Nguyễn Tuân và một tư duy nghệ thuật kiểu LIÊU TRAI
Yêu ngôn là tên gọi một tập sách nhà văn Nguyễn Tuân đã dự định
làm từ mấy năm 1942-1943 rồi bỏ đấy chưa kịp hoàn thành . Hai
chữ “yêu ngôn” dùng ở đây là nhằm để chỉ loại truyện ở đó cuộc
đời rờn rợn một không khí ma quái ; nhiều chuyện xảy ra nhỡn
tiền mà huyền hoặc như xưa nay chỉ có ở cõi âm ; nhân vật thì có
người mà lại có ma, người và ma sống lẫn lộn để rồi cùng nhau
làm nên những chuyện ly kỳ quái đản , song suy cho cùng lại gợi
ra cho người đọc thấy cái tinh thần sâu xa của đời sống hiện thực.
Điều đáng nói thêm là ngoài một cuốn Yêu ngôn cụ thể , tư duy
nghệ thuật kiểu Liêu Trai ở Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở nhiều thiên
tuỳ bút khác mà ông đã viết, chính cái phần tản mạn rời rạc ấy
cũng cho thấy Nguyễn Tuân là một ngòi bút nhất quán trong phong
cách biểu hiện. Sau đây là một ít bằng chứng rõ rệt nhất:
1. Ngay trong Vang bóng một thời đã nên lưu ý thêm tới Bữa rượu
máu (có lúc gọi là Chém treo ngành) với đoạn kết nhiều ngụ ý :
“Lúc quan công sứ ra về, khi bước ra mười hai cái đầu lâu còn dính
vào cổ người chết kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán nổi lên
một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoáy hút cát bụi lên, xoay
vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang về. Cái mũ
trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ
lăn lộn mấy vòng”.
Tìm đọc Phu nhân họ Bồ trong Tuỳ bút II , in ra 1943 , người ta
thấy Nguyễn Tuân bắt đầu nói tới “vẻ đẹp quái gở” , còn
trong Chiếc lư đồng mắt cua bắt đầu có những câu tưởng như bâng
quơ song thực ra là những nhận xét chết người , kiểu như “Cái gì
đẹp quá vốn ít khi là thực”. Cùng trong Tuỳ bút II, lại có một bài
khác (có nhiều chất của một truyện ngắn), mang tên Một cái tết vô
duyên. Đây là câu chuyện về một chàng trai trẻ, con của một người
đào hát, nên có tính lang bạt kỳ hồ. Bữa ấy, theo lời nhắn của mẹ,
cậu quay về gia đình ăn tết. Nhưng như có tiền định, khi cậu thử
bói xem năm mới ra sao thì bói gì cũng hỏng. Bói bằng cách khai
bút thì “bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xoá
nhèm cả mấy chữ cuối cùng”. Ra sông bói đò thì nhỡ đò. Quay về
bói tuồng, “cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung
nghĩa”, nhưng “số phận đã cho cậu bói đúng vào chiếc áo bào xanh
lè không có đầu”. Sau hết, tối lần ra chùa làng xóc thẻ, cậu rút phải
một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói. Như là một ma lực nào đó đã
nhất định buộc cậu phải trở lại cuộc sống giang hồ , và cậu Tám
đành đầu hàng số phận.
2. Ngọn đèn dầu lạc và Tàn đèn đầu lạc là hai tập phóng sự
Nguyễn Tuân viết về đám dân làng bẹp ( năm 1998 , cả hai đã
được nhà xuất bản Hải Phòng dồn lại in vào thành một cuốn
sách ). Ở đây, khi nói rằng có một người đàn bà muốn tự diệt mình
trong khói thuốc phiện, ông không ngần ngại liên tưởng ngay đến
“con hồ ly trong truyện Liêu Trai yêu người thư sinh chán , rồi rút
cục là biến mất và để lại cho trần gian một cái xác co quắp, hình
thù cổ quái”. Trong hai tập phóng sự này, mỗi khi nhắc nhở tới
không khí nơi tiệm hút, là một dịp để tác giả kêu lên: “Gớm sao mà
Bồ Tùng Linh thế!” “Sao mà Edgar Poe thế!”. Trong quan niệm
của tác giả bấy giờ, thì loại thi sĩ và các nhà viết tiểu thuyết có hơi
hướng thần bí mới là loại nhà văn đích thực, vượt lên trên các tác
giả của loại văn chương hạ cấp (trong chương Tập ký ức của người
bồi tiệm)
3. Một số người lầm tưởng rằng tư duy nghệ thuật kiểu Liêu
Trai chỉ có ở các sáng tác của Nguyễn Tuân thời kỳ trước 1945.
Nhưng không phải vậy. Trong kháng chiến chống Pháp, khi dựng
lại không khí một vùng buôn lậu, ông viết: “Danh từ Cống Thần tôi
tưởng như đó là tên một truyện quái dị, gợi đến một thiên tai có sự
rùng rợn của thuỷ hoả đạo đặc. Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ
lật ngửa những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao
nhiêu cái nhố nhăng kia lên giời ( )” (bài Cống Thần, in
trong Tuỳ bút kháng chiến.)
Sau này, viết Tình rừng khi tả những khu rừng cháy, ông lại để
cho liên tưởng của mình đi khá xa: “Ngồi trong lòng đò đuôi én
ngược thác sông Đà, tôi nhìn lên nhiều đám cháy trên đỉnh đầu, tàn
cháy nương mùa xuân bay đầy trời như những đàn bướm đen
nhúng cánh vào những ghềnh trắng bọt. Trên rừng cháy chỉ thấy
khói không thấy người. Nghĩ mà thấy giận người đốt rừng, chính
người đốt rừng ấy đang đốt bản thân mình, đang đốt cơ man nào là
sách in, trong ấy có cả sách của mình nữa”. Hoặc như, khi Kể
chuyện vĩ tuyến mười bảy (in trong Chuyện nghề), ông dừng lại kỹ
hơn ở nơi mà người ta hay bảo là có ma: “Đêm trăng tại nhà thờ ép
xác thiệt là buồn nhức xương Đêm thanh vắng, gió ngàn lùa về
tới đây cả tiếng tru tiếng sủa trăng của loài sói dấy lên từ phía Cây
Tấm, Bến Tắt. Chao ôi, tôi thật là cái anh hay vẽ chuyện. Nằm ở
nhà thờ Phước Sơn để nhìn những tủ sách Kinh La bụi bặm và
bước đi mình toàn là tiếng lạo xạo trên cơ man là mảnh vỡ cửa
kính giáo đường hoang vắng. Đêm gió lửa Tây ô mà sao lại thấy
rùng mình và rờn rợn khi nhìn vào mảng tối chen với ánh trăng
suông ”
4. Một phần tâm huyết của Nguyễn Tuân những năm cuối đời dồn
vào việc viết tiểu luận phê bình. Nhưng đó là những trang phê bình
của một người sáng tác nên cũng mang đậm sắc thái cá nhân, nói
cách khác, tác giả đã mang vào đấy những kinh nghiệm sống , đọc
bài phê bình người ta được biết không chỉ tác phẩm ông đang đọc,
mà còn cái phần con người riêng của ông. Dĩ nhiên, là người đã
viết yêu ngôn, Nguyễn Tuân cũng thường đọc ra ngay chất yêu
ngôn ở văn người khác. Chẳng hạn, trong số rất nhiều truyện ngắn
của Lỗ Tấn, Nguyễn Tuân có sự biệt nhãn với truyện Thuốc trong
đó có chi tiết cái bánh bao còn nóng máu người “đầy rẫy một mùi
thơm quái lạ”, và trong tay người ốm nó “phụt ra một luồng hơi
trắng”. Đọc Tắt đèn, ông liên tưởng ngay tới Những linh hồn
chết của N. Gogol, trong đó có nhân vật địa chủ “bằng một gái rất
rẻ, đã đi vơ vét những hồn ma là các tá điền nông nô đã chết, đem
danh sách cầm cho nhà băng lấy tiền”. Còn khi trở lại với thơ Tú
Xương, nhân mấy câu Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa - ú ớ u ơ ngọn
bút chì, Nguyễn Tuân có những lời bình rõ ra chất tư duy nghệ
thuật riêng ở ông: “Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải nghe một ông
dở người cắn đầu bút vào, mồm thấm nước bọt cho đậm thêm nét
bút chì và lấy quá tay hoá ra hóc thỏi chì. Nghe nó còn ghê ghê
như người cảm xúc quá khích vì hút chì, máu uất bốc lên, đâm cấm
khẩu giẫy đành đạch và ú ớ be be như có sự oan khiên, càng cần
nói ra lời thì lại càng thất thanh đi”.
Xét ở phương diện kết hợp văn hoá Đông Tây trong một ngòi bút
thì Nguyễn Tuân là một trong những trường hợp hiếm hoi: cái chất
Liêu Trai nói ở đây làm cho các trang sách của ông có một vẻ thâm
trầm cổ kính ít thấy trong văn chương thế kỷ XX.
Cũng xin nói thêm là trước khi trở thành một hiện tượng nghệ
thuật, kiểu tư duy này đã xuất hiện ở ông ngay trong đời sống hàng
ngày. Nhưng đây là một câu chuyện khá dài, chúng tôi sẽ xin trở
lại khi có điều kiện.
Vương Trí Nhàn