặc bài văn miêu tả và một số là văn bản khoa học , nhật dụng ) – Tập
làm văn – Luyện từ và câu – Tập làm văn. Sau khoảng 7-9 tuần lại có một tuần
ôn tập, học sinh chủ yếu thực hành thông qua các bài tập có tính tổng hợp.
Cũng giống như lớp 4, các kiến thức lý thuyết được trình bày thật ngắn gọn,
hoặc chỉ nói ở sách dành cho giáo viên. SGK chủ yếu đưa ra văn bản và tình
huống để học sinh phân tích, rút ra bài học và thực hành theo gợi ý hoặc ví dụ
mẫu. Cách trình bày như vậy buộc học sinh phải động não khi học, phải tự mình
“làm ra kiến thức”. Điều đó có thể khó khăn cho các bậc phụ huynh muốn giúp
con em học bài vì không có dạng kiến thức được diễn giảng một cách kinh điển
như SGK cũ. Nhưng các bậc phụ huynh có thể tìm ở loại sách tham khảo dành
riêng cho phụ huynh để hướng dẫn con em mình.
b/.Phân môn Tập đọc
Phân môn tập đọc được thiết kế trên hai trục chính: chủ điểm và thể loại.
Trục chủ điểm gồm trục ngang – quan hệ giữa các chủ điểm của lớp 5, và trục
dọc – quan hệ với các chủ điểm đã học ở lớp dưới.
Trên trục ngang, các chủ điểm ở lớp 5 tập tryng vào ý thức công dân, bao
gồm trách nhiệm của mỗi con người đối với Tổ quốc và nhân dân ( Việt Nam –
Tổ quốc em, người công dân, nhớ nguồn ), đối với cộng đồng ( Vì hạnh phúc con
người, Vì cuộc sống con người ), đối với nhân loại ( Cánh chim hoà bình ), đối
với thiên nhiên – môi trường ( Con người với thiên nhiên,Giữ lấy màu xanh ), đối
với việc bình đẳng giới (Nam và nữ ), đối với chính bản thân (Những chủ nhân

tương lai ).
Trên trục dọc, các chủ điểm trong SGK Tiếng Việt 5 mang tính tổng hợp,
nâng cao các chủ điểm đã học từ lớp 1,2,3,4. Ví dụ :chủ điểm Việt Nam- Tổ quốc
em, Nhớ nguồn là tổng hợp các chủ điểm Bác Hồ, Nhân dân(lớp 2),Quê hương,
Bắc-Trung-Nam, Anh em một nhà, Bảo vệ Tổ quốc(lớp 3); chủ điểm Con người
với thiên nhiên, Giữ lấy màu xanh là sự tổng hợp và hoàn thiện các chủ điểm
Sông biển, Chim chóc, Bốn mùa, Bạn trong nhà(lớp 2), Thành thò – nông thôn,
Bầu trời – mặt đất(lớp 3). Chủ điểm Vì hạnh phúc con người là sự tổng hợp và
nâng cao của các chủ điểm Sáng tạo, Thể thao, Nghệ thuật, Lễ hội(lớp 3),
Thương người như thể thương thân, Trên đôi cánh mơ ước(lớp 4); chủ điểm Người
công dân, Những chủ nhân tương lai là sự nâng cao và hoàn thiện các chủ điểm
Em là học sinh( lớp 2), Măng non,Cộng đồng(lớp 3), Có chí thì nên, Măng mọc
thẳng(lớp 4), chủ điểm Cánh chim hoà bình là sự hoàn thiện và nâng cao của các
chủ điểm Bạn bè(lớp 2), Ngôi nhà chung(lớp 3), vv…
Trục dọc còn thể hiện ở mức độ yêu cầu cao hơn các lớp dưới. Ví dụ : trong
Tập đọc, ngoài việc tìm ý bài văn, Tiếng Việt 5 chú trọng câu hỏi tìm đặc điểm
nghệ thuật, cảm nhận cá nhân . Một số tác phẩm tập cho học sinh chuyển thể,
vừa để rèn luyện kỹ năng viết, vừa để tạo môi trường cho các em thâm nhập tác
phẩm sâu sắc hơn.
Trên trục thể loại, sách cân đối tỉ lệ giữa tự sự và trữ tình(ngoài ra có một
vài văn bản kòch), giữa văn xuôi và thơ, giữa văn hocï viết và văn học dân gian,
giữa văn bản nghệ thuật và các loại văn bản khác,…sao cho văn bản bàiTập đọc
phục vụ tốt cho việc học các phân môn khác cùng học trong thời gian đo.ù
1.3/.Mục tiêu, nội dung dạy học phân môn tập đọc lớp 5:
a./.Mục tiêu
Phân môn Tập đọc giúp học sinh:
-Củng cố, phát triển kỹ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các
lớp dưới; tăng cường tốc độ đọc, khả năng đọc lướt để nhận thông tin nhanh; khả
năng đọc diễn cảm.
-Phát triển kỹ năng đọc-hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một

số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật tính cách,… để hiểu ý nghóa của bài
và phát hiện một vài giá trò nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ.
-Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình
thành nhân cách của con người mới.
b./.Nội dung dạy học
-Củng cố, nâng cao kỹ năng đọc cho học sinh.
Thông qua một hệ thống văn bản thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật,
báo chí, khoa học, trong đó có 40 bài văn xuôi 2 vở kòch (trích), 18 bài thơ (có 4
bài ca dao ngắn được dạy trong cùng một tiết), phân môn tập đọc ở lớp năm tiếp
tục củng cố kỹ năng đọc trơn, đọc thầm, tiếp tục rèn luyện kỹ năng đọc diễn
cảm là kỹ năng được rèn luyện năm lớp 4.
Qua phần hướng dẫn sư phạm cuối mỗi bài tập đọc (bao gồm các mục giải nghóa
từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu, phân tích bài), phân môn tập đọc còn giúp học
sinh nâng cao kỹ năng đọc hiểu văn bản, cụ thể là:
+Nhận biết đề tài, hoặc chủ đề đơn giản của bài.
+Biết tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để nắm ý.
+Phát hiện giá trò của một số biện pháp nghệ thuật trong các tác phẩm
văn chương.
Cùng với các phân môn kể chuyện, tập làm văn, phân môn tập đọc còn xây
dựng cho học sinh thói quen tìm đọc sách ở thư viện, dùng sách công cụ (từ điển,
sổ tay từ ngữ, ngữ pháp) và ghi chép những thông tin cần thiết khi đọc.
-Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học
sinh.
Nội dung các bài tập đọc trong sách tiếng việt 5 phản ánh một số vấn đề lớn
đang đặt ra trước nhân dân ta và toàn nhân loại thông qua ngôn ngữ văn học và
những hình tượng giàu chất thẫm mỹ và nhân văn, do đó có tác dụng mở rộng
tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên, xã hội và đời sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm và nhân cách cho học sinh.
2/ Một số đặc điểm đổi mới về phương pháp dạy học tập đọc theo chương
trình mới

Những đổi mới của phương pháp dạy học tập đọc nằm trong quỹ đạo của đổi
mới phương pháp dạy học của chưong trình tiểu học, đó là:
-Chương trình tiểu học mới chuyển từ dạy học nặng về cung cấp kiến thức
sang dạy học gắn với thực hành, vận dụng, gắn với đời sống.
-Chưong trình dạy học mới đặt trọng tâm vào đổi mới cách dạy, cách học,
thực hiện dạy học dựa trên các hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS
với sự tổ chức, hưóng dẫn, hợp tác của GV, động viên HS tự phát hiện, tự giải
quyết vấn đề để tự chiếm lónh kiến thức và vận dụng chúng trong đời sống. Đổi
mới phương pháp dạy học đòi hỏi:
+Lựa chọn các nội dung dạy học cơ bản, thiết thực, tinh giản, tích hợp
được nhiều mặt giáo dục, gần gũi với đời sống của trẻ em, tạo hứng thú học tập
cho HS.
+Chuyển dạy học theo lối truyền đạt, đọc chép là chủ yếu thành các hoạt
động giáo dục trong đó HS là chủ thể của hoạt động với sự trợ giúp không thể
thiếu được của tài liệu học tập (đặc biệt là sách giáo khoa, vở bài tập ) và các
đồ dùng học tập với sự hướng dẫn hợp lý của GV.
+Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học, trong đó có: dạy học theo
lớp, theo nhóm nhỏ, dạy học ở các phòng học, ở thư viện, ở vườn trường, ở các
nơi khác của đòa phương, đặc biệt khuyến khích tổ chức các trò chơi học tập để
việc học tập gắn với đời sống thực tế, giảm bớt những căng thẳng không cần
thiết trong dạy học.
Phương pháp dạy học tập đọc mới đòi hỏi chúng ta phải xây dựng giờ học
thành một hệ thống việc làm mà việc thực hiện chúng như một lôgíc tất yếu sẽ
đem lại kết quả giờ học ởø phía HS.
3/ Tổ chức quá trình đọc hiểu văn bản cho HS tiểu học
Đọc hiểu văn bản bao gồm các hoạt động nhận diện, giải nghóa, hồi đáp văn
bản. Dạy đọc hiểu là hình thành ở HS những kỹ năng để tiến hành các hoạt
động này. Để HS có kỹ năng đọc hiểu cần phải tổ chức cho các em làm các
công việc:
a. Tìm hiểu đề tài của văn bản:

Đề tài làphạm vi hiện thực được phản ánh hoặc đề cập tới trong văn bản. Để
xác đònh được đề tài phải trả lời được câu hỏi: Văn bản nói về cái gì? Về việc
gì? Về ai?
b. Tìm hiểu tên bài:
Tên bài thường ngắn nhưng nói đến chúng ta nhiều điều. Nó giúp chúng ta
xác đònh được đề tài và phần nào đoán được nội dung văn bản.
c .Tìm hiểu từ ngữ trong bài:
Phát hiện ra từ mới và từ ngữ quan trọng, từ chìa khoá của bài để tìm hiểu.
Ví dụ, với bài “Bến nhà rồng” nếu học sinh không hiểu từ “hoa tiêu” cả nghóa
đen lẫn nghóa bóng thì không thể hiểu tại sao lại nói “Bác Hồ là người hoa tiêu
tài giỏi nhất”, tức không thể hiểu nội dung bài đọc, cũng là nguyên nhân nổi
tiếng của Bến Nhà Rồng.
Các thao tác học sinh cần thưc hiện để tìm từ mới, từ ngữ quan trọng trong
bài là:
-Đọc to hoặc đọc thầm toàn bài.
-Đánh dấu các từ chưa biết nghóa trong trong từng câu bằng cách loại bỏ các
từ đã biết nghóa hoặc cho, các từ có cấu tạo quen nhưng chưa biết nghóa.
-Chọn đánh dấu vào các từ quan trọng trong bài.
-Tìm các từ ngữ, hình ảnh có giá trò nghệ thuật (dành cho các văn bản văn
chương).
Làm rõ nghóa của từ ngữ: Để làm rõ nghóa của từ ngữ, học sinh chủ yếu phải
thực hiện các thao tác:
-Tìm nghóa của từ trong sổ tay từ ngữ, từ điển.
-Tìm nghóa của từ dựa vào hình vẽ, biểu bảng trong bài.
-Tìm nghóa của từ bằng cách đoán nghóa, bằng cách dưạ vào các từ ngữ đã
biết trong bài.
Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ hình ảnh.
d. Tìm hiểu câu, đoạn:
Xác đònh những câu quan trọng và đoạn ý:
Những câu quan trọng thường có nghóa hoàn chỉnh, mang tính độc lập cao,

không bò phụ thuộc vào các câu khác trong văn bản. Chúng được gọi là những
câu tự nghóa. Ví dụ, “Ngày xưa, cách đồng lúa trông thật đẹp mắt” (Cánh đồng
lúa chín-Tiếng Việt 2) hoặc “Chính là mẹ của các loài cây” (Cây trong vườn –
Tiếng Việt 3) ;những câu trực tiếp bộc lộ tư tưởng chủ đề tác phẩm như: “Vàng
bạc châu báu lạnh lẽo không bù lại được tình thương ấm áp của bà” (Bà Cháu-
Tiếng Việt 2)
-Nhận diện đoạn ý rất quan trọng vì nó giúp học sinh bước đầu ghi nhớ
những điểm chung nhất của từng phần trong văn bản, tạo cơ sở để các em hiểu
nội dung văn bản .
-Làm rõ nội dung câu, đoạn :
+Làm rõ nghóa của câu.
+Làm rõ nghóa đoạn ý.
đ.Tìm hiểu nội dung chính và mục đích thông báo của văn bản:
-Làm rõ ý của văn bản, học sinh có điều kiện làm rõ đích tác động của người
viết văn bản.
-Làm rõ đích thông báo của văn bản.
e.Rèn kỹ năng hồi đáp văn bản:
Rèn kỹ năng hồi đáp văn bản sẽ tạo cho học sinh khả năng chủ động và sáng
tạo trong việc lónh hội văn bản, từ đó hình thành cho các em tư duy phê phán và
tư duy sáng tạo. Vì vậy, tuỳ từng bài, tuỳ trình độ học sinh mà ta đặt ra trọng
tâm tìm hiểu sao cho học xong chương trình tập đọc ở tiểu học, học sinh có
những kỹ năng đọc hiểu văn bản, sử dụng được công cụ “đọc” thành thạo để
tiến hành hoạt động học không những trong giờ tập đọc mà còn học tập các môn
học khác và để tự học suốt đời.
4/Tổ chức các hoạt động dạy học trong giờ tập đọc lớp 5:
4.1.Kiểm tra bài cũ:
Mục đích:Kiểm tra và củng cố việc đọc thành tiếng và đọc hiểu nội dung bài
đã học.
Hình thức thực hiện :
-Kiểm tra đọc thành tiếng :

+Yêu cầu học sinh đọc một đoạn hoặc cả bài đã học.
+Yêu cầu học sinh thực hiện một bài tập luyện đọc thành tiếng : nhận
xét giọng đọc, ngữ điệu ( cách ngắt nghỉ, chỗ nhấn,…) của đoạn vừa đọc .
-Kiểm tra đọc hiểu : Yêu cầu học sinh thực hiện một bài tập đọc hiểu về nội
dung, đoạn bài vừa đọc. Thời gian kiểm tra tiến hành từ 3-5 phút. Số lượng học
sinh kiểm tra có thể từ 2-3 học sinh.
4.2.Bài mới :
- .Giới thiệu bài:
+Mục đích : Giới thiệu nội dung chính của tiết học, gây hứng thú cho học
sinh.
+Cách giới thiệu bài:
Có thể dùng tranh minh hoạ, dùng câu hỏi gợi mở hoặc liên hệ với bài cũ để
giới thiệu bài. Tuy nhiên lời giới thiệu cần ngắn gọn, nhẹ nhàng, gây hứng thú
cho học sinh nhưng tránh rườm rà, cầu kỳ gây mất nhiều thời gian của bài tập
đọc.
- .Hướng dẫn HS luyện đọc và tìm hiểu bài :
+.Đọc mẫu :
Mục đích: Đònh hướng về cách đọc cho HS.
Cách thực hiện: Giáo viên có thể chỉ đònh HS khá giỏi đọc làm mẫu trước.
Giáo viên chỉ nên đọc mẫu toàn bài khi cả lớp đã hoàn thành bước luyện đọc
tiếng.
+.Đọc từng đoạn trước lớp :
Mục đích: tạo ra một mẫu đọc đúng trước lớp, giúp HS nắm nghóa một số từ
ngữ mới, từ ngữ khó,
Cách thực hiện :
.Cho HS nối tiếp nhau đọc từng đoạn trước lớp, có thể tiến hành 2-3 lượt
đối với bài tập đọc trong hai tiết, 3-4 lượt đối với bài tập đọc ngắn
.Giáo viên theo dõi HS đọc để hướng đẫn cách nghỉ hơi, cách ngắt nhòp
thơ, đọc đúng ngữ điệu, tập phân biệt lời người dẫn chuyện với lời nhân vật, lời
các nhân vật với nhau, kết hợp hướng dẫn HS tìm hiểu nghóa của các từ ngữ mới

trong bài. Yêu cầu giải nghóa từ cũng cần đọc tiến hành một cách nhẹ nhàng phù
hợp với đối tượng HS, đúng với đặc trưng của phân môn tập đọc, tránh bày vẽ ra
những biện pháp giải nghóa từ cồng kềnh gây mất nhiều thời gian .
+.Đọc từng đoạn trong nhóm(đối với bài dài có thể chuyển phần này sang
phần hướng dẫn HS đọc diễn cảm ).
Mục đích :Tạo điều kiện cho 100% HS trong lớp được đọc văn bản .
Cách thực hiện :Tuỳ theo nội dung của bài tập đọc hoặc tuỳ theo điều kiện
của lớp học, GV có thể cho học sinh đọc nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4. GV cần lưu ý
HS đọc với âm lượng vừa phải để tránh ảnh hưởng đến các nhóm khác.
+Hướng dẫn HS tìm hiểu bài :
Mục đích : Giúp HS hiểu được nội dung bài.
Cách thực hiện :
. GV cần nêu rõ câu hỏi hoặc giao nhiệm vụ cụ thể cho HS trước khi đọc.
.Tổ chức cho HS làm việc cá nhân hoặc theo cặp, theo nhóm để trả lời
câu hỏi hoặc bài tập.
. Tổ chức cho HS báo cáo kết quả bằng nhiều hình thức khác nhau.
.Trao đổi với HS, sửa lỗi cho HS hoặc tổ chức để HS giải đáp cho nhau,
góp ý cho nhau, đánh giá nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tìm hiểu bài.
. Sơ kết, tổng kết ý kiến HS; ghi bảng nếu cần thiết.
+Hướng dẫn HS đọc diễn cảm (đối với văn bản nghệ thuật ) hoặc luyện đọc
lại ( đối với văn bản thông thường ).
Mục đích : Nâng cao một bước về chất lượng đọc cho HS.
Cách thực hiện :
. Đọc diễn cảm : Hoạt động này được tiến hành đối với những văn bản
nghệ thuật ở lớp 4,5 sau khi HS đã đạt được những yêu cầu tối thiểu của trình độ
đọc, sau khi đã tìm hiểu bài và nắm được nội dung chính của đoạn, bài. Khi thực
hiện hoạt động này, giáo viên cần hướng dẫn HS luyện tập theo từng bước theo
mức độtừ thấp đến cao với các yêu cầu sau:
.Biết nhấn giọng được các từ ngữ gợi cảm, gợi tả, những từ ngữ quan
trọng, những từ chìa khoá của bài.

.Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp vơiù từng kiểu câu.
.Biết phân biệt lời kể với lời nhân vật.
+Biết phân biệt các lời nhân vật phù hợp với lứa tuổi và tính cách nhân
vật.
+Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp vói tình huống miêu tả hay thái độ,
cảm xúc của tác giả.
Luyện đọc lại:
Được tiến hành sau khi HS đã nắm được nội dung bài học. Dựa vào trình độ
đọc của HS và đặc điểm của bài tập đọc, giáo viên lựa chọn hình thức luyện đọc
lại cho phù hợp.
VD: Luyện đọc lại đoạn và cả bài, luyện đọc theo lối phân vai, tổ chức trò chơi
luyện đọc
-Củng cố, dặn dò :
+Củng cố nội dung chính của bài và giáo dục tư tưởng.
+Giáo viên nhận xét chung về giờ học,lưu ý học sinh chỗ cần luyện tập
thêm và dặn dò việc chuẩn bò cho tiết sau.
CHƯƠNG II
ĐỀ XUẤT NHỮNG ĐIỀU CHỈNH NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY
ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5-BÀI : HỘP THƯ MẬT.
I/ Thực tiễn việc dạy đọc hiểu cho HS lớp 5 hiện nay
1.Sách giáo khoa Tiếng Việt 5
-Thuận lợi:Trong sách Tiếng Việt 5, việc dạy học kỹ năng đọc cho HS được
thực hiện thông qua hệ thống văn bản thuộc các loại hình nghệ thuật, báo chí,
khoa học được tuyển chọn phù hợp với các chủ điểm được học, bao gồm 40 bài
văn xuôi, 2 vở kòch (trích), 18 bài thơ. Cũng như các lớp dưới, qua việc luyện
đọc và tìm hiểu nội dung bài đọc, HS có thêm hiểu biết về thiên nhiên, xã hội
và con người, được mở rộng vốn từ, nâng cao khả năng diễn đạt, trang bò một số
hiêu biết ban đầu về tác phẩm văn học,…Tuy nhiên ở lớp 5, việc luyện đọc đã
chú ý đến nhiều đến yêu cầu biểu cảm và câu hỏi tìm hiểu bài cũng chú trọng
khai thác các chi tiết có giá trò nghệ thuật nhiều hơn. Cụ thể là đối với những bài

đọc thuộc loại hình nghệ thuật, bên cạnh những câu hỏi yêu cầu HS tìm thông
tin, nhận biết từng phần nội dung bài, sách đã đưa ra các câu hỏi để HS tập dượt
kó năng đọc hiểu theo những yêu cầu dưới đây :
+Tìm hiểu từ ngữ.
+Cảm nhận hình ảnh.
+Khai thác hàm ý của lời nói.
+Phát biểu nhận xét về nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ thuật …
Như vậy sách tiếng Việt 5 đã thực sự đóng vai trò là bước chuẩn bò quan
trọng cho HS tiểu học tự tin bước vào những cấp học trên. Những câu hỏi tìm
hiểu cái hay cái đẹp của bài văn, bài thơ trở thành điểm nhấn của giờ tập đọc.
Qua hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài nêu trên, các em HS tiểu học được tập dượt
kó năng đọc – hiểu văn bản nghệ thuật một cách bài bản. Nhiều bài đọc có giá
trò thẩm mó cao sẽ theo các em suốt tuổi học đường, góp phần hình thành ở các
em hứng thú khám phá vẻ đẹp muôn màu của thế giới văn học nghệ thuật.
-Khó khăn :Các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa(phân môn tập đọc) chỉ
yêu cầu HS một phương thức hành động duy nhất : dùng lời. Nhược điểm của
hành động bằng lời là tại một thời điểm chỉ có thể có một HS được nói, những
HS không được gọi đọc và trả lời câu hỏi thì chỉ ngồi nghe. Hành động “ nghe “
vốn thụ động, kết quả nghe không được thể hiện ra bên ngoài nên giáo viên
không kiểm soát được, HS hoạt động không tích cực, giảm hứng thú học tập.
Bên cạnh đó, ở một số bài còn có những câu hỏi dạng suy luận, đó là những câu
hỏi khó so với trình độ của HS, nhất là HS vùng nông thôn.
2. Thực trạng dạy của giáo viên:
*Ưu điểm:
Qua dự giờ, trao đổi với các đồng nghiệp và trò chuyện với HS, kết hợp với
kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy những ưu điểm nổi bật trong quá trình
dạy tập đọc nói chung và dạy đọc hiểu nói riêng như sau:
-Nhìn chung GV có chuẩn bò và đầu tư cho tiết dạy.
-Trong quá trình hướng dẫn HS đọc hiểu, GV đã giúp các em hiểu nghóa
một số từ ngữ ( từ ngữ mới, từ ngữ quan trọng, từ ngữ phổ thông ma øHS đòa

phương chưa quen.).
-GV đã dùng nhiều hình thức tổ chức dạy đọc hiểu như làm việc cá nhân
hoặc làm việc theo cặp, theo nhóm, làm việc cả lớp.
-Đối với những câu hỏi mang tính tổng hợp, GV đã tách ra thành những
câu hỏi nhỏ để giúp HS thực hiện dễ dàng hơn.
*Tồn tại:
Trong thực tế dạy tập đọc hiện nay, GV chưa chú trọng đúng mức đến
phương pháp dạy đọc hiểu cho HS. Thực tế là GV chỉ nêu câu hỏi rồi chờ đợi
những câu trả lời đúng từ phía HS mà không biết , không quan tâm đến quá trình
tìm hiểu diễn ra như thế nào, HS làm gì và cần làm gì để có được câu trả lời. GV
chỉ quan tâm đến kết quả- các nội dung, kiến thức bài đọc đem lại mà không
quan tâm đến phương pháp để đạt được kết quả này.Nếu HS trả lời sai hoặc
chưa đủ thì GV giảng giải, có cô giáo máy móc đến mức khi HS đáp đúng nội
dung bài nhưng câu từ không giống trong đáp án của câu (mà thực ra câu trả lời
đã có sẵn trong sách giáo viên) thì vẫn không chấp nhận. Nhiều GV thường băn
khoăn: có sử dụng phiếu bài tập hay không, cho HS đọc đoạn văn lên rồi mới
hỏi nội dung của nó hay cho HS trả lời câu hỏi rồi mới đọc thành tiếng câu văn?
Có GV thậm chí không dám bỏ bớt hay thêm vào một câu hỏi nào của sách giáo
khoa. Họ quá lệ thuộc vào sách giáo khoa và sách giáo viên . Nhiều giáo viên
cứ làm theo những gì có sẵn trong sách mà không hề sáng tạo, không hề chú ý
đến đặc điểm trình độ của HS lớp mình.
3. Thực trạng học của HS:
* Ưu điểm: Qua quan sát quá trình học tập của HS trong nhà trường bằng
hình thức dự giờ, kiểm tra chất lượng, tôi thấy rằng phần lớn các em đọc to,
đúng, khá trôi chảy, một vài em bước đầu biết đọc diễn cảm.Nhiều em trả lời
được các câu hỏi dạng yêu cầu tái hiện chi tiết, hình ảnh đã có sẵn trong văn
bản.Ví dụ:Bạn nhỏ yêu những sắc màu nào?(Sắc màu em yêu – Tiếng Việt 5-
tập 1).
* Tồn tại: Số HS biết đọc diễn cảm, đọc hay chưa nhiều . Vì vốn từ, vốn
sống còn ít, lại ở nông thôn nên sự tiếp nhận văn học của các em còn hạn chế.

HS khó có thể trả lời được các câu hỏi khái quát, câu hỏi yêu cầu làm rõ nghóa
và cái hay của từ ngữ, câu, đoạn, bài, hình ảnh; những bài tập yêu cầu HS phải
biết cắt nghóa, biết khái quát hoá, suy ý để rút ra được các ý nghóa trong văn bản
hoặc trong tác phẩm. Ví dụ:Câu hỏi 4: Hoạt động trong vùng đòch của các chiến
só tình báo có ý nghóa như thế nào đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc?(Hộp thư
mật – Tiếng Việt 5 – Tập 2). Qua thể nghiệm, một lớp có 32 HS thì chỉ có vài
em trả lời gần đúng. Nhưng nếu chúng ta chuyển thành dạng bài tập trắc nghiệm
khách quan như sau:
Hoạt động trong vùng đòch của các chiến só tình báo có ý nghóa như thế nào
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc?
a. Giúp ta có thông tin mật từ phía kẻ đòch, hiểu ý đồ của kẻ đòch.
b. Giúp ta có thêm nhiều vũ khí hiện đại.
c. Giúp ta kòp thời ngăn chặn, đối phó với kẻ đòch.
d. Giúp ta lập kế hoạch tối ưu để đánh lại kẻ đòch, chắc chắn thắng mà tốn ít
xương máu.
thì tất cả HS trong lớp lại chọn được ý đúng.
II/ Đề xuất biện pháp dạy đọc hiểu cho HS lớp 5.
Từ thực trạng việc dạy đọc hiểu trên, tôi mạnh dạn đề xuất biện pháp dạy
đọc hiểu cho HS lớp 5 bằng hệ thống bài tập trắc nghiệm kết hợp với bài tập
dùng lời. Giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu bài học và đối tượng HS lớp mình
để xây dựng hệ thống bài tập hướng dẫn HS tìm hiểu bài. Giáo viên phải dự tính
được hết những khó khăn của HS và soạn thảo những câu hỏi gợi mở, những câu
hỏi, bài tập dự trữ nhằm giảm độ khó cho HS. Giáo viên có thể dễ dàng chuyển
câu hỏi trong sách giáo khoa thành bài tập trắc nghiệm và ngược lại trong trường
hợp không thể sử dụng phiếu bài tập, chúng ta cũng dễ dàng chuyển bài tập trắc
nghiệm về dạng bài tập dùng lời. Tuỳ theo từng bài, giáo viên nên bổ sung thêm
những câu hỏi dẫn dắt giúp HS tìm hiểu bài một cách có hệ thống, những câu
hỏi nhằm nêu bật được nội dung chính của bài.
1.Yêu cầu của bài tập trắc nghiệm và cách soạn thảo:
Khi xây dựng bài tập, giáo viên phải xác đònh được mục đích, cơ sở xây dựng

bài tập, phải có lời giải mẫu, phải dự tính được khó khăn và sai phạm của học
sinh nếu mắc phải khi giải bài tập và biết chuyển đổi hình thức bài tập khi cần
thiết.
+Mục đích của bài tập trắc nghiệm là những kiến thức, kỹ năng cần đem
đến cho học sinh. Giáo viên phải xây dựng bài tập sao cho đáp án của nó chính
là kiền thức cần đạt, sao cho trong quá trình giải bài tập, học sinh có được kỹ
năng chúng ta cần hình thành. Như vậy, khi xây dựng bài tập thì đáp án của nó
cũng chính là mục đích của bài tập phải có trước.
+Cơ sở của bài tập là những căn cứ mà ta phải dựa vào đó để soạn thảo.
Đó là cơ sở khoa học và cơ sở sư phạm.
Cơ sở khoa học đảm bảo cho bài tập có tính chính xác, đúng đắn. Tính khoa
học đòi hỏi kiến thức trình bày trong bài tập phải đúng, chính xác. Tính khoa
học đòi hỏi người soạn thảo bài tập phải biết sâu sắc mặt âm thanh và mặt nghóa
của văn bản.
Cơ sở sư phạm đảm bảo cho bài tập có khả năng thực thi, có tính “vừa sức”.
Tính sư phạm đòi hỏi bài tập phải phù hợp với học sinh. Ngôn ngữ trong lệnh bài
tập phải giản dò, dễ hiểu, bài tập phải có độ khó vừa phải. Yêu cầu này giáo
viên phải rất hiểu đối tượng học sinh của mình.
Bên cạnh tính khoa học và tính sư phạm, bài tập còn phải có tính thú vò. Các
bài tập được dùng trong giờ tập đọc phải đa dạng, phong phú để làm cho học
sinh không cảm thấy đơn điệu, nhàm chán.
2 Một số phiếu bài tập:
2.1.Thư gửi các học sinh
(Tiếng Việt 5-tập 1)
1)Dòng nào không nêu đúng điểm đặc biệt của ngày khai trường tháng 9 năm
1945 so với các ngày khai trường khác?
a. Ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau 80
năm bò giặc Pháp đô hộ.
b. Ngày khai trường mà các em học sinh với quần áo mới đến trường.
c. Từ ngày khai trường này, các em học sinh được hưởng một nền giáo dục

hoàn toàn Việt Nam.
2)Câu nào nêu trên đúng với nhiệm vụ của người học sinh trong công cuộc kiến
thiết đất nước?
a. Cố gắng siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy yêu bạn để góp
phần xây dựng đất nước làm cho đất nước theo kòp các nước trên thế giới,
sánh vai với các cường quốc năm châu.
b. Góp công sức và tiền của để xây dựng lại trường học bò phá hoại trong
chiến tranh.
c. Nước nhà trông mong, chờ đợi học sinh rất nhiều.
3)Em hiểu được điều gì quan trọng nhất từ bức thư này?
a. Tháng 9 năm 1945 nước nhà độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của thực dân
Pháp.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×