Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH THÔNG QUA GIỜ HỌC NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.66 KB, 13 trang )

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH THÔNG QUA GIỜ HỌC NGỮ VĂN
I. MỞ ĐẦU:

Từ lịch sử xa xưa của loài người, ông cha ta đã đặt chữ “ lễ, nghĩa” “ Tiên học lễ
hậu học văn” lên đầu làm nền móng giáo dục đạo đức HS, con người. Thực tế cho
thấy Thầy giáo Chu Văn An đã cảm hóa được học trò bằng chính đạo đức của mình và
người học trò đã vì chữ “nghĩa” với thầy mà làm việc nghĩa cho đến muôn đời sau vẫn
còn lưu truyền mãi mãi. Thế nhưng, để giữ được chữ “nghĩa” quả là điều trăn trở.
Ngày nay, phần lớn các bậc phụ huynh vẫn có tư tưởng là làm thế nào con em mình có
nhiều kiến thức, cho đi học thêm đủ thứ cốt để được vào trường công, sau này vào được
đại học,có một việc làm ổn định, chứ ít chú ý đến đạo đức của con em mình. Vì thế HS
đến trường còn vi phạm nội quy, không vâng lời thầy cô giáo. Trong gia đình, con cái
không nghe lời cha mẹ, lười học, trốn học đi chơi đang rất phổ biến. Trách nhiệm này
thuộc về ai? Gia đình, nhà trường hay xã hội? …rõ ràng là tất cả. Nhưng trách nhiệm
lớn nhất thuộc về nhà trường. Với HS cấp II, lứa tuổi thiếu niên được gọi là lứa tuổi
chuyển tiến. Các em đã có sự biến đổi không kém phần rõ rệt về bộ mặt bên ngoài,
trong hoạt động sinh lý cơ thể, trong thế giới bên trong. Vì vậy, để giáo dục đạo đức cho
HS được tốt, có hiệu quả, nhà trường đóng một vai trò hết sức quan trọng, trong đó
người giáo viên chủ nhiệm là nòng cốt, là giáo viên chủ nhiệm dạy bộ môn Ngữ Văn
càng có nhiều thuận lợi hơn. Làm thế nào để người công dân tương lai có đủ phẩm chất
và năng lực để bước vào đời? Đây là câu hỏi luôn đặt ra cho nhà trường. Với tư cách là
một giáo viên chủ nhiệm lớp 9 trong nhà trường và trực tiếp dạy bộ môn Ngữ Văn, bản
thân tôi thấy trách nhiệm, vị trí quan trọng của người giáo viên chủ nhiệm vô cùng to
lớn trong việc hình thành nhân cách HS. Đặc biệt là giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn
có rất nhiều thuận lợi mà những môn học khác ít có được.
 Môn Ngữ Văn: có vị trí đặc biệt ngoài việc giúp các em bước đầu có năng lực
cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, năng lực sử dụng Tiếng Việt như
một công cụ để tư duy và giao tiếp thì việc việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho học
sinh, góp phần hình thành ở học sinh biết yêu thương quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng
yêu quê hương đất nước, lòng nhân ái bao dung, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác …


II. THỰC TRẠNG Ở TRƯỜNG THCS PHAN CHU TRINH:
1) Về phía học sinh :
Là học sinh vùng ven có cả, hầu hết các em là con em gia đình lao động, ưu điểm là các
em rất ngoan, biết vâng lời, chịu khó học tập. Ý thức tham gia vào phong trào của lớp,
của đội rất cao. Tuy nhiên, vì là con em gia đình lao động, bố mẹ các em đi làm cả ngày,
GVCN muốn gặp phụ huynh là rất khó, có những gia đình không có điện thoại để liên
1
lạc, có 3 HS bố mẹ li dị hoặc là mồ côi phải sống với bà con, thành thử các em không
được giáo dục chu đáo. Nhiều em học yếu, ham chơi điện tử, chưa tự giác trong học tập
2) Về phía giáo viên:
Phần lớn giáo viên rất tâm huyết với nghề, tận tụy, hết lòng vì HS nhưng kết quả vẫn
chưa cao, chưa chấp hành tốt nội quy, hiện tượng đánh nhau còn nhiều. Làm thế nào để
HS chấp hành tốt nội quy của nhà trường, tích cực tham gia vào các phong trào hoạt
động của lớp, của đội, của Đoàn và của nhà trường. Qua nhiều năm làm công tác chủ
nhiệm lớp, tôi đúc kết, góp nhặt từ kinh nghiệm, kiến thức từ thực tiễn, từ sách báo, bạn
bè đồng nghiệp để góp phần giáo dục đạo đức HS phù hợp với trường THCS Phan
Chu Trinh thông qua các giờ học Ngữ Văn.
III. GIẢI PHÁP :
1) Giáo viên chủ nhiệm nắm vững tâm sinh lý của lứa tuổi HS:
Thiếu niên là lứa tuổi có nhận thức đa dạng, đang vươn lên làm người lớn ,lứa tuổi này
có tính cảm xúc cao, thoắt vui, thoắt buồn, thích lý sự và hay chống đối lại ý kiến của
cha mẹ và thầy cô. Đồng thời lứa tuổi này các em không thích sự quản lí khắt khe của
gia đình. Sẽ rất thuận lợi để giáo dục các em nếu như GVCN hiểu rõ được đặc điểm
này và trở thành một người đồng cảm chia sẻ với các em. Rõ ràng là không có một
phương pháp cụ thể nào cho bất cứ môn học nào ở nhà trường phổ thông nếu ta không
xuất phát từ đối tượng. Chương trình từ cấp I đến đại học phải được cấu tạo khác nhau,
tuy cùng một tác phẩm văn học dân gian “ Sọ Dừa” nhưng mức độ khác nhau do nhận
thức của đối tượng khác nhau. Ăng ghen đã nói:
“ Phương pháp là do đối tượng quyết định đối tượng nào phương pháp ấy ”. Theo
các nhà tâm lý học hiện đại trên thế giới người ta chia lứa tuổi HS phổ thông ra làm 3

giai đoạn: Lứa tuổi thiếu niên bé, lứa tuổi thiếu niên lớn và giai đoạn tiền thiếu niên.
Trong sự phát triển của đời người thì sự phát triển của tuổi chỉ là một yếu tố. Độ tuổi là
quan trọng nhưng nó phụ thuộc vào môi trường, khả năng tiếp xúc với đời sống xã hội.
Tuy có những trường hợp cá biệt song nhìn chung HS trong 3 giai đoạn này tương đối
ổn định. Đặc điểm của lứa tuổi thiếu niên bé: Độ tuổi từ 10 đến 12, tương ứng với HS
lớp 6,7. Theo các nhà tâm lý học thì đây là lứa tuổi nằm trong những năm tháng mà con
người đang mở ra cho mình những cảm xúc và hứng thú mới mẻ. Đây là lứa tuổi giàu
cảm xúc nhất trong một đời người. Thế giới nội tâm và quan hệ xã hội xung quanh của
lứa tuổi này rất phức tạp. Về hành vi các em còn mang tính trẻ con, nhưng ý thức lại cho
mình là người lớn. Các em thường mâu thuẫn giữa hành động bên ngoài và nội tâm bên
trong. Các em đã có hứng thú và cảm xúc mới mẻ, phương pháp hiếu động. Các em
ngồi học không yên, hay nói chuyện riêng, thiếu tập trung trong giờ học … Để ổn định
được làn sóng này là điều rất khó. Chính cái hiếu động cảm xúc ấy, bản thân nó lại bao
hàm một năng lực sáng tạo to lớn. Cụ thể là năng khiếu sáng tạo biểu hiện rõ trong văn
học. Các em dễ dàng đồng cảm với nhân vật, nhập cuộc sống với tác giả.

Đặc điểm nhận thức của HS lớp 8,9: Đã xuất hiện một chuyển biến đáng kể và
năng lức cảm thụ văn học. Sự đánh giá nhìn nhận của các em đã tập trung vào nội tạng
2
của mình. Các em gái đã bắt đầu viết nhật ký, tình cảm yêu đương. Tư chất cá nhân
từng HS đã hình thành khá rõ nét. Năng khiếu của các em dễ dàng nhận ra. Với tập thể
các em đã biết đoàn kết, bao che cho nhau kể cả những sai trái. Từ những đặc điểm tâm
sinh lý của 2 giai đoạn HS cấp II người giáo viên phải đề ra cho mình những phương
hướng cụ thể, ngoài công tác chủ nhiệm như thông qua giờ chào cờ, sinh hoạt lớp, hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đặc biệt thông qua các giờ học Ngữ Văn giáo viên
lồng vào bài giảng một cách khéo léo, linh hoạt để giáo dục các em.
2) Trong giờ học Ngữ Văn: Đầu tiên là tạo tâm thế thoải mái ngay từ đầu giờ
học, việc kiểm tra bài cũ không nhất thiết phải là đọc thuộc hết bài thơ hay ghi nhớ, mà
có thể bằng câu hỏi trắc nghiệm, những phần nào các em nắm chắc, nhất là học sinh yếu
kém để tự các em lựa chọn, giáo viên cần cộng thêm một điểm cho những HS soạn bài

tốt, trình bày vở cẩn thận, trả lời hay, có ý tưởng mới, hay phát biểu xây dựng bài …
Làm như vậy để các em ham thích môn học này, Nói cụ thể hơn là trong các tiết giảng
văn đối với học sinh lớp 9 văn bản nào cũng có thể khơi dậy sự tự nhận thức sâu sắc,
sau đây là một số ví dụ cụ thể: Khâu hướng dẫn các em soạn bài ở nhà là rất quan
trọng, yêu cầu các em đọc, nghiền ngẫm văn bản, ghi những ý chính mình tâm đắc, tóm
tắt văn bản ( nếu là văn bản tự sự ), đọc thuộc trước các văn bản trữ tình, đọc trả lời câu
hỏi. Nhất là trong phần bài giảng của mình giáo viên linh hoạt lồng vào bài bằng xúc
cảm thật sự, không nên gượng ép. Bởi lẽ, những lời giảng hay của thầy có khi theo học
sinh suốt cả cuộc đời. Phần lồng ghép giáo dục đạo đức cho HS có thể bằng nhiều hình
thức: Lời giảng của giáo viên, tranh ảnh, băng hình, các em tự đặt câu hỏi, thảo luận
nhóm lớn, nhóm nhỏ…Sau đây chỉ là một vài ý tưởng trong các giờ dạy của mình mà
chính bản thân tôi đúc kết được.
 ĐỐI VỚI VĂN BẢN NHẬT DỤNG:
 Phần giới thiệu bài với những văn bản “ Bức thư của lĩnh da đỏ”, “ Một ngày
không dùng bao bì ni lông”, “ Ôn dịch, thuốc lá” …GV có thể sử dụng tranh ảnh,
băng hình minh hoạ ghi những hình ảnh thiên nhiên bị tàn phá, rác thải, cảnh ngập lụt,
những người bị viêm phổi nặng do hút thuốc lá … hay là những bài báo viết về dân số
tăng dẫn đến nạn thất nghiệp để học sinh phát biểu, từ đó các em tự nhận thức được.
- Giáo dục các em về lối sống giản dị, có văn hoá, trong cách ăn mặc nói năng …qua
văn bản “ Đức tính giản dị của Bác Hồ”, “Phong cách Hồ Chí Minh”, qua thảo
luận câu hỏi: Tìm hiểu về cách sống của Bác, lối sống giản dị, thanh cao của Bác Hồ đã
bồi đắp thêm tình cảm nào của chúng ta đối với Bác Hồ? Em sẽ làm gì để noi theo
gương Bác? Giáo viên có thể giảng bình ở phần này: Với một vị lãnh tụ suốt đời vì
nước, vì dân -một người đã từng đưa đất nước Việt Nam từ bóng tối nô lệ được làm chủ
cuộc đời,một con người từng đi nhiều nước, nói nhiều thứ tiếng -một con người vĩ đại
như thế lại có một lối sống vô cùng bình dị, đạm bạc như vậy, thật đáng cảm phục biết
nhường nào !
- Có thể cho HS thi tìm những câu thơ, câu văn ngoài 2 văn bản đó nói lên sự giản dị của
Bác Hồ:
Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị ,

3
Màu quê hương bền bỉ đậm đà …
Giọng của Người không phải sấm trên cao,
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước
Nơi Bác ở: sàn mây vách gió,
Sáng nghe chim rừng hót sau nhà
( Tố Hữu )
Người thường bỏ lại đĩa thịt gà mà ăn hết mấy quả cà xứ Nghệ,
Tránh nói to mà đi rất nhẹ nhàng.
( Việt Phương)
 ĐỐI VỚI VĂN HỌC TRUNG ĐẠI:
Qua “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du và “ Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ, Truyện “ Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu …các em thấy được cảm
hứng nhân đạo –lòng thương yêu con người sâu sắc, chan chứa để các em trân trọng vẻ
đẹp của con người, đồng cảm với nỗi đau của nhân vật. Bồi dưỡng tư tưởng cho các em
biết chia sẽ với những con người tài hoa, bạc mệnh, biết làm việc nghĩa giúp đời …
 ĐỐI VỚI VĂN HỌC HIỆN ĐẠI:
- Bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước qua truyện ngắn “ Làng” của Kim Lân
- Cho các em trao đổi, thảo luận: Khi tương lai đất nước đang hi vọng vào sự cống
hiến của thế hệ trẻ hiện nay, bản thân em nghĩ như thế nào về việc học tập, rèn luyện của
bản thân? Những việc làm cụ thể đó là gì? Để từ đó các em nhận thức sâu sắc biết
sống đúng, sống đẹp là cống hiến cho đời. Giáo dục các em về tình phụ tử trong chiến
tranh, tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt …Đặc biệt qua truyện “ Bến quê” của Nguyễn
Minh Châu làm cho các em tự cảm nhận được những vẻ đẹp bình dị mà quý giá xung
quanh mình.
 ĐỐI VỚI CÁC TIẾT THI LÀM THƠ 5 CHỮ, 7 CHỮ, 8 CHỮ:
- GV hướng dẫn các em tập làm thơ theo chủ đề ví dụ như: về mẹ, về tình bạn, tình
thầy trò, tình cảm quê hương, … có những em có bài thơ rất độc đáo, những giờ học như
vậy khiến các em nhớ mãi.
- Có những bài thơ về Tình thầy các em làm như sau:


Nghĩ về thầy
Em như con thuyền nhỏ
Giữa biển trời mênh mông
Thầy như người cầm lái
Đưa thuyền em ra khơi.
4
Em như cánh diều nhỏ
Giữa bầu trời bao la
Thầy như là ngọn gió
Nâng cánh diều bay xa.
Năm tháng vẫn trôi qua
Biển đời dâng đầy sóng
Thầy như là người cha
Dắt em vào cuộc sống …!
 ĐỐI VỚI CÁC GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT:
- Ở các tiết học này giáo viên có thể linh động tuỳ theo từng bài để lồng ghép ví dụ như:
khi học “câu cầu khiến” thì cho các em thi đặt câu về chủ đề “ Bảo vệ môi trường”:
 Bạn hãy bỏ rác đúng nơi quy định !
 Chúng ta đừng vứt rác bừa bãi !
Mọi người hãy giữ gìn vệ sinh chung ! …
“Khuyên bạn trong học tập”, “ Chấp hành nội quy trường, lớp”…
- Với bài: “ Câu cảm thán” thì cho các em viết đoạn văn nói về cảm xúc của em trước
sự quan tâm chăm sóc của mẹ, trong đó có dùng câu cảm thán …( Tình cảm của mẹ
dành cho em sâu sắc biết nhường nào ! ). Hay cho các em thi đặt câu dựa vào các tác
phẩm: Lão Hạc, Cô bé bán diêm, chiếc lá cuối cùng…đặt những câu cảm thán?
 Chao ôi ! Sự hi sinh của cụ Bơ-men thật cao cả.
 Cái chết của cô bé bán diêm thật thương tâm biết bao.
 ĐỐI VỚI CÁC BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN:
Cách ra đề của giáo viên cũng góp phần giúp các em nhận thức đúng đắn về nhiều mặt

ví dụ ở lớp 7 có “ Biểu cảm” cho các em phát biểu cảm nghĩ về người thân( với bố
mẹ, ông, bà…), ở lớp 8 có bài viết số 7, có những đề bài có ý nghĩa giáo dục rất cao:
Hãy nói “không” với các tệ nạn. ( Gợi ý: Hãy viết một bài nghị luận để nêu rõ tác hại của
một trong các tệ nạn xã hội mà chúng ta cần phải kiên quyết và nhanh chóng bài trừ như cờ
bạc, thuốc lá, tiêm chích ma tuý, hoặc tiếp xúc với văn hoá phẩm không lành mạnh,…). Qua
bài viết này, học sinh tự nhận thức được các tệ nạn xã hội như cờ bạc, thuốc lá, tiêm
chích ma túy …là thói hư tật xấu gây ra những tác hại ghê gớm với bản thân, gia đình và
xã hội về nhiều mặt: Tư tưởng, đạo đức, sức khoẻ, kinh tế, nòi giống …Đây là mối
nguy cơ trước mắt và lâu dài của đất nước, dân tộc. Từ đó các em biết kiềm chế trước
những thú vui không lành mạnh và chung tay góp sức đẩy lùi, tiến tới đấu tranh tiêu diệt
tệ nạn để cuộc sống ngày càng trong sạch tốt đẹp hơn.
Ở lớp 9, bài viết số 5, có rất nhiều đề bài rất gần gũi với đời sống thường nhật, có ý
nghĩa giáo dục sâu sắc ví dụ: Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì
mãi chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của
em về hiện tượng đó. Sau khi gợi ý các em làm dàn bài đề này, giáo viên định hướng cho
5
các em, tiếp xúc với máy tính không phải là không có lợi, nhưng phải biết chỗ lợi, hại
đó …Hay là đề: Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác ra đường hoặc những nơi
công cộng. Ngồi bên hồ, dù là hồ đẹp nổi tiếng, người ta cũng tiện tay vứt rác xuống … Em
hãy đặt một nhan đề để gọi tên hiện tượng ấy và viết bài văn nêu suy nghĩ của mình. Từ
việc hướng dẫn học sinh phân tích các nguyên nhân, tác hại thì giúp các em thấm thía
một điều: Muốn xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, văn minh, bản thân mỗi người phải
có ý thức giữ gìn, bảo vệ phát huy nếp sống “ Mình vì mọi người”, nâng cao trách
nhiệm đối với cộng đồng. Có như vậy môi trường sống mới trở nên xanh -sạch-đẹp và
Trái đất mới thực sự là ngôi nhà chung đáng yêu của tất cả nhân loại.
BÀI MINH HOẠ
Tuần 10 THÔNG TIN VỀ NGÀY TRÁI ĐẤT NĂM 2000
Tiết 39
Ngày soạn: 13/11/2006
Ngày dạy: 15/11/2006

Lớp dạy:
A. Mục tiêu cần đạt: Giúp HS:
- Thấy được tác hại, mặt trái của việc sử dụng bao bì ni lông, tự mình hạn chế sử dụng
bao bì ni lông và vận động mọi người cùng thực hiện khi có điều kiện.
- Từ việc sử dụng bao bì ni lông, có những suy nghĩ tích cực về các việc tương tự trong
vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt, một vấn đề vào loại khó giải quyết nhất trong nhiệm vụ
bảo vệ môi trường. Giáo dục cho HS có ý thức bảo vệ môi trường bằng những việc làm
và hành động cụ thể.
B. Chuẩn bị: - GV: Đọc kỹ mục “Những điều cần lưu ý” SGV. Tìm hiểu việc dùng
bao bì ni lông ở địa phương, liên hệ với thành phố Đà Lạt. Chuẩn bị tranh ảnh, băng
hình, các bài báo nói về môi trường hiện nay …Tích hợp với VB thuyết minh ở TLV, với
một số kiến thức khoa học tự nhiên nhất là môn Hóa học.
- HS đọc trước văn bản, soạn bài, bảng con, bảng nhóm.
6
C. Các bước lên lớp :
1. Ổn định lớp:
2.Kiểm tra bài cũ:
 1HS lên bảng làm câu hỏi trắc nghiệm:
Câu 1: Các tác phẩm ( Tôi đi học, Trong lòng mẹ Tức nước vỡ bờ, Lão Hạc ) được sáng
tác thời kỳ nào?
A. 1900 - 1930 C. 1945 - 1954
B. 1930 – 1945 ( Câu B) D. 1955 – 1975
Câu 2: Nhận định nào nói đúng nhất giá trị của các VB: Trong lòng mẹ, Tức nước vỡ
bờ, Lão Hạc ?
A. Giá trị hiện thực. C. Cả A và B đều đúng ( Câu
C)
B. Giá trị nhân đạo. D. Cả A và B đều sai.
Câu 3:Truyện ngắn “Tôi đi học” bố cục theo dòng hồi tưởng, cảm nghĩ của nhân vật
“tôi”, đúng theo trình tự thời gian của buổi tựu trường.
A. Đúng ( Câu A) B. Sai

Câu 4: Điền vào chỗ trống cho đúng với tên tác giả,năm sáng tác, nội dung chính của
các văn bản?
TÊN VĂN BẢN TÁC GIẢ NĂM SÁNG
TÁC
NỘI DUNG CHÍNH
Tức nước vỡ bờ
Trong lòng mẹ
Lão Hạc
1HS lên bảng trả lời câu hỏi phần tự luận:
-Nêu những điểm giống và khác nhau của các VB: Trong lòng mẹ, Tức nước vỡ bờ,
Lão Hạc Về đề tài, thể loại, giá trị tư tưởng, giá trị nghệ thuật?
3. Bài mới:
 Giới thiệu bài: GV cho HS xem một đoạn băng về rác thải ( trong đó có rác thải ni
lông ) => Hỏi học sinh: Đoạn băng gợi cho em suy nghĩ gì? (HS trả lời có thể nhiều ý
khác nhau ).
GV: Môi trường sống chung quanh ta đang bị đe dọa hết sức nghiêm trọng, có rất nhiều
nguyên nhân, một trong những nguyên nhân không thể không kể đến đó là việc sử dụng
bao bì ni lông hàng ngày. Tác hại của việc dùng bao bì ni lông ảnh hưởng như thế nào
đến sức khỏe con người cũng như môi trường tự nhiên. VB “ Thông tin về ngày trái
đất năm 2000” sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin về vấn đề đó.

Tiến trình bài học.
HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS GHI BẢNG
7
Hoạt động 1: Tìm hiểu về
hoàn cảnh ra đời, thể loại văn
bản.
- VB “ Thông tin về ngày trái
đất năm 2000” thuộc văn bản
nào mà ta đã học? Vì sao em

biết ?
- Ở lớp 6 ,7 ta đã học những
VB nhật dụng nào?
- GV hướng dẫn HS đọc:
Đọc rõ ràng, mạch lạc, chú ý
phát âm đúng những thuật
ngữ chuyên môn, cần thể hiện
giọng điệu của một lời kêu gọi
=> GV đọc mẫu, gọi HS đọc.
Hoạt động 2:
- Tìm bố cục của VB? Nội
dung của mỗi phần?
- Phân tích tính chặt chẽ của
bố cục ?
Hoạt động 3:
- Theo em, Nguyên nhân cơ
bản nào khiến cho việc sử
dụng bao bì ni lông ảnh hưởng
đến sức khỏe và môi trường tự
nhiên? Em có thể giải thích
- 1HS trả lời, những HS
khác bổ sung.
-Văn bản Nhật dụng vì nội
dung bàn về vấn đề nóng
bỏng của xã hội hiện này đó
là về môi trường.
- 1 hoặc 2 HS trả lời: (Lớp
6: Động Phong Nha, Cầu
Long Biên, Bức thư của thủ
lĩnh da đỏ. Lớp 7: Cổng

trường mở ra, Cuộc chia tay
của những con búp bê …
- 3 HS đọc nối tiếp. Những
HS khác nhận xét về giọng
đọc, tác phong …
- HS đọc thầm chú thích,
lưu ý các chú thích 2,3,4.
3 phần: 1: Từ đầu đến “
Một ngày không sử dụng
bao bì ni lông”: Trình bày
nguyên nhân ra đời của bản
thông điệp này. 2: Tiếp cho
đến: “ Ô nhiễm nghiêm
trọng đối với môi trường”:
Phân tích tác hại của việc
sử dụng bao bì ni lông và
giải pháp. Còn lại: Lời
kêu gọi
-Phần 1 rất ngắn gọn mà
nêu được sự ra đời của bản
thông điệp này. Phần 2:
đoạn 1 đi từ nguyên nhân
đến hậu quả và đề ra giải
pháp một cách tự nhiên qua
từ “ vì vậy”. Phần 3: dùng
3 từ “ Hãy” tất phù hợp với
1 lời kêu gọi.
-1 HS đọc lại đoạn 1:
-1 HS đọc đoạn 2:
-Tính không phân hủy của

I. Giới thiệu:
- Văn bản nhật dụng.
- 22/ 4/ 2000 Việt Nam
tham gia ngày trái đất
với chủ đề “ Một ngày
không sử dụng bao bì
ni lông”
II. Đọc – hiểu văn
bản
1) Thông báo về
ngày trái đất:
8
cho các bạn cùng nghe?
- GV treo bảng phụ ghi sẵn
câu hỏi.
1) Theo dõi phần 2 cho biết:
Những tác hại nào của bao bì
ni lông ảnh hưởng đến sức
khỏe con người, những tác hại
nào hủy hoại môi trường?
Ngoài ra còn có những tác hại
nào khác?
2) Em có suy nghĩ gì về những
tác hại đó ?
- Khi nói về tác hại của việc
dùng bao bì ni lông tác giả đã
dùng phương pháp nào?
GV :Đó chính là phương
pháp thuyết minh. Vậy thuyết
nhựa pla-xtíc.

- 1 HS giải thích: Bao bì ni
lông không thể phân huỷ
như các loại cọng rau, bã
chè …
Thảo luận theo nhóm
( 8 Phút ).
- 2 HS của 2 nhóm trình bày
trước lớp, Những HS khác
nhận xét, bổ sung.
a)Đối với môi trường: Cản
trở quá trình sinh trưởng của
các loài thực vật, xói mòn,
tắc nghẽn cống, gây ngập
lụt, sinh vật nuốt phải chết,
đốt làm thủng tầng ôzôn.
Ngoài ra làm mất vẻ mĩ
quan, rác buộc trong bao bì
ni lông khó phân hủy sẽ gây
ra mùi thối khai, cản trở sự
phân hủy. Hàng năm có
hơn 400.000 tấn pô-li-ê-ti-
len được chôn lấp tại miền
Bắc nước Mĩ, tại vườn thú
Ấn Độ 90 con hươu đã chết
do ăn phải hộp nhựa đựng
thức ăn thừa của khách tham
quan du lịch. Hàng năm
trên thế giới có 100.000
chim, thú biển chết do nuốt
phải bao bì ni lông … Ở

nước ta ngày 23 Tết quý
mùi 2003 vừa qua đã vứt
khá nhiều túi ni lông thả cá
chép xuống Hồ Gươm.
b) Đối với sức khỏe: Lây
dịch bệnh, ô nhiễm thực
phẩm, đốt gây ngộ độc, ung
thư, dị tật bẩm sinh cho trẻ
sơ sinh.
2) Tác hại của việc
sử dụng bao bì ni
lông:

Đối với môi trường:
Cản trở sự sự phân
hủy của đất đai, làm
thủng tầng ôzôn, động
vật nuốt phải chết …

Đối với sức khỏe:
Lây dịch bệnh, gây
ung thư, ngộ độc …
 Liệt kê, phân tích
trên cơ sở khoa học:
Tác hại nghiêm
9
minh là gì chúng ta tìm hiểu
VB thuyết minh vào tiết sau.
- Tác hại của bao bì ni lông
như vậy tác giả đã đưa ra

những giải pháp nào ?
-GV phát phiếu thảo luận theo
nhóm:
1) Theo em, ngoài tác hại của
bao bì ni lông còn có những
nguyên nhân nào khác làm ô
nhiễm môi trường?
2) Chúng ta phải làm gì để
góp phần bảo vệ môi trường?
Liên hệ với thành phố hoa Đà
Lạt ?
Hoạt động 4:
-Tại sao tác giả lại đưa nhiệm
vụ trước hành động ?
- Em có biết hiện nay có
những phương thức xử lý về
bao bì ni lông?
GV đưa ra 3 phương án:
Chôn lấp, đốt, tái chế đều gặp
nhiều trở ngại, khó thực hiện.
vậy VB đưa ra phương án “
Một ngày không sử dụng bao
bì ni lông” em thấy như thế
nào?
GV: Liên hệ ở đất nước XIN-
ga-po sạch nhất thế giới: Mỗi
người dân vứt rác ra đường
phạt tương đương tám trăm
ngàn đống Việt Nam: giáo
dục HS có ý thức bảo vệ môi

trường - ngôi nhà chung của
tất cả chúng ta ( Hãy giữ cho
2)Điều đó làm cho chúng
ta hết sức lo ngại và tự
mình phải có trách nhiệm
1 phần.
-Liệt kê, phân tích trên cơ
sở khoa học.
-Hạn chế dùng, giặt phơi
khô dùng lại, thay thế bằng
giấy, lá để gói, tuyên truyền
cho mọi người biết về tác
hại của bao bì ni lông.
Thảo luận ( 5 Phút ). 2 HS
của 2 nhóm trình bày, những
HS khác nghe và bổ sung
1) Nguyên nhân khác: xả
rác bừa bãi, ô nhiễm nguồn
nước, các lò giết mổ chưa
đảm bảo vệ sinh, dùng thuốc
bảo vệ thực vật, chặt phá
rừng…
2) Chúng ta phải bảo vệ môi
trường, không xả rác bừa
bãi, đổ rác đúng nơi quy
định, hạn chế dùng bao bì ni
lông, giữ gìn vệ sinh ở nhà,
ở trường, ở nơi công cộng.
Đà Lạt đang xây dựng hệ
thống nước thải, Xây dựng

thành phố du lịch sinh
thái ,Thành phố xanh đầu
tiên của Việt Nam, mỗi gia
đình trồng một cây xanh,
thường xuyên tổng vệ sinh
đường phố …
-1HS đọc đoạn cuối. Cả lớp
độc lập suy nghĩ trả lời câu
hỏi, HS khác bổ sung.
trọng của bao bì ni
lông.
 Giải pháp:
- Hạn chế dùng, tuyên
truyền cho mọi người
biết về tác hại của việc
sử dụng bao bì ni lông.
3) Lời kêu gọi:
- Bảo vệ trái đất.
- Hành động “ Một
ngày không sử dụng
bao bì ni lông”
 Hợp tình, hợp lý.
10
sạch nhà, sạch trường, sạch
đường phố, góp phần làm đẹp
cho cảnh quan môi trường )
Điểm chốt: Qua VB này, em
hiểu được vấn đề gì về việc
sử dụng bao bì ni lông?
- Qua bài học, em hãy liên hệ

ở địa phương em về vấn đề thu
gom rác thải, sử dụng bao bì ni
lông?
- Em có thể đưa ra ý tưởng của
em về vấn đề sử dụng bao bì
ni lông, xử lí rác thải hiện
nay? a
- Muốn giữ gìn trường lớp,
bản thân em phải làm gì?
- Chôn lấp, đốt, tái chế
-2HS giỏi phân tích những
khó khăn của từng phương
án.
- Chôn lấp nhiều mất diện
tích canh tác, đốt thì gây ra
chất độc, tái chế rất tốn kém
-Bảo vệ trái đất là vô cùng
quan trọng, vấn đề to lớn
khắp mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, tự nhiên con người –
Hành động“ Một ngày
không sử dụng bao bì ni
lông” là hợp tình, hợp lý.
-Ghi nhớ SGK/ 107.
- HS nêu: Giặt phơi khô
dùng lại, dùng giấy gói, sản
xuất bao bì ni lông tự phân
huỷ …Tuyên truyền cho
mọi người: giữ sạch nhà,
sạch trường, đẹp phố …

- Bỏ rác đúng nơi quy định.
- Mỗi bạn có một quyển vở
nháp, không xé giấy, làm vệ
sinh sạch sẽ, không để rác
len lõi trong hộc bàn …
III. Tổng kết
 Ghi nhớ SGK/
107.
4. Củng cố:
Thông qua các câu hỏi trắc nghiệm.
 2 HS của 2 nhóm lớn lên bảng thi nhau đặt câu cầu khiến có nội dung khuyên bảo đề
nghị liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường.
5.Hướng dẫn về nhà:
- HS học bài - Mỗi HS cúi xuống gầm bàn, chỗ đang ngồi lượm hết rác gom bỏ vào
thùng rác - Soạn bài: NÓI GIẢM, NÓI TRÁNH.
- Bài tập về nhà: Viết một đoạn văn kêu gọi mọi người “ Hãy bảo vệ môi
trường”.
 Rút kinh nghiệm:



11
IV. KẾT QUẢ: Trong những năm học qua, những biện pháp trên bản thân tôi đã áp
dụng và đạt hiệu quả. Tuy nhiên, cũng cần phải có sự phối hợp với BGH nhà trường,
Đoàn, Đội, GVBM. Nhất là bản thân GV phải không ngừng nỗ lực học hỏi kinh nghiệm
của những trường khác, huyện khác, cần trân trọng hết sức những cố gắng nỗ lực của
HS, lắng nghe những ý kiến của các em cho dù đó là việc làm nhỏ nhặt nhất, có như vậy
mới đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục …
Trong năm học 2004 - 2005 toi được phân công giảng dạy 4 lớp ( 2lớp 8 và 2 lớp 9 ). Kết quả
xep loại hạnh kiểm như sau :

TỐT KHÁ TRUNG BÌNH
TS % TS % TS %
92 61% 54 35,8% 5 3,3%
Năm học 2005-2006, toi được phân công giảng dạy 4 lớp ( 2lớp 8 và 2 lớp 9 ) kết quả học kì I
như sau :
TỐT KHÁ TRUNG BÌNH
TS % TS % TS %
96 64,9% 48 32,4% 4 2,7%
V. Kết luận:
Là một nhà giáo dục, người giáo viên có những biện pháp sư phạm, những tình huống tâm lý
khi cần sử dụng phải tùy thuộc vào đối tượng học sinh, tuỳ thuộc mục tiêu của từng bài học.
Nghệ thuật khéo léo của người giáo viên đứng lớp thể hiện niềm tin vào những phẩm chất tốt
đẹp trong nhân cách HS. Nó gợi lên trong tâm hồn các em tình cảm, cảm xúc mới. Nó được
thể hiện ngay trong bản thân, tập thể lớp của các em. Đó là tình cảm kính yêu ông bà, cha mẹ,
thầy cô …là sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ bạn bè, sau này lớn lên cho dù có làm ngành nghề
gì các em cũng là người có nhân cách, đạo đức tốt, có ích cho xã hội.
Trên đây là một số giải pháp về việc giáo dục đạo đức cho HS thông qua giờ học Ngữ Văn.
Đây là một vấn đề lâu dài, kiên trì áp dụng mới có hiệu quả, đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt,
khéo léo, qua mỗi tiết dạy, mỗi giờ lên lớp, qua bao năm tháng mỗi GV sẽ đúc kết cho mình
những kinh nghiệm để góp phần giáo dục học sinh hiệu quả tốt nhất.
Tôi mong nhận được sự đóng góp của BGH và tất cả các thầy cô giáo - những người đang
ươm những mầm xanh cho đất nước mai sau những ý kiến thật sự quý báu.
Đà Lạt, tháng 2 năm 2006
GV thực hiện:

12
Hồ Thị Ngọc Ánh

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1) Tạp chí “Thế giới trong ta”.
2) Tạp chí “Văn học và tuổi trẻ”.
3) Báo giáo dục và thời đại
4) Tạp chí “ Thông tin khoa học Giáo dục”.

13

×