Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện (1986 - 1996) , đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.95 KB, 5 trang )

Vấn đề 3 : Vận dụng lý luận về mối quan hệ giữa chính trị với
kinh tế để phân tích bài học : “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị” (trang 71, NQĐH VIII).
BÀI LÀM
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện (1986-1996) ,
đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách, gay go, khủng hoảng
trầm trọng về kinh tế xã hội. Trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn
phức tạp đó, nhân dân ta không những đứng vững, kiên trì tiến lên CNXH
mà còn vươn lên đạt thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để tổng kết chặng
đường đổi mới những năm qua, trong văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã đánh
giá và rút ra một số bài học chủ yếu. Một trong những bài học đó là: “kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Để nắm vững
mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo quan điểm CN Mác-
Lênin và hiểu rõ sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị với
chính trị của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, góp phần
đấu trung thực phê phán những quan điểm tư tưởng và hành động lệch lạc
như : tuyệt đối hoá sức mạnh chính trị, hoặc khuynh hướng tuyệt đối hoá
tự do kinh tế, buông lỏng, xem nhẹ sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý của
nhà nước đối với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế; chúng ta hãy
phân tích làm rõ mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế .
1. Khái niệm chính trị, kinh tế:
Chính trị là những công việc nhà nước hay xã hội. Phạm vi hoạt động
gắn với những quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhóm xã
hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền
lực nhà nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ
bản là lợi ích kinh tế) giữa các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia,
dân tộc mà việc thực hiện lợi ích đó phải thông qua quyền lực nhà nước.
Trong chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực nhà
nước) luôn là mục tiêu của các giai cấp. Khi nắm được quyền lực chính trị,


quyền lực nhà nước tức là nắm được công cụ cơ bản nhất để giải quyết
các vấn đề lợi ích của các giai cấp. Do vậy, xét từ góc độ quan hệ với kinh
tế thì vấn đề chính trị thực chất cũng chính là vấn đề kinh tế bởi vì giải
quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến động lực của sự
phát triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết luận : quan hệ chính trị xét về bản
chất là do quan hệ kinh tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính
nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các lợi ích chính trị. .
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của
một nền kinh tế quốc dân, mà cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản : quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao động XH,
quan hệ phân phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và
sâu xa nhất của xã hội loài người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác
trong xã hội đều được quy định bởi lĩnh vực kinh tế, vì vậy nó quyết định
chế độ chính trị và quyết định quyền lực nhà nước.
2. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế :
a. Vai trò của kinh tế với chính trị :
Quan hệ chính trị với kinh tế là mối quan hệ biện chứng luôn có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Trong quá trình đổi mới đất nước, khi xác định
đường lối phát triển giữa chính trị và kinh tế, Đảng ta khẳng định “lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm”. Điều này xuất phát từ quan điểm kinh tế là nền
tảng của chính trị, kinh tế bao giờ cũng quyết định chính trị và điều này
được khẳng định hoàn toàn trong lý luận cũng như trong thực tiễn.
Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng quy định
cấu trúc, tính chất của kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Kinh tế là nhân tố cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi chính
trị là nhân tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì vậy các quan hệ kinh tế
là quy định các quan hệ chính trị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế xã
hội chiếm hữu nô lệ thì với quan hệ sản xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ,
thể chế chính trị thuộc về giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế xã hội TBCN
thì với quan hệ sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa, thể chế chính trị

thuộc về giai cấp tư sản và ở CNXH thì thể chế chính trị thuộc về giai cấp
công nhân
Có thể khẳng định rằng kinh tế luôn quyết định chính trị mà trước hết,
nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất, tác động đến đời sống chính trị
chính là hệ thống các quan hệ sở hữu. Nếu quan hệ sở hữu thay đổi về
căn bản và cùng với nó là sự thay đổi các quan hệ kinh tế khác mà trước
hết nó làm biến đổi bản chất của hệ thống các quan hệ sản xuất. Hệ thống
các quan hệ SX khi đã thay đổi về căn bản sẽ dẫn đến thay đổi căn bản
chế độ chính trị, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Kinh tế thay
đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính trị, thậm chí một vấn đề kinh tế không
lớn nhưng có thể trở thành một vấn đề chính trị phức tạp, có thể làm đảo
lộn đời sống chính trị, xã hội. Lực lượng nào, giai cấp nào nắm kinh tế thì
lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị, chi phối đời sống xã hội.
Ngược lại, nếu một giai cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền lực chính
trị mà không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn
cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực chính trị. Chính vì vậy, Lênin viết
“Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Đằng sau các quan hệ
chính trị là các quan hệ kinh tế, các quan hệ lợi ích kinh tế.
1
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” xuất phát từ sự hình
thành, tồn tại, phát triển và các hình thức, hoạt động chính trị là kết quả tất
yếu của sự vận động của kinh tế và chính trị phải mang trong nó những
quy luật kinh tế khách quan. Điều đó có nghĩa là : nó phải phản ánh được
lợi ích kinh tế của giai cấp và phản ánh được bản chất của một chế độ
kinh tế, nó phản ánh cái cốt lõi (cơ bản), bền vững trong kinh tế. Bên cạnh
đó chính trị phải phản ánh một cách khái quát tất cả các khuynh hướng
kinh tế nhưng nó phải làm nổi bật khuynh hướng chủ đạo. Đồng thời chính
trị cũng phải phản ánh được ý chí sức mạnh, sự đoàn kết của một giai cấp
để thực hiện được lợi ích kinh tế của chính giai cấp mình.
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, điều đó đòi hỏi chính trị

và hệ thống chính trị phải mang trong mình nó những quy định kinh tế
khách quan, có nghĩa là chính trị phản ánh những yêu cầu, điều kiện của
kinh tế khách quan, sự phản ánh đó thể hiện trong cấu trúc hệ thống chính
trị, trong phương thức hoạt động của các thành tố hệ thống chính trị, trong
các quyết sách chính trị.
Kinh tế là gốc của chính trị, ở góc độ nào đó nó là sự thể hiện tính ưu
việt của chính trị cũng như sự phù hợp của chính trị với kinh tế. Với ý nghĩa
đó, ở mọi thời đại, nếu không giải quyết thỏa đáng các quan hệ kinh tế, lợi
ích kinh tế, không phát triển được kinh tế thì sự vận động của chính trị có
thể sẽ gặp trở ngại, thậm chí đi đến thất bại. Thực tiễn cách mạng thế giới
cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và
hệ thống các nước XHCN Đông Âu chính là do suy thoái, khủng hoảng kinh
tế trầm trọng dẫn đến những biến động lớn về chính trị, làm tan rã chế độ
XHCN tại các nước này.
b. Vai trò của chính trị với kinh tế :
Trong quá trình đổi mới, song song với việc lấy “đổi mới kinh tế làm
trọng tâm”, Đảng xác định phải từng “đồng thời từng bước đổi mới chính
trị”. Quan điểm này xuất phát từ chính trị mặc dù bị kinh tế quyết định
nhưng chính trị lại có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại kinh
tế rất mạnh mẽ sự tác động độc lập của chính trị đến kinh tế.
Về mặt lý luận : khi nhấn mạnh vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định
rằng kiến trúc thượng tầng (chính trị) có tính độc lập tương đối và có sự
tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng (kinh tế). Về mặt thực
tiễn: do nhận thức được quy luật kinh tế khách quan, kiến trúc thượng tầng
(chính trị) có vai trò định hướng cho quy luật kinh tế, mang lại phương án
tối ưu cho phát triển kinh tế và phục vụ vì lợi ích của giai cấp. Với ý nghĩa
đó, chính trị ra đời tồn tại và phát triển trên cơ sở nó có vai trò to lớn tác
động đến kinh tế theo những quy luật kinh tế khách quan
Biểu hiện sự tác động của chính trị đối với kinh tế : Một là chính trị định

hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách quan, lựa chọn mô
hình chiến lược phát triển kinh tế, tham gia vào việc điều tiết, lựa chọn tốc
độ phát triển kinh tế. Hai là vai trò tác động của chính trị tác động đến các
chủ thể kinh tế : mỗi chủ thể kinh tế có vai trò, địa vị, lợi ích riêng, vì vậy,
chính trị phải có sự kiểm soát, tạo điều kiện tác động cho các chủ thể kinh
tế phát triển và tạo điều kiện cho họ góp phần vào việc thực hiện lợi ích
chung. Ba là vai trò của cơ cấu tổ chức và phương thức tổ chức, quản lý
con người-xã hội đối với kinh tế để phát huy được vai trò của nhân tố con
người
Từ những tác động trên của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng “Chính
trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Luận điểm này khẳng
định tính ưu tiên cho chính trị so với kinh tế, tức là kết quả đạt được về
phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát triển thành quả
chính trị đạt được (củng cố và phát triển hệ thống chính trị). Khi giải quyết
các vấn đề kinh tế thì phải góp phần duy trì củng cố quyền lực chính trị.
Mặt khác, trong kinh tế dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn
giữ vững hệ tư tưởng chính trị vì hệ tư tưởng chính trị quy định phương
hướng mục tiêu, bản chất của chế độ xã hội. Trong điều kiện cách mạng
XHCN, sự ưu tiên của chính trị so với kinh tế là tất yếu để xây dựng
CNXH : đó chính là giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị và xây dựng
nền kinh tê mới. Luận điểm này cũng cho thấy phải có quan điểm chính trị
khi giải quyết các vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của nhà nước đối với phát triển kinh tế là tất yếu khách quan.
Chính trị phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so với kinh tế vì chính trị có
khả năng can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo hai hướng : một là
nếu chính trị tác động cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị
có vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Hai là nếu chính trị
tác động ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản

đối với sự phát triển kinh tế.
Vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ dừng lại ở đó.
Trong nhiều trường hợp dù đã có quyết sách chính trị đúng đắn (phản ánh
đúng thực trạng và qui luật khách quan của kinh tế), nhưng trình độ năng
lực tổ chức chỉ đạo thực tiễn phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
không vươn tới ngang tầm với nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có
thể cản trở kinh tế hoặc để cho kinh tế phát triển chệch hướng, trái với
đường lối chính trị đã lựa chọn. Vì thế chính trị cũng phải tự đổi mới, phải
có cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, thiết chế vận hành phù hợp với
cơ sở kinh tế.
2
3. Vận dụng của Đảng ta :
Nhìn lại quá trình Đảng lãnh đạo đất nước từ trước năm 1986, chúng ta
thấy rằng tình hình nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung đã có
thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò của đường lối chính trị, duy trì quá
lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự phát
triển kinh tế và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động
trái quy luật “kinh tế quyết định chính trị” khi cho rằng mâu thuẫn nổi lên ở
đầu thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến với quan hệ
sản xuất lạc hậu, do đó phải đẩy mạnh cải tạo quan hệ sản xuất (mà trong
đó chủ yếu là cải tạo xóa bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN) nhằm làm
cho quan hệ sản xuất phù hợp với chế độ chính trị tiên tiến. Từ đó nảy sinh
ra mâu thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất ,
nhiệm vụ công nghiệp hóa được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa
có đủ các tiền đề cần thiết. Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn
đến nền kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng.
Rút kinh nghiệm từ những thất bại ấy, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần VI,
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo hài hòa giữa 2 khuynh hướng tác động của
chính trị với kinh tế để đề ra công cuộc đổi mới đất nước toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện đổi mới kinh tế và đổi mới

chính trị, Đảng ta khẳng định phải “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị” xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin : giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế
nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng trong xã hội
để tạo ra năng suất cao, hàng hóa nhiều đáp ứng nhu cầu cần thiết của
nhân dân, tạo ra cơ sở vững chắc để đổi mới chính trị. Ngược lại đổi mới
chính trị sẽ củng cố và phát huy những thành tựu của đổi mới về kinh tế,
tuy bước đi của từng lĩnh vực có khác nhau nhưng trong bất kỳ trường hợp
nào cũng phải đảm bảo sự ổn định về chính trị, tránh tình trạng hỗn loạn
như đã xảy ra ở một số nước trong thời gian qua.
Đổi mới kinh tế và chính trị, đây là hai mặt cơ bản nhất của xã hội, là sự
nghiệp đầy khó khăn và phức tạp, là quá trình vừa làm, vừa tìm tòi sáng
tạo. Do vậy, phải thấy rõ mối quan hệ giữa hai lĩnh vực đó để có những
bước đi thích hợp, tác động hỗ trợ lẫn nhau.
1. Khi xác định “đối mới kinh tế là trọng tâm”, trên tổng thể, Đảng ta
bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường
lối và các chính sách đối nội, đối ngoại, không có sự đổi mới này thì không
có mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào
việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
kinh tế xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn
định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để
đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Bởi vì do tính chất kinh tế quy
định chính trị nên xây dựng và duy trì quyền lực chính trị của Đảng, chế độ
XHCN trước hết phải xây dựng từ cơ sở nền tảng của nó, tức là xây dựng
một chế độ kinh tế XHCN vững mạnh.
Để chính trị phản ánh tập trung kinh tế, Đảng và nhà nước ta đã xác
định phải nhận thức một cách khoa học thực trạng kinh tế và những quy
luật kinh tế, lựa chọn hình thức tổ chức, chính sách phù hợp bảo đảm phát
huy tối ưu tác dụng của các quy luật kinh tế và đang tập trung xây dựng tri

thức khoa học để giác ngộ quần chúng hành động phù hợp quy luật. Với
luận điểm đó, Đảng ta đã xác định lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm và tuỳ
theo yêu cầu đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới về chính trị. Chủ
trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, dưới
sự lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ quá độ là một bước đột phá về đổi
mới cơ cấu sở hữu từ một thành phần kinh tế, một chế độ sở hữu sang
nhiều thành phần kinh tế, đa thành phần sở hữu. Sự đổi mới này là hợp lý,
phù hợp với quy luật khách quan, cho phép giải phóng được tối đa mọi
năng lực sản xuất, có được một nền kinh tế phát triển năng động, giàu sức
sống và hiệu quả cao, mang lại hạnh phúc ấm no cho mọi tầng lớp nhân
dân. Thực tế đã chứng minh định hướng về đường lối kinh tế trên của
Đảng là đúng đắn và tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.
Do tính quyết định của kinh tế đối với chính trị, Đảng đã nhận thức rõ
rằng khi nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại suốt thời kỳ quá độ, trong đó
có cả thành phần kinh tế XHCN lẫn TBCN thì kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể phải giữa vai trò chủ đạo; nếu như trong nền kinh tế nhiều thành phần
đó chúng ta không củng cố, xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành
một thành phần kinh tế mạnh, chủ đạo, có khả năng chi phối các thành
phần kinh tế khác thì khó đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây
cũng là vấn đề nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
cũng như trong suốt thời kỳ quá độ, bởi vì thành phần kinh tế XHCN đóng
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế sẽ là cơ sở cho tồn tại vững chắc của hệ
thống chính trị XHCN.
Mặt khác, để đảm bảo sự phát triển kinh tế đúng định hướng, vai trò
lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững. Đảng ta không chấp nhận đa
nguyên, đa đảng là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu XHCN, vì mục tiêu ấy
chỉ có thể thực hiện trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Nước ta
hiện nay sự lãnh đạo duy nhất của Đảng ta là hoàn toàn hợp lý. Một Đảng,
nhất nguyên chính trị là điều kiện đảm bảo sự ổn định chính trị để phát triển

kinh tế. Song, để lãnh đạo tốt kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời
sống XH, Đảng phải tự đổi mới vươn lên ngang tầm nhiệm vụ. NQ TW6
3
(lần 2) khoá VIII chủ trương tăng cường công tác phê bình, tự phê bình,
chỉnh đốn Đảng là nhằm làm trong sạch phẩm chất, đạo đức, lối sống của
cán bộ, Đảng viên để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đây
là yêu cầu bắt buộc của Đảng trong tình hình mới hiện nay
Từ chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đã có ý kiến cho
rằng : kinh tế nhiều thành phần có đối lập, đối kháng thì chính trị với tư
cách là sự phản ánh của kinh tế thì chính trị cũng phải đa nguyên, đa đảng.
Thực tế đây là một quan điểm không đúng bởi 2 lý do : một là nền kinh tế
nhiều thành phần không chỉ có ở nước ta (một nước đang theo chế độ nhất
nguyên) mà nó còn tồn tại phổ biến ở nhiều nước với nhiều chế độ chính trị
khác nhau (nhất nguyên chính trị như Xingapo, Trung quốc, đa nguyên
chính trị như Mỹ), như vậy việc đa nguyên về kinh tế không nhất thiết phải
đa nguyên về chính trị. Hơn nữa, ở một nước có rất nhiều Đảng phái chính
trị như Mỹ thì mặc dù đường lối, chủ trương, tổ chức của các Đảng có khác
nhau nhưng thực chất các đảng này đều do giai cấp tư sản nắm quyền, vì
vậy xét cho cùng ở các nước này cũng là nhất nguyên về chính trị. Hai
trong kinh tế có đối kháng giữa các thành phần kinh tế nhưng nếu có một
thành phần kinh tế chủ đạo, đủ mạnh chi phối các thành phần kinh tế khác
thì sự đối kháng đối lập về kinh tế - xã hội sẽ không trở thành sự đối kháng
ở quy mô giai cấp. Ở nước ta, mặc dù kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh
tế nhà nước là chủ đạo thì sẽ không dẫn đến đối kháng giai cấp
Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường còn đòi hỏi có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần bao giờ cũng có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Để giữ
vững định hướng XHCN, phải có nhà nước mạnh mới có thể làm hạn chế
những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường. Muốn đạt hiệu quả cao
trong quá trình tác động phải xuất phát từ thực trạng kinh tế của đất nước

và nhận thức đúng, đầy đủ các quy luật khách quan của kinh tế. Nhà nước
tác động vào kinh tế còn phải thể hiện rõ vai trò của mình trong việc tạo môi
trường, điều tiết chính sách XH, quản lý, phân phối nguồn tài nguyên quốc
gia. Đồng thời, các chính sách nhà nước đề ra phải hạn chế đến mức tối
thiểu sự phân hóa xã hội, phải rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các
tầng lớp, trước hết là thu nhập kinh tế, phải làm cho mọi người hiểu hết nến
kinh tế thị trường
2. Khi xác định chủ trương “từng bước đổi mới về chính trị”, Đảng
đã nhận thức rõ : chính trị có ổn định thì kinh tế mới phát triển, hệ thống
chính trị phải phù hợp đổi mới kinh tế . Mọi chủ trương phát triển kinh tế
của đảng và nhà nước ngoài việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển còn phải
góp phần bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được như : độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và những thành quả đổi mới của nước ta. Mặt khác
sự đổi mới về chính trị là cần thiết bởi vì phải có quan điểm chính trị đúng
đắn và phù hợp với thời đại khi xử lý các vấn đề kinh tế như : vấn đề dân
tộc và giai cấp, quan hệ làm ăn với nước ngoài phải vì lợi ích của dân tộc.
Để đảm bảo chính trị là động lực, là mở đường cho kinh tế phát triển, thì
hệ thống chính trị phải tiến hành đổi mới. Không làm được điều đó hệ
thống chính trị sẽ không thể định hướng cho kinh tế và như thế nguy cơ
chệch hướng kinh tế hoàn toàn có thể xảy ra. Nghị quyết Đại hội VII đã chỉ
rõ nguy cơ chệch hướng kinh tế có thể bắt đều từ chính hình thái chính trị,
bắt đầu bằng chính những sa sút về đạo đức, yếu kém về năng lực của cán
bộ trong bộ máy chính trị, bằng nạn quan liêu, tham nhũng, trì trệ trong hệ
thống chính trị. Vì vậy, đổi mới nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống
chính trị là điều kiện cần thiết và cấp bách, nó chính là yếu tố quyết định
đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Đổi mới hệ thống
chính trị bao gồm:
- Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tăng cường và nâng cao hiệu lực của
các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên; đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội phù hợp với yêu cầu và quy

luật khách quan của nền kinh tế.
- Đổi mới bộ máy nhà nước và hướng tới là xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN, nghĩa là nhà nước quản lý điều hành xã hội bằng pháp
luật, là làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, đủ mạnh để lãnh đạo toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Nhà nước đủ mạnh thì đủ sức điều khiển bánh xe
kinh tế thị trường theo quỹ đạo XHCN và tiến lên CNXH, CNCS mang lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn dân tộc.
- Đổi mới các đoàn thể quần chúng nhân dân là làm cho các tổ
chức này với tư cách là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động. Làm
được điều đó có nghĩa là góp phần tạo ra động lực cho quá trình đổi mới,
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Đổi mới hệ thống chính trị và từng bước xây dựng, hoàn thiện nền dân
chủ XHCN có quan hệ biện chứng với nhau. Thực chất đổi mới và kiện
toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN. Dân chủ
là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ thống chính trị XHCN.
Làm tốt việc này chính là góp phần tạo ra động lực tổng hợp cho sự nghiệp
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta
Tóm lại, nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế và
vận dụng đúng đắn mối quan hệ đó là một trong những vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Từ những phân
tích trên ta thấy rằng bài học do Đảng ta nêu “Kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị” đó chính là nắm vững và vận dụng
đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào trong thực tiễn.Chính từ sự định hướng đúng đắn ấy cho
4
nên sau hơn 15 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và giữ vững sự ổn định chính trị, tạo đà cho kinh tế phát triển nhanh, đúng
hơn
5

×