Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nháy mắt - Tật hay là bệnh? ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.36 KB, 6 trang )


Nháy mắt - Tật hay là bệnh?



Về mặt định nghĩa tật nháy mắt hay tic mắt được coi là những cử
động không có chủ ý, thường xảy ra ở cả hai bên mắt, do co thắt cơ dưới da
mi, cơ vòng mi phần trước sụn và cung mày. Thoạt đầu đó là những co cơ
nhẹ nhàng nhưng sau đó là sự co cơ khá mạnh. Ngoài chuyện mắt nháy thì
cơ vùng mặt cũng có thể co giật theo. Các cơn co có thể kéo dài trong vài
giây đến vài phút.
Tật nháy mắt không hiếm gặp trong chuyên khoa mắt. Nhưng nếu có
kèm theo co rút khối cơ mặt hay có các bệnh lý toàn thân khác thì bệnh nhân
sẽ phân tán sang chuyên khoa thần kinh, phẫu thuật tạo hình Trong chuyên
khoa mắt thì tic mắt không gây mù lòa nhưng gây khó chịu, đôi khi rất khó
chịu. Ngoài chuyện “khó coi” về mặt thẩm mỹ thì tic mắt đôi khi làm cho
người bệnh không nhìn thấy gì cả, dù chỉ là thoáng qua. Thêm nữa, một số
bệnh nhân sẽ có quặm nhất thời do co quắp mi. Nếu không có những hiểu
biết nhất định về tic mắt thì chuyện chẩn đoán nhầm hay mổ nhầm sẽ có thể
xảy ra tuy chỉ là hi hữu. Biết thêm một chút về tật nháy mắt để giải thích cho
bệnh nhân, định hướng cho việc điều trị hay điều trị khỏi tật này thiết nghĩ là
điều các bác sĩ nhãn khoa nên chú ý. Sẽ có rất nhiều bệnh nhân đến khám vì
tật này. Nhưng lứa tuổi phổ biến từ 30-50 tuổi nếu bệnh nhân có kèm co rút
nửa mặt. Tuổi trên 50 là những bệnh nhân bị nháy mắt cả hai bên. Bệnh có
tính chất gia đình nếu nằm trong bệnh cảnh của hội chứng Meige, có tới 1/3
bệnh nhân bị rối loạn trương lực cơ vùng mặt theo nghiên cứu của Jankovic
có biểu hiện tic mắt. Nếu khai thác bệnh sử kỹ càng chúng ta sẽ thấy các cơn
tic mắt đầu tiên sẽ rất thầm lặng, kín đáo. Bệnh nhân chỉ hay chớp mắt hơn
bình thường hoặc khó khăn để giữ mắt mở to trong một thời gian. Điều kiện
để tic mắt lui giảm hay biến mất cũng rất phong phú. Có thể khi bệnh nhân
nói, hát, hay nhìn xuống tic mắt sẽ biến mất. Cơn tic mắt thường xuất hiện


khi bệnh nhân gặp stress. Tic mắt nặng lên khi bệnh nhân nhìn tập trung, khi
lắng nghe chăm chú hay đi lại. Thời khắc xuất hiện tic mắt cũng thay đổi
trong ngày tùy bệnh nhân và được cải thiện nhiều nếu bệnh nhân được nghỉ
ngơi.
Hình thái lâm sàng của tic mắt rất đa dạng. Chúng ta nên ghi nhớ
những hình thái chính sau đây:
- Hình thái nháy chủ yếu ở mắt, thường là cả hai bên, đây là dạng phổ
biến nhất.
- Hình thái loạn trương lực cơ vùng mặt: các cơ vòng mi, cơ cung này
và cơ trán đều bị ảnh hưởng.
- Tic mắt trong hội chứng Meige: thường gặp ở người trên 50 tuổi.
Bệnh nhân có biểu hiện rối loạn trương lực các cơ vùng sọ mặt: co rút các cơ
vòng mi, co dưới da, cơ nhai, cơ nói, cơ nuốt và các cơ vùng cổ. Bệnh có
tính chất di truyền theo nhiễm sắc thể X và là kiểu di truyền trội.
- Loạn trương lực cơ khu trú ở khối cơ vòng mi trước sụn: biểu hiện
chủ yếu là các loạn vận động của mi.
- Co rút cơ vùng mặt: đó là hiện tượng co các cơ vùng mặt thuộc chi
phối của dây thần kinh sọ não số VII. Nói chung các cơ mi sẽ co rút trước
sau đó sẽ lan sang các co cơ khác vùng mặt. Có khoảng 10% các co cơ xảy
ra về ban đêm. Hơn một nửa các trường hợp là bệnh nhân có tiền sử liệt dây
VII cùng bên trước đó.
- Quặm nhất thời do co cơ vòng mi trước sụn: thể lâm sàng này được
Jankovic nói đến trong loạt nghiên cứu trên 100 bệnh nhân của ông.
Nguyên nhân của tic mắt rất phức tạp, nhiều khi việc tìm kiếm căn
nguyên là vô vọng. Trong đó nguyên nhân tại thần kinh trung ương là phổ
biến nhất.
Nhóm nguyên nhân tiên phát bao gồm các tổn hại của nhân xám trung
ương: nhân củ trên, nhân đen Một số bệnh lý trong đó nơ-ron bị giảm tính
trơ đối với dopamine hay cường kích thích bởi dopamine. Hội chứng Meige
như đã trình bày ở trên.

Nhóm nguyên nhân thứ phát: trong một số hình thái động kinh cơn
nhỏ, trong các bệnh lý có tổn thương dây V hay dây V bị kích thích: loét
giác mạc, viêm màng bồ đào, khô mắt, zona mắt, các dạng bệnh lý có thái
hóa nơ-ron: Parkinson, hội chứng Wilson, bệnh xơ cứng mảng Ngoài ra
còn phải kể đến cơn Hysteria hay do việc dùng một số thuốc hướng thần
kinh.
Điều trị cơn tic mắt bao giờ cũng bắt đầu bằng việc dùng thuốc, nghỉ
ngơi và tâm lý liệu pháp. Các thuốc sẽ hướng vào việc lập lại cân bằng giữa
hai hệ: dopamine (chất trung gian thần kinh gây co cơ) và cholinergic (chất
trung gian thần kinh gây giãn cơ). Điều trị phẫu thuật chỉ là “cực chẳng đã”
với rất nhiều phương pháp phẫu thuật và thủ thuật: hủy một số nhánh của
dây thần kinh số VII bằng nhiệt, cồn hay cắt chọn lọc. Cắt lọc cơ vòng trên
sụn và trước sụn, treo mi. Tiêm độc tố gây liệt cơ (toxine botulique) là một
phương pháp điều trị mới, đang được phổ biến rộng rãi. Một liệu trình điều
trị có thể cải thiện tình hình trong 13-15 tuần, tuy nhiên việc xác định liều
lượng tiêm và một số tác dụng phụ của thuốc sẽ làm nhiều bác sĩ ít kinh
nghiệm phải chùn tay.
Cuộc sống nhiều stress sẽ làm nhiều người tic mắt hơn. Xác định
nguyên nhân để giải thích và tư vấn điều trị cho bệnh nhân sẽ cải thiện được
tình hình bệnh nhân bị “bỏ rơi” khi đến các phòng khám mắt. Thiết nghĩ việc
phối hợp tốt giữa 3 chuyên khoa: thần kinh, mắt và tạo hình nhất định sẽ tạo
ra được bước ngoặt lớn trong điều trị tic mắt.

×